Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Việt Nam thời dựng nước
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ButNghien" data-source="post: 14660" data-attributes="member: 18"><p><strong>Lê mẫn đến ( 1787 – 1789)</strong></p><p></p><p><strong>Niên hiệu : Chiêu Thống</strong></p><p></p><p>Tên là Duy Khiêm ( còn có tên là Duy Kỳ), cháu đích của vua Hiển Tông, con của Thái tử đã mất Duy Vĩ, Duy Khiêm được quân tam phủ đưa từ nơi bị giam cầm về Trịnh Khải lập làm thái tôn, truất ngôi Thái tử của Duy Cận. Trước khi vua Hiển Tông mất đã cho gọi Thái tử Duy Khiêm vào trối lời truyền ngôi. Thái tử vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh, lúc đó Nguyễn Huệ đã cưới công chúa Ngọc Hân. Ông có hỏi về việc các Hoàng tử, công chúa rất khen Duy Cận là người tốt, Nguyễn Huệ muốn bàn luận lại việc lập người nối ngôi, triều đình lo sợ, không biết làm thế nào được, các người trong họ tông thất đều trách móc công chúa làm hại mưu kế lớn của xã tắc. Công chúa sợ, trở về xin với Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ nhận lời, bèn phò thái tôn lên ngôi Hoàng đế, đổi tên là Duy Kỳ, lấy niên hiệu là Chiêu Thống. Khi Nguyễn Nhạc ra Thăng Long, Lê Chiêu Thống đem trăm quan thân hành đón tiếp ở ngoài cửa Nam Giao. Sau khi cùng Nguyễn Nhạc đàm đạo việc nước vua Lê xin cắt đất cho Nguyễn Nhạc để khao quân, Nguyễn Nhạc từ chối. Rồi Nguyễn Nhạc cùng vua Lê ước hẹn đời làm láng giềng hòa hiếu.</p><p></p><p>Những khi Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuan thì hào mục ở các nơi nổi dậy cát cứ, họ Trịnh cùng Trịnh Bồng trở lại Thăng long tự lập làm Nguyên soái Yến đô Vương và lấn át nhà vua như trước, khiến cho triều đình rối ren, chém giết lẫn nhau, Nguyễn Huệ lại phải kéo quân ra Bắc dẹp nội loạn, chiêu tập các cựu thần văn võ nhà Lê, lấy Sùng Nhượng công Lê Duy Cận đứng giám quốc và Ngô Văn Sở quản lĩnh binh chúng rồi kéo quân về Nam.</p><p></p><p>Để khôi phục lại Lê Chiêu Thống, tháng 7 năm Mậu Thân ( 1788) Hoàng thái hậu sang nhà Lê thanh xin quân cứu viện.</p><p></p><p>Sau khi lấy được Thăng Long, dựa vào thế quân Thanh vua Lê đã trả thù tàn bạo những người đã theo Tây Sơn, vì thế không khí trong kinh ngoài trấn đều rất chán nản, rời rạc và lo sợ.</p><p></p><p>Mồng 1 Tết năm Kỷ Dậu ( 1789), quân đội Sơn Tây do Hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh. Các tướng nhà Thanh sống sót bỏ chạy về nước kéo theo vua bán nước Lê Chiêu Thống cùng bầy tôi 25 người.</p><p></p><p>Nhà Lê mất, sau 5 năm sống lưu vong nhục nhã và phẫn uất trên đất Thanh, tháng 10 năm Quý Sửu ( 1793), Lê Chiêu Thống chết ở Yên Kinh ( Trung Quốc), thọ 28 tuổi. Tháng 8 năm Giáp Tý ( 1804), triều Nguyễn đã cho đưa thi hài Lê Chiêu Thống về nước, chôn tại lăng Bàn thạch. Trên bài vị thờ tại lăng đề là Nghị hoàng đế.</p><p></p><p>Tháng 2 năm Giáp Thân ( 1884) niên hiệu Kiến Phúc thứ nhất nhà Nguyễn truy đặt tên cho Lê Chiêu Thống là Mẫn đế. Đây là ông vua cuối cùng của triều Lê.</p><p></p><p>Như vậy, nhà Lê Trung Hưng từ Trang Tông đến Chiêu Thống trải 18 đời và 265 năm trị vì.</p><p></p><p>Nhà Hậu Lê tồn tại song song với nhà Mạc từ năm 1533 – 1592, và với Trịnh Nguyễn từ năm 1592 – 1789. Đây là giai đoạn của nạn nội chiến Nam – Bắc triều và Trịnh – Nguyễn phân tranh gây nên bao cảnh đau thương thảm khốc trong nhân gian.</p><p></p><p>16 đời vua Lê nối tiếp nhau.</p><p> Trang Tông ( 1533 – 1548)</p><p>Trung Tông ( 1548 – 1556)</p><p>Anh Tông ( 1556 – 1573)</p><p>Thế Tông ( 1573 – 1599)</p><p>Kính Tông ( 1600 – 1619)</p><p>Thần Tông ( 1619 – 1643 và 1649 – 1662)</p><p>Chân Tông ( 1643 – 1649)</p><p>Huyền Tông ( 1663 – 1671)</p><p>Gia Tông ( 1672 – 1675)</p><p>Hy Tông ( 1676 – 1704)</p><p>Dụ Tông ( 1705 – 1728)</p><p>Hôn Đức Công ( 1729 – 1732)</p><p>Thuần Tông ( 1733 – 1735)</p><p>Ý Tông ( 1735 – 1740)</p><p>Hiển Tông ( 1740 – 1786)</p><p>Chiêu Tông ( 1787 – 1789).</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ButNghien, post: 14660, member: 18"] [b]Lê mẫn đến ( 1787 – 1789)[/b] [B]Niên hiệu : Chiêu Thống[/B] Tên là Duy Khiêm ( còn có tên là Duy Kỳ), cháu đích của vua Hiển Tông, con của Thái tử đã mất Duy Vĩ, Duy Khiêm được quân tam phủ đưa từ nơi bị giam cầm về Trịnh Khải lập làm thái tôn, truất ngôi Thái tử của Duy Cận. Trước khi vua Hiển Tông mất đã cho gọi Thái tử Duy Khiêm vào trối lời truyền ngôi. Thái tử vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh, lúc đó Nguyễn Huệ đã cưới công chúa Ngọc Hân. Ông có hỏi về việc các Hoàng tử, công chúa rất khen Duy Cận là người tốt, Nguyễn Huệ muốn bàn luận lại việc lập người nối ngôi, triều đình lo sợ, không biết làm thế nào được, các người trong họ tông thất đều trách móc công chúa làm hại mưu kế lớn của xã tắc. Công chúa sợ, trở về xin với Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ nhận lời, bèn phò thái tôn lên ngôi Hoàng đế, đổi tên là Duy Kỳ, lấy niên hiệu là Chiêu Thống. Khi Nguyễn Nhạc ra Thăng Long, Lê Chiêu Thống đem trăm quan thân hành đón tiếp ở ngoài cửa Nam Giao. Sau khi cùng Nguyễn Nhạc đàm đạo việc nước vua Lê xin cắt đất cho Nguyễn Nhạc để khao quân, Nguyễn Nhạc từ chối. Rồi Nguyễn Nhạc cùng vua Lê ước hẹn đời làm láng giềng hòa hiếu. Những khi Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuan thì hào mục ở các nơi nổi dậy cát cứ, họ Trịnh cùng Trịnh Bồng trở lại Thăng long tự lập làm Nguyên soái Yến đô Vương và lấn át nhà vua như trước, khiến cho triều đình rối ren, chém giết lẫn nhau, Nguyễn Huệ lại phải kéo quân ra Bắc dẹp nội loạn, chiêu tập các cựu thần văn võ nhà Lê, lấy Sùng Nhượng công Lê Duy Cận đứng giám quốc và Ngô Văn Sở quản lĩnh binh chúng rồi kéo quân về Nam. Để khôi phục lại Lê Chiêu Thống, tháng 7 năm Mậu Thân ( 1788) Hoàng thái hậu sang nhà Lê thanh xin quân cứu viện. Sau khi lấy được Thăng Long, dựa vào thế quân Thanh vua Lê đã trả thù tàn bạo những người đã theo Tây Sơn, vì thế không khí trong kinh ngoài trấn đều rất chán nản, rời rạc và lo sợ. Mồng 1 Tết năm Kỷ Dậu ( 1789), quân đội Sơn Tây do Hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh. Các tướng nhà Thanh sống sót bỏ chạy về nước kéo theo vua bán nước Lê Chiêu Thống cùng bầy tôi 25 người. Nhà Lê mất, sau 5 năm sống lưu vong nhục nhã và phẫn uất trên đất Thanh, tháng 10 năm Quý Sửu ( 1793), Lê Chiêu Thống chết ở Yên Kinh ( Trung Quốc), thọ 28 tuổi. Tháng 8 năm Giáp Tý ( 1804), triều Nguyễn đã cho đưa thi hài Lê Chiêu Thống về nước, chôn tại lăng Bàn thạch. Trên bài vị thờ tại lăng đề là Nghị hoàng đế. Tháng 2 năm Giáp Thân ( 1884) niên hiệu Kiến Phúc thứ nhất nhà Nguyễn truy đặt tên cho Lê Chiêu Thống là Mẫn đế. Đây là ông vua cuối cùng của triều Lê. Như vậy, nhà Lê Trung Hưng từ Trang Tông đến Chiêu Thống trải 18 đời và 265 năm trị vì. Nhà Hậu Lê tồn tại song song với nhà Mạc từ năm 1533 – 1592, và với Trịnh Nguyễn từ năm 1592 – 1789. Đây là giai đoạn của nạn nội chiến Nam – Bắc triều và Trịnh – Nguyễn phân tranh gây nên bao cảnh đau thương thảm khốc trong nhân gian. 16 đời vua Lê nối tiếp nhau. Trang Tông ( 1533 – 1548) Trung Tông ( 1548 – 1556) Anh Tông ( 1556 – 1573) Thế Tông ( 1573 – 1599) Kính Tông ( 1600 – 1619) Thần Tông ( 1619 – 1643 và 1649 – 1662) Chân Tông ( 1643 – 1649) Huyền Tông ( 1663 – 1671) Gia Tông ( 1672 – 1675) Hy Tông ( 1676 – 1704) Dụ Tông ( 1705 – 1728) Hôn Đức Công ( 1729 – 1732) Thuần Tông ( 1733 – 1735) Ý Tông ( 1735 – 1740) Hiển Tông ( 1740 – 1786) Chiêu Tông ( 1787 – 1789). [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Việt Nam thời dựng nước
Top