Vợ nhặt Kim Lân

snowflakes_2110

New member
Xu
0
Viết truyện ngắn Vợ Nhặt, Kim Lân cho rằng " Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà họ nghĩ đên cái sống".

Hãy phân tích tác phẩm Vợ Nhặt để làm sáng tỏ ý kiến trên của nhà văn Kim Lân.


Đề 1: Nhà giáo Trần Đồng Minh nhận xét về tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân: “Nhà văn dùng Vợ nhặt làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”.
(dẫn theo Hoài Việt – Nhà văn trong nhà trường: Kim Lân, NXB Giáo dục, 1999, tr.39).

Trình bày cảm nhận của anh / chị về bóng tối và những tia sáng ấm lòng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.


Gợi ý
1. Giải thích ý kiến...
2. Chứng minh:


- Bóng tối: Bức tranh nạn đói xóm ngụ cư
- Những tia sáng ấm lòng:
+ Niềm khát khao hạnh phúc gia đình, niềm tin vào tương lai ( Tràng, thị, Xóm ngụ cư)
+ Vẻ đẹp tình người, niềm lạc quan vào tương lai ( bà cụ Tứ)
+ Tia sáng của cách mạng ( chi tiết cuối truyện)

3. Đánh giá chung: nội dung; nghệ thuật…


Đề 2: Đọc truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân ), nhà giáo Đỗ Kim Hồi nhận xét: “ Cuộc đời éo le và nhân hậu làm sao dưới ngòi bút Kim Lân”.
Anh ( chị ) có đồng ý với nhận xét trên hay không ? Hãy trình bày ý kiến của anh/chị?

Đề 3: Đọc Vợ nhặt, không ai quên được hình ảnh nồi cháo cám của bà cụ Tứ ở cuối truyện. Anh (chị) hãy viết lời bình về chi tiết nghệ thuật đặc sắc này của Kim Lân.


Gợi ý

1. Mở bài

2. Thân bài:

a) Chi tiết nghệ thuật: Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thì góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là nhờ chi tiết.

b) Chi tiết nồi cháo cám

- Vị trí của chi tiết trong truyện ngắn ( tóm tắt : nằm trong phần 2 của truyện ngắn , cụ thể đó là món ăn duy nhất của cả nhà trong buổi sáng ngày hôm sau )
- Ý nghĩa
+ Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn “sang quý” của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Trong hoàn cảnh của nạn đói năm 1945, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”, nồi cháo cám lại là món ăn không thể không có.
+ Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ :
(1) Bà cụ Tứ: người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực ( mặc dù đã già nhưng bà vẫn dậy sớm chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà; hơn thế nữa khi cái đói đang rình rập bà vẫn cố gắng để có được “bữa tiệc” cưới giản dị cho con trai của mình).
(2) Tràng: “Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, cách ứng xử này vừa cho thấy Tràng là người chồng có trách nhiệm với nỗi thẹn không thể dành cho người vợ mới cưới của mình một bữa ăn đủ đầy, một tiệc cưới sang trọng ; vừa cho thấy Tràng là người con hết sức khéo léo trong cách cư xử với mẹ, hiểu rõ được hoàn cảnh của gia đình mình..
(3) Vợ Tràng: qua chi tiết này ta càng khẳng định được sự thay đổi về tính cách của vợ Tràng. Hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Điều đó cũng cho thấy vợ Tràng không còn nét cách đỏng đảnh như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới
- Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người , niềm tin và hy vọng.
- Chi tiết thể hiện tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
3. Kết bài
Đánh giá, nhận xét một cách khái quát về chi tiết nồi cháo cám.

Đề 4: Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.”“Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng”.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người “vợ nhặt” (“Vợ nhặt” – Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2) qua hai chi tiết trên? Qua đó, anh/chị hãy làm rõ tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong cách xây dựng nhân vật?


Gợi ý

-Phân tích chi tiết 1

- Phân tích chi tiết 2

- Tư tưởng nhân đạo của nhà văn:

+ Cảm thông, chia sẻ với thân phận rẻ rúng của con người.
+ Gián tiếp tố cáo tội ác thực dân, phong kiến, phát xít đối với nhân dân ta.
+ Niềm tin vào nhân cách tốt đẹp của con người cùng niềm khao khát sống, hi vọng vào một tương lai tốt đẹp ở tương lai phía trước trong bối cảnh của nạn đói khủng khiếp năm 1945 .


Đề 5 : Cảm nhận của anh/chị về âm thanh tiếng sáo trong đoạn trích VCAP của Tô Hoài và âm thanh tiếng trống thúc thuế dồn dập, vội vã trong truyện ngắn VN của KL.

Đề 6 : Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ( trích VCAP – Tô Hoài) và nhân vật thị trên đường về nhà Tràng ( Vợ nhặt – KL) để thấy được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của các tác giả.

Đề 7: Cảm nhận của anh/chị về hành động Mị chạy theo A Phủ trong ” Vợ chồng A phủ - Tô Hoài và hành động thị theo không Tràng về làm vợ trong “Vợ nhặt” - Kim Lân.

Gợi ý

(1) Cảm nhận hành động Mị chạy theo A Phủ
(2) Cảm nhận hành động thị theo không Tràng
(3) Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt

- Tương đồng :
+ Họ là những số phận đáng thương, những cuộc đời nghiệt ngã và đầy bất hạnh. Nhưng không dừng lại ở việc khai thác những nỗi đau khổ, những bất công của xã hội, của cuộc sống đã đẩy cuộc đời họ vào những bế tắc cùng cực. Mà ở đấy, các nhà văn đã tô đậm vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn người phụ nữ.
+ Bằng tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống mãnh liệt và với những phẩm chất tốt đẹp vốn có của người phụ nữ, họ đã vượt qua những rào cản, những bất công xã hội, vượt qua số phận bất hạnh để tìm đến hạnh phúc.
+ Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung - tiếng nói nhân đạo đối với họ. Không những thể hiện sự quan tâm, thông cảm, đồng cảm với những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ - luôn hướng về ánh sáng, hướng về cái đẹp .

- Sự khác biệt :
+ Tô Hoài tập trung khắc họa số phận, vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi dưới ách áp bức thống trị của chúa đất phong kiến…
+ Kim Lân tập trung miêu tả số phận người phụ nữ trong nạn đói 1945.



Đề 8: Liên tưởng truyện ngắm Chí Phèo và Vợt Nhặt của Nam cao và Kim Lân

Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh: Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…
(Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.155)

Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh: Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.32)

Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của những kết thúc trên.


Gợi ý

- Cảm nhận cách kết thúc truyện Chí Phèo.
- Cảm nhận cách kết thúc truyện Vợ nhặt
- Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt:
+ Tương đồng: Hai kết thúc truyện cùng phản ánh hiện thực tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám; cùng góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn; cùng là những kết thúc có tính mở, giàu sức gợi.
+ Khác biệt: Kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động, được thể hiện qua kết cấu đầu cuối tương ứng hàm ý tương lai sẽ chỉ là sự lặp lại của hiện tại; kết thúc truyện Vợ nhặt phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người, được thể hiện qua kết cấu đối lập hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại.


Đề 9: Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân đều viết về tình cảnh những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945.
a) Phân tích những khám phá riêng của mỗi tác giả về số phận và những cảnh ngộ của người nông dân trong mỗi tác phẩm
b) Chỉ ra sự khác nhau trong cách kết thúc của hai thiên truyện. Giải thích vì sao có sự khác nhau ấy. Nêu ý nghĩa của mỗi cách kết thúc.



Đề 10:
Cảm nhận của anh/chị về chi tiết nồi cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao và chi tiết nồi cháo cám trong tác phẩm Vợ nhặt – Kim Lân.


Đề 11:
Trong tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao, bà cô thị Nở nói : “Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.
Trong tác phẩm Vợ nhặt – Kim Lân, bà cụ Tứ nói: “ Thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”.
Cảm nhận của anh/chị về hai chi tiết trên.
 
Viết truyện ngắn Vợ Nhặt, Kim Lân cho rằng " Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà họ nghĩ đên cái sống".

Hãy phân tích tác phẩm Vợ Nhặt để làm sáng tỏ ý kiến trên của nhà văn Kim Lân.
Vợ nhặt là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân và cùng là một trong những thành tựu xuất sắc cua nền văn học cách mạng. Tác phẩm ra đời cách đây đã trên bốn mươi năm, viết về một giai đoạn đau thương trogn lịch sử dân tộc: Nạn đói năm 1945 - Từ Quảng Trị đến Bắc Bộ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói; thế nhưng, tác phẩm không mang tính nhất thời và sẽ bất tử với thời gian bởi giá trị nhân văn cao cả: niềm tin không bao giờ tắt hướng về con người. Trong tác phẩm, niềm tin ấy được thể hiện ở chỗ: những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.

Như nhiều tác phẩm trước đó viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận lương thiện và cùng khổ. Ông không dành ra nhiều trang viết mô tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ - người chết đói như ngả rạ- mà chú tâm thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Cốt truyện Vợ nhặt thật đơn giản: một anh chàng nghèo khổ - tên Tràng - độc thân, chỉ với mấy câu hò chơi cho đỡ nhọc, đã có được cô “Vợ nhặt” –đang sống dở chết dở vì đói khát”. Đêm tân hôn của họ âm thầm trong bong tối, giữa tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió đưa lại. Bữa cơm ngày cưới của đôi vợ chồng trẻ và người mẹ già chỉ có cháo loãng, muối hột, nhưng họ ăn uống rất ngon lành trong hồi trống thúc thuế. Ba mẹ con vừa ăn cơm, vừa bàn chuyện Việt Minh phá kho thóc chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng, vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.

Ngay từ đầu, câu chuyện đã hiện lên đượm màu sắc tang thương tử khí. Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẫn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Thực không còn gì ảm đạm hơn bức tranh quê ấy. Trong khi trước đó không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về “cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy lại xôn xao lên được một lúc” còn bây giờ, cái đó đã đè nặng lên vai mỗi người; ngay cả bọn trẻ - những đứa bé hồn nhiên, vô từ nhất cũng mất đi sự tự nhiên, ngây thơ của mình, chúng ủ rũ, không buồn nhúc nhích…

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trông xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái tiếp nối sự sống. Giọng văn lúc này thật dồn nén và gây cam xúc mạnh, mộc mạc mà lôi cuốn: Mặt hắn có vẻ gì phớn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt sang lên lấp lánh. Đọc đến đây, ta không thể không nghĩ đến những trang bi kịch ở đây đã vượt lên sự thong thường vẫn có: nó không phải là “hiện thân của sự ngu dốt” như Mác nói, mà trở nên cao cả “đẹp lạ thường”. Đó là biểu hiện cao nhất của sự chiến thắng, niềm tin, ánh sang. Với chi tiết Tràng cùng vợ, đi về nhà, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học nước nhà cũng có thêm một tiếng nói mới, có sức mạnh hơn

Chuyện lấy vợ của Tràng, trước hết là một chuyện lạ mà thú vị. Điều ấy đã khiến người dân xóm ngụ cư hết sức tò mò, từ trẻ con cho đến tất cả người làng: họ bàn tán…họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn những người dân làng, le lói lên một chút niềm tin. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Có thể nói, trong phút chốc, khi Tràng cùng với cô “vợ nhặt” đi về làng, cái chết, sự ảm đạm thâm u nơi xóm ngụ cư được đẩy sang một bên. Xóm ngụ cư đang ở trên miệng vật cái chết, bỗng hé lên một thoáng sống

Nhưng, niềm vui vừa đến, đã phải nhường chỗ cho sự âu lo. Dân làng lo thay cho Tràng: Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua cái thì này không. Tuy nhiên, đó không phải là nỗi lo tuyệt vọng, mà là lo cho cái sống. Sự chết choc cứ ám ảnh, đe dọa sự sống, nhưng sự sống vẫn vượt lên cái chết. Khuôn mặt “rạng rỡ” của người dân làng, ánh mắt của họ thực ý nghĩa, nói với chúng ta bao điều.

Ở bước đường cùng, người ta sinh ra liều lĩnh - điều đó thực đúng lắm thay! Hành động nhân đùa làm thật của cô gái theo chân Tràng về nhà, xét đến cùng, là một hành động liều lĩnh. Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào các dịp chở thóc lên tỉnh. Với Tràng, chị ta chẳng để lại trong anh ấn tượng gì. Bởi thế, lần thứ hai gặp lại, Tràng phải mất một thời gian mới nhận ra và cũng như nhiều nhân vật khác trong các sáng tác cua Nam Cao, cai dạ dày chị đã chiến thắng khối óc con tim: được Tràng đãi, chị ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Cái đói đẩy lùi ý thức, nhân cách, sĩ diện, quên cả thẹn thùng, người đàn bà không tên ấy cắm đầu ăn “không chuyện trò gì”. Khi Tràng ngỏ lời, không cân suy nghĩ, chị cũng đi theo một cách dễn dàng, “vô tư lự”. Thế mới hay, cái đói ghê gớm biết chừng nào. Và hai cái “liều” gặp nhau đã tạo nên một gia đình thời tao loạn. Điều đáng chú ý là ở đây, khi cùng người Vợ nhặt về nhà, Tràng bỏ ra hai hào để mua một chai dầu, điều này có nghĩa là anh ta thắp lên một ngọn lửa trong cuộc sống tăm tối của mình, đem lại chút ánh sáng cho gia đình cũng như dân làng. Điều này chi phối toàn bộ văn phẩm. Cũng từ cuộc “hôn nhân” của Tràng, những người đời mới thực sự không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sống.

Khi Tràng cùng vợ về nhà, cuộc sống trước mắt họ không kém phần thảm hại, căn nhà vắng teo, rúm ró; niêu bát, quần áo xống bừa bộ…Ôi lấy vợ cưới chồng, yên bề gia thất! Việc lớn một đời hạnh phúc trăm năm! Vậy mà họ bị bủa vây bởi sự nghèo đói chết choc. Nhưng sự sống vẫn tồn tại, tìm chỗ sinh sôi nảy nở. Tất cả thật dữ dội, mà ý nghĩa thật lớn lao; sự sống luôn tồn tại, bất chấp cái chết…

Việc hai người xa lạ bỗng gắn bó với nhau trong cơn đói kém, chứng tỏ quyết tâm nghĩ đến cái sống của hai người, đem lại cho họ - trước hết là Tràng một niềm vui lớn lao. Trong truyện ngắn, hơn hai mươi lần nàh văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng, khi đã có vợ. Tình yêu của hai người, có sức có sức cải biến thật lớn.

“Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa…Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa của hắn với người đàn bà đi bên cạnh. Một cái gì đó mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…” Đúng vậy, niềm vui lớn nhất đời anh đã thành thực sự: có vợ. Cái “mới mẻ”, “lạ lẫm” ấy là tinh thần trách nhiệm của một người chủ gia đình sẽ phải lèo lái con thuyền nhà - gia đình qua thời điểm khó khăn, vươn lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt để xây dựng cuộc sống. Tràng bỏ sau lưng tất cả những tiếng hờ khóc, quạ kiêu…

Chỉ sau một đêm “nên vợ, nên chồng” Tràng thấy mình có sự đổi khác: “Trong người êm ái lơ lửng như người ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải…”. Chuyện được “ Vợ nhặt “ của Tràng ngỡ như đùa nhưng lại là sự thật; bao nhiêu sự sống, sinh khí trở lại với Tràng, với gia đình sau khi anh có vợ. Và cũng từ buổi “sáng hôm sau đó”, dường như tất cả sự thực chết choc không cón tồn tại nữa, Tràng chỉ nghĩ đến sự gây dựng cuộc sộng, hướng về sự sống mà tạo lập hạnh phúc: “Tràng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lung. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như một cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong long. Bấy giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này…”

Có thể nói, đó là biêu hiện cao nhất của tinh thần hướgn về sự sống, quên đi cái chết đang bủa vây.

Vợ Tràng là một nhân vật khá độc đáo. Chị không có tên, không tuổi, không đặc điểm nhận dạng quê quán. Tưởng rằng, khi chị theo Tràng đi về nhà, với sự chao chat, chỏng lỏng, văn học Việt Nam lại có thêm một nhân vật “không bình thường”. Nhưng không, ngòi bút của Kim Lân chưa bao giờ để nhân vật của mình tha hóa, biến chất đến độ ấy. Khi về đến nhà Tràng, con người thật của chị mới hiện lên đầy đủ. Chị cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng. Vì sao vậy? Cái thế ngồi rụt rè chông chênh ấy cũng là cái thế của lòng chị, trăm mối ngổn ngang. Liệu chỗ ngồi ấy có phải là chỗ của chị không? Nhà này có phải là chốn để chị dung thân?
Và cũng như Tràng, sau một đêm làm vợ, chị đã thay đổi hẳn: Trông chị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực…Cái đói một khi được xua đi, thì sự tốt đẹp dung như bản chất hiền trở lại với chị. Ấy cũng là lúc chị nghĩ đến sự sống, lo cho gia đình mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang…Có bàn tay săn sóc của chị căn nhà trở nên gọn gang, sáng sủa. Sự sống trở về với người với cảnh…


Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thây con lấy vợ trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót: Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, nở mày nở mặt sau này. Còn mình thì…Nhưng bà thực sự vui mừng khi con trai đã yên bề gia thất: Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủn beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên…Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng đến một tương lai tươi đẹp hơn.

Tràng à, khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại, cả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…

Nghi đến cái sống không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắn xua đi thực tại hãi hung, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên, món chè cám đã nhắc họ về thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới cảm thấy ngon! cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật, nhưng nào có dập tắt được phần NGƯỜI đáng quý trong mỗi con người, cái phần NGƯỜI ấy sẽ giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Sẽ là thiếu sót lớn nếu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến những kẻ hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống. Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, đã được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của “bước đường cùng”, không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đấu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu bởi anh chưa bắt đựợc mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục đích chung của mọi người; họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp tục nối dòng người kia, giành sự sống cho mình.

Vợ nhặt là thành công xuất sắc của nên văn học cách mạng. Với truyện ngắn này, Kim Lân bày tỏ thiện cảm sâu sắc với những người nghèo khổ, nhưng giàu long nhân ái. Ông luôn khẳng định cái đói khát, chết choc không thể giết chết niềm tin vào cuộc sống. Năm tháng qua đi, không còn mãi với thời gian là chất nhân văn cao cả của một nghệ sĩ nhân đạo.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top