Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Việt Nam thời dựng nước
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ButNghien" data-source="post: 14642" data-attributes="member: 18"><p><strong>Mạc phúc hải ( 1541 – 1446)</strong></p><p></p><p><strong>Niên hiệu : Quảng Hòa</strong></p><p></p><p>Cuối đời Mạc Đăng Doanh, quan hệ với nhà Minh lại trở nên căng thẳng, tình hình ở phía Nam cũng nguy cấp. Quân đội Lê trung hưng sau 7 năm chiêu luyện binh mã đủ sức để đánh chiếm Nghệ An và hai năm sau Quý Mão ( 1543) đã kiểm soát được cả Tây Đô ( Thanh Hóa). Mạc Đăng Dung phải trở lại Đông Kinh đưa cháu nội là Mạc Phúc Hải lên nối ngôi năm Tân Sửu ( 1541)</p><p></p><p>Lúc này, ở Trung Quốc, Minh thế Tông đem việc Nam chinh ra luận bàn, rất nhiều quan lại nhà Minh dâng sớ can vua nên mềm dẻo mà giải quyết việc biên giới phía nam. Rút bài học thất bại của các đời vua trước. Hộ bọ thị lang Đường Trụ dân sớ trình bày 7 điều không nên đánh An Nam, cho rằng các đời vua trước chưa bao giờ thắng lợi ở An Nam kể từ Mã Viện đến Thái Minh Tông…Thị lang Phan Trân lại nói : « Mạc Đăng Dung cướp ngôi Lê cũng như Lê cướp ngôi Trần vậy, nếu Đăng Dung chịu dâng nộp cống thì coi như được »</p><p></p><p>Vua Thế Tông nhà Minh và lũ triều thần bàn đi bàn lại hàng tháng trời, rút cục vẫn muốn nối chí Minh thành Tổ là chiếm nước Nam làm quận huyện như trước. Vua Minh cử Cửu Loan làm Đô đốc, Mao Bá Ôn làm tham tán quân vụ phụ trách việc đánh dẹp. Hồ Liên, Hộ bộ thị lang và Cao Công thiều đi đốc thúc quân lương ở các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây. Quân xâm lược đang ngấp nghé ở biên thùy phía Bắc, nguy cơ một cuộc chiến tranh rất bất lợi cho nhà Mạc là có thật. Nhưng Mạc Đăng Dung cũng biết được nội bộ triều Minh không nhất trí trong việc đánh An Nam, qua viên tướng giữ Châu Liêm và Trương Nhạc, vua Mạc biết là có thể thoát ra khỏi cuộc chiến tranh bằng giải pháp hòa bình. Các tham chính nhà Minh đòi Mạc Đăng Dung phải đích thân đến cửa quân, nộp đấtr dựng mốc, bỏ đế hiệu đã tiếm xưng và theo chính sóc và niên lịch của nhà Minh.</p><p></p><p>Đó cũng là cái cớ để cho Cừu Loan và Mao Bá Ôn vốn ngoại chinh chiến xuống phương Nam bãi binh, rút bài học từ cha con họ Hồ, Mạc Đăng Dung tuy lúc này đã nhường ngôi cho con tiếp sau là cháu, trở về sống cảnh điền viên ở Cổ Trai, vẫn phải chấp nhận yêu cầu trên , tự trói mình trước phủ quân Minh ở trấn Nam Quan, trả lại 4 động, xin nội phụ…Ông già Mạc Đăng Dung mặc dù lòng không muốn vẫn phải gắng sức cuối cùng chịu nỗi nhục ( khổ nhục kế) để con cháu ông tránh khỏi một cuộc chiến tranh khốc liệt mà chắc chắn là tốn rất nhiều xương máu của cả hai bên.</p><p></p><p>Sau sự kiện quá sức đó, trở về Cổ Trai sống những ngày còn lại, chẳng bao lâu thì Mạc Đăng Dung mất, đó là một ngày thu tháng 8 năm Tân Sửu ( 1541). Như vậy Mạc Đăng Dung làm vua được 3 năm, làm Thái Thượng hoàng 12 năm, thọ 59 tuổi. Ông có để lại di chúc, không làm đàn chay cúng Phật, khuyên Phúc Hải phải nhanh chóng về kinh sư để trấn an nhân tâm và xã tắc là trọng.</p><p></p><p>Tháng 10 năm ấy Mao Bá Ôn về đến Yên Kinh tâu với vua Minh việc Mạc Đăng Dung đã tự trói mình dâng lễ hàng ở cửa ải, xin tuân theo chính sóc ( chính sóc, các ngày mùng 1 và rằm hàng Tháng, ngày đăng quang của nhà vua). Nếu xem Mạc Đăng Dung là kẻ có tội đầu hàng mà chưa có thể khinh suất cho tước và đất, thì hãy than tội cho con cháu là Phúc Hải…Còn như Lê Ninh tuy tự xưng là con cháu nhà Lê nhưng tung tích chưa rõ ràng…Thế là tháng 3 năm Nhâm Dần ( 1542) nhà Minh phong Mạc Đăng Dung làm An Nam đô thống sứ ty và cho một quả ấn bạc và cũng tháng 12 năm đó ( 1542) Mạc Phúc Hải lên trấn Nam Quan hội khám và nhận lại lịch đại thống của nhà Minh, một đạo sắc phong nhà Minh lại phong cho Mạc Phúc Hải được lập tướng của ông làm An Nam đô thống sứ ty.</p><p></p><p>Thời Mạc Phúc Hải, theo lời bàn của thiếu sứ Mạc Ning Bang, đã tiến hành việc chia cấp lộc điền, đặc biệt ưu tiên binh sĩ – một lực lượng quân sự to lớn được nuôi dưỡng để chống lại Nam Triều.</p><p></p><p>Trong khi đó, tại Nam Triều, quân binh do Lê Trang Tông tự làm tướng đã kéo ra Yên Mỗ ( Ninh Bình), Thái sư Hưng Quốc công Nguyễn Kim bị đánh thuộc độc chết đột ngột, quyền hành lọt vào tay con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm. Lực lượng phía Nam triều ngày càng được củng cố. Mạc Phúc Hải lại thường say mê hát xướng, thích chơi chọi gà, ít quan tâm đến triều chính, mọi mặt giảm sút. Song Phúc Hải làm vua không lâu, ngày 8 tháng 5 năm Bính Ngọ ( 1546), Phúc Hải chết, ở ngôi 6 năm, về sau truy tôn là Hiến Tông Hiển hoàng đế.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ButNghien, post: 14642, member: 18"] [b]Mạc phúc hải ( 1541 – 1446)[/b] [B]Niên hiệu : Quảng Hòa[/B] Cuối đời Mạc Đăng Doanh, quan hệ với nhà Minh lại trở nên căng thẳng, tình hình ở phía Nam cũng nguy cấp. Quân đội Lê trung hưng sau 7 năm chiêu luyện binh mã đủ sức để đánh chiếm Nghệ An và hai năm sau Quý Mão ( 1543) đã kiểm soát được cả Tây Đô ( Thanh Hóa). Mạc Đăng Dung phải trở lại Đông Kinh đưa cháu nội là Mạc Phúc Hải lên nối ngôi năm Tân Sửu ( 1541) Lúc này, ở Trung Quốc, Minh thế Tông đem việc Nam chinh ra luận bàn, rất nhiều quan lại nhà Minh dâng sớ can vua nên mềm dẻo mà giải quyết việc biên giới phía nam. Rút bài học thất bại của các đời vua trước. Hộ bọ thị lang Đường Trụ dân sớ trình bày 7 điều không nên đánh An Nam, cho rằng các đời vua trước chưa bao giờ thắng lợi ở An Nam kể từ Mã Viện đến Thái Minh Tông…Thị lang Phan Trân lại nói : « Mạc Đăng Dung cướp ngôi Lê cũng như Lê cướp ngôi Trần vậy, nếu Đăng Dung chịu dâng nộp cống thì coi như được » Vua Thế Tông nhà Minh và lũ triều thần bàn đi bàn lại hàng tháng trời, rút cục vẫn muốn nối chí Minh thành Tổ là chiếm nước Nam làm quận huyện như trước. Vua Minh cử Cửu Loan làm Đô đốc, Mao Bá Ôn làm tham tán quân vụ phụ trách việc đánh dẹp. Hồ Liên, Hộ bộ thị lang và Cao Công thiều đi đốc thúc quân lương ở các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây. Quân xâm lược đang ngấp nghé ở biên thùy phía Bắc, nguy cơ một cuộc chiến tranh rất bất lợi cho nhà Mạc là có thật. Nhưng Mạc Đăng Dung cũng biết được nội bộ triều Minh không nhất trí trong việc đánh An Nam, qua viên tướng giữ Châu Liêm và Trương Nhạc, vua Mạc biết là có thể thoát ra khỏi cuộc chiến tranh bằng giải pháp hòa bình. Các tham chính nhà Minh đòi Mạc Đăng Dung phải đích thân đến cửa quân, nộp đấtr dựng mốc, bỏ đế hiệu đã tiếm xưng và theo chính sóc và niên lịch của nhà Minh. Đó cũng là cái cớ để cho Cừu Loan và Mao Bá Ôn vốn ngoại chinh chiến xuống phương Nam bãi binh, rút bài học từ cha con họ Hồ, Mạc Đăng Dung tuy lúc này đã nhường ngôi cho con tiếp sau là cháu, trở về sống cảnh điền viên ở Cổ Trai, vẫn phải chấp nhận yêu cầu trên , tự trói mình trước phủ quân Minh ở trấn Nam Quan, trả lại 4 động, xin nội phụ…Ông già Mạc Đăng Dung mặc dù lòng không muốn vẫn phải gắng sức cuối cùng chịu nỗi nhục ( khổ nhục kế) để con cháu ông tránh khỏi một cuộc chiến tranh khốc liệt mà chắc chắn là tốn rất nhiều xương máu của cả hai bên. Sau sự kiện quá sức đó, trở về Cổ Trai sống những ngày còn lại, chẳng bao lâu thì Mạc Đăng Dung mất, đó là một ngày thu tháng 8 năm Tân Sửu ( 1541). Như vậy Mạc Đăng Dung làm vua được 3 năm, làm Thái Thượng hoàng 12 năm, thọ 59 tuổi. Ông có để lại di chúc, không làm đàn chay cúng Phật, khuyên Phúc Hải phải nhanh chóng về kinh sư để trấn an nhân tâm và xã tắc là trọng. Tháng 10 năm ấy Mao Bá Ôn về đến Yên Kinh tâu với vua Minh việc Mạc Đăng Dung đã tự trói mình dâng lễ hàng ở cửa ải, xin tuân theo chính sóc ( chính sóc, các ngày mùng 1 và rằm hàng Tháng, ngày đăng quang của nhà vua). Nếu xem Mạc Đăng Dung là kẻ có tội đầu hàng mà chưa có thể khinh suất cho tước và đất, thì hãy than tội cho con cháu là Phúc Hải…Còn như Lê Ninh tuy tự xưng là con cháu nhà Lê nhưng tung tích chưa rõ ràng…Thế là tháng 3 năm Nhâm Dần ( 1542) nhà Minh phong Mạc Đăng Dung làm An Nam đô thống sứ ty và cho một quả ấn bạc và cũng tháng 12 năm đó ( 1542) Mạc Phúc Hải lên trấn Nam Quan hội khám và nhận lại lịch đại thống của nhà Minh, một đạo sắc phong nhà Minh lại phong cho Mạc Phúc Hải được lập tướng của ông làm An Nam đô thống sứ ty. Thời Mạc Phúc Hải, theo lời bàn của thiếu sứ Mạc Ning Bang, đã tiến hành việc chia cấp lộc điền, đặc biệt ưu tiên binh sĩ – một lực lượng quân sự to lớn được nuôi dưỡng để chống lại Nam Triều. Trong khi đó, tại Nam Triều, quân binh do Lê Trang Tông tự làm tướng đã kéo ra Yên Mỗ ( Ninh Bình), Thái sư Hưng Quốc công Nguyễn Kim bị đánh thuộc độc chết đột ngột, quyền hành lọt vào tay con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm. Lực lượng phía Nam triều ngày càng được củng cố. Mạc Phúc Hải lại thường say mê hát xướng, thích chơi chọi gà, ít quan tâm đến triều chính, mọi mặt giảm sút. Song Phúc Hải làm vua không lâu, ngày 8 tháng 5 năm Bính Ngọ ( 1546), Phúc Hải chết, ở ngôi 6 năm, về sau truy tôn là Hiến Tông Hiển hoàng đế. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Việt Nam thời dựng nước
Top