Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Việt Nam thời dựng nước
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ButNghien" data-source="post: 14639" data-attributes="member: 18"><p><strong>Triều mạc ( 1527 – 1592)</strong></p><p></p><p><strong>MẠC ĐĂNG DUNG ( 1527 – 1592)</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>Niên hiệu : Minh Đức</strong></p><p></p><p>Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương ( Hải Dương). Cụ tổ bảy đời là Mạc Đĩnh Chi, một người nổi tiếng về văn chương đã thi đậu trạng nguyên dưới thời Trần, làm quan đến chức nhập nội hành khiển, thượng thư môn hạ tả bộc xạ. Ông đã từng đi sứ sang Trung Quốc, đối đáp rất thông minh, nhà Nguyên phải nể phục. Đĩnh Chi sinh ra Dao, làm quan Tư hình Viện đại phu, Dao sinh bốn người con trai tên là : Địch, Thoan, Thúy và Viễn, người nào cũng có tài năng và sức khỏe. Cuối đời nhà Hồ vì bất đắc chí họ đem con em đến hàng giặc Minh rồi ra làm quan cho nhà Minh. Đến đời các ông Tung, Bình đến Hịch thì không có ai hiển đạt. Hịch lấy con gái Đặng Xuân người cùng làng, tên là Đặng Thị Hiến, sinh được ba trai. Mạc Đăng Dung là trưởng, rồi đến Đốc, và Quyết, hai em của Mạc Đăng Dung đều làm quan, khi Mạc Đăng Dung lên ngôi vua thì phong cả hai em tước vương.</p><p></p><p>Đăng Dung sinh giờ Ngọ ngày Nhâm Tý ( 23 ) tháng 11 năm Quý Mão ( 1483). Thời trẻ Đăng Dung có sức khỏe lại khôi ngô, tương truyền bà họ Nhữ ( có tham vong muốn có người chồng đế vương) trông thấy Mạc Đăng Dung khi còn hàn vi, dung mạo của Mạc Đăng Dung khiến bà kinh ngạc mà than rằng : « Lúc trẻ chẳng gặp nhau, ngày nay đến đây làm gì » bởi bà biết Mạc Đăng Dung sẽ làm vua, mà bà đã có chồng rồi. Bà họ Nhữ đó về sau chính là mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan, từ một thanh niên nghèo, sống bằng nghề đánh cá, Mạc Đăng Dung đi dự thi môn đấu vật, trúng đô lực sĩ, được sung vào chân túc vệ chuyên cầm dù theo vua. Nhưng Mạc Đăng Dung tiến rất nhanh trên con đường làm quan, năm Tân Mùi ( 1511) mới 29 tuổi đã được phong tước Vũ Xuyên bá. Năm Bính Tý ( 1516), triều đình sai Mạc Đăng Dung làm trấn thủ Sơn Nam, gia phong Phó tướng Tả đô đốc. Trải qua ba đời vua Lê, Mạc Đăng Dung được phong Thái sư Nhân Quốc công rồi đến An Hưng vương. Lợi dụng lúc vua Lê ươn hèn, các quan trong ngoài đều tranh giành xâu xé lẫn nhau, Mạc Đăng Dung âm thầm tranh ngôi vua. Tháng 6 năm Đinh Hợi ( 1527), Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai lên kinh sư ép vua Lê nhường ngôi, lúc này triều Lê đã quá mục nát, mất lòng dân nên số đông hướng về Mạc Đăng Dung đã ra đón Mạc Đăng Dung về kinh. Trong tờ chiếu nhường ngôi của vua Lê ( tất nhiên là người của Mạc Đăng Dung viết) có nói lý do của việc nhường ngôi. Vua Lê hèn kém, đức mỏng, không gánh nổi ngôi trời. Mệnh trời và lòng người hướng về người có đức và người đó, trong thời điểm này, chỉ có Mạc Đăng Dung : Là người tư chất thông minh, đủ tài văn võ, bên ngoài đánh dẹp bốn phương đều phục, bên trong trị nước trăm họ yên vui, công đức lớn lao, trời người đều quy phục. Hôm tuyên đọc tờ chiếu nhường ngôi cũng là lúc Mạc Đăng Dung xem Hoàng đế, ban lệnh đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu mới như mọi ông vua khác khi lên ngôi. Vua Lê bị giáng truất xuống làm cung vương bị tống giam cùng với thái hậu ở cung Tây Nội rồi bị giết chết.</p><p></p><p>Những ngày sau Mạc Đăng Dung ra ngự ở chính điện, tế trời đất ở Nam Giao, dựng tôn miếu, lấy Hải Dương làm Dương Kinh, lập cung điện ở Cổ Trai, truy tôn ông tổ bảy đời là Mạc Đĩnh Chi làm « Kiến thủy Khâm minh văn hoàng đế ». Mạc Đăng Dung muốn tỏ một điều « không phải cứ con vua mới được làm vua », ông cho sửa mộ của cha mình thành Lăng ( cho nên về sau nơi ấy gọi là sứ Mả Lăng). Ông cho lập con trai trưởng là Đăng Doanh làm Thái tử, phong em trai là Quyết làm Tín vương, truy phong em trai là Đốc làm Từ vương, cả ba người em gái đều được phong công chúa. Em gái lớn tên Ngọc là Trang Hoa công chúa, thứ đến tên Huệ là Khánh Diệm công chúa và em út Ngọc Di là Tú Hoa công chúa. Cùng với việc phong tước cho con, anh em họ Mạc, vua còn phong tước cho một loạt bầy tôi có công tôn phò.</p><p></p><p>Về đối ngoại, để tranh thủ nhà Minh, vua Mạc sai sứ đem biểu sang Yên Kinh nói :</p><p></p><p>Con cháu họ Lê không còn ai thừa tự, cho nên di chúc lại cho Đại thần họ Mạc tạm quản việc nước, để yên dân.</p><p></p><p>Nhà Minh sai người sang dò xét thực hư, Mạc Đăng Dung cùng các bầy tôi khác dùng vàng bạc lót những viên tướng biên thùy nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ của họ. Vì thế, năm Kỷ Sửu ( 1529) hai anh em Trịnh Ngung và Trịnh Ngang là cựu thần nhà Lê chạy sang cầu viện nhà Minh song không thành. Hai viên quan đó đều chết già trên đất Trung Hoa.</p><p></p><p>Đề hoàn thiện việc thiết lập một triều đại mới, Mạc Đăng Dung không những phải chống chọi với phản ứng của đông đảo các cựu thần nhà Lê mang nặng đầu óc trung quân, mà phải trọn những người trẻ tuổi gánh vác việc nước. Vì vậy bắt trước các vua Trần, tháng 12 năm Kỷ Sửu ( 1529) Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Đăng Doanh làm vua được 3 năm, lúc này mới 46 tuổi.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ButNghien, post: 14639, member: 18"] [b]Triều mạc ( 1527 – 1592)[/b] [B]MẠC ĐĂNG DUNG ( 1527 – 1592) Niên hiệu : Minh Đức[/B] Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương ( Hải Dương). Cụ tổ bảy đời là Mạc Đĩnh Chi, một người nổi tiếng về văn chương đã thi đậu trạng nguyên dưới thời Trần, làm quan đến chức nhập nội hành khiển, thượng thư môn hạ tả bộc xạ. Ông đã từng đi sứ sang Trung Quốc, đối đáp rất thông minh, nhà Nguyên phải nể phục. Đĩnh Chi sinh ra Dao, làm quan Tư hình Viện đại phu, Dao sinh bốn người con trai tên là : Địch, Thoan, Thúy và Viễn, người nào cũng có tài năng và sức khỏe. Cuối đời nhà Hồ vì bất đắc chí họ đem con em đến hàng giặc Minh rồi ra làm quan cho nhà Minh. Đến đời các ông Tung, Bình đến Hịch thì không có ai hiển đạt. Hịch lấy con gái Đặng Xuân người cùng làng, tên là Đặng Thị Hiến, sinh được ba trai. Mạc Đăng Dung là trưởng, rồi đến Đốc, và Quyết, hai em của Mạc Đăng Dung đều làm quan, khi Mạc Đăng Dung lên ngôi vua thì phong cả hai em tước vương. Đăng Dung sinh giờ Ngọ ngày Nhâm Tý ( 23 ) tháng 11 năm Quý Mão ( 1483). Thời trẻ Đăng Dung có sức khỏe lại khôi ngô, tương truyền bà họ Nhữ ( có tham vong muốn có người chồng đế vương) trông thấy Mạc Đăng Dung khi còn hàn vi, dung mạo của Mạc Đăng Dung khiến bà kinh ngạc mà than rằng : « Lúc trẻ chẳng gặp nhau, ngày nay đến đây làm gì » bởi bà biết Mạc Đăng Dung sẽ làm vua, mà bà đã có chồng rồi. Bà họ Nhữ đó về sau chính là mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan, từ một thanh niên nghèo, sống bằng nghề đánh cá, Mạc Đăng Dung đi dự thi môn đấu vật, trúng đô lực sĩ, được sung vào chân túc vệ chuyên cầm dù theo vua. Nhưng Mạc Đăng Dung tiến rất nhanh trên con đường làm quan, năm Tân Mùi ( 1511) mới 29 tuổi đã được phong tước Vũ Xuyên bá. Năm Bính Tý ( 1516), triều đình sai Mạc Đăng Dung làm trấn thủ Sơn Nam, gia phong Phó tướng Tả đô đốc. Trải qua ba đời vua Lê, Mạc Đăng Dung được phong Thái sư Nhân Quốc công rồi đến An Hưng vương. Lợi dụng lúc vua Lê ươn hèn, các quan trong ngoài đều tranh giành xâu xé lẫn nhau, Mạc Đăng Dung âm thầm tranh ngôi vua. Tháng 6 năm Đinh Hợi ( 1527), Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai lên kinh sư ép vua Lê nhường ngôi, lúc này triều Lê đã quá mục nát, mất lòng dân nên số đông hướng về Mạc Đăng Dung đã ra đón Mạc Đăng Dung về kinh. Trong tờ chiếu nhường ngôi của vua Lê ( tất nhiên là người của Mạc Đăng Dung viết) có nói lý do của việc nhường ngôi. Vua Lê hèn kém, đức mỏng, không gánh nổi ngôi trời. Mệnh trời và lòng người hướng về người có đức và người đó, trong thời điểm này, chỉ có Mạc Đăng Dung : Là người tư chất thông minh, đủ tài văn võ, bên ngoài đánh dẹp bốn phương đều phục, bên trong trị nước trăm họ yên vui, công đức lớn lao, trời người đều quy phục. Hôm tuyên đọc tờ chiếu nhường ngôi cũng là lúc Mạc Đăng Dung xem Hoàng đế, ban lệnh đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu mới như mọi ông vua khác khi lên ngôi. Vua Lê bị giáng truất xuống làm cung vương bị tống giam cùng với thái hậu ở cung Tây Nội rồi bị giết chết. Những ngày sau Mạc Đăng Dung ra ngự ở chính điện, tế trời đất ở Nam Giao, dựng tôn miếu, lấy Hải Dương làm Dương Kinh, lập cung điện ở Cổ Trai, truy tôn ông tổ bảy đời là Mạc Đĩnh Chi làm « Kiến thủy Khâm minh văn hoàng đế ». Mạc Đăng Dung muốn tỏ một điều « không phải cứ con vua mới được làm vua », ông cho sửa mộ của cha mình thành Lăng ( cho nên về sau nơi ấy gọi là sứ Mả Lăng). Ông cho lập con trai trưởng là Đăng Doanh làm Thái tử, phong em trai là Quyết làm Tín vương, truy phong em trai là Đốc làm Từ vương, cả ba người em gái đều được phong công chúa. Em gái lớn tên Ngọc là Trang Hoa công chúa, thứ đến tên Huệ là Khánh Diệm công chúa và em út Ngọc Di là Tú Hoa công chúa. Cùng với việc phong tước cho con, anh em họ Mạc, vua còn phong tước cho một loạt bầy tôi có công tôn phò. Về đối ngoại, để tranh thủ nhà Minh, vua Mạc sai sứ đem biểu sang Yên Kinh nói : Con cháu họ Lê không còn ai thừa tự, cho nên di chúc lại cho Đại thần họ Mạc tạm quản việc nước, để yên dân. Nhà Minh sai người sang dò xét thực hư, Mạc Đăng Dung cùng các bầy tôi khác dùng vàng bạc lót những viên tướng biên thùy nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ của họ. Vì thế, năm Kỷ Sửu ( 1529) hai anh em Trịnh Ngung và Trịnh Ngang là cựu thần nhà Lê chạy sang cầu viện nhà Minh song không thành. Hai viên quan đó đều chết già trên đất Trung Hoa. Đề hoàn thiện việc thiết lập một triều đại mới, Mạc Đăng Dung không những phải chống chọi với phản ứng của đông đảo các cựu thần nhà Lê mang nặng đầu óc trung quân, mà phải trọn những người trẻ tuổi gánh vác việc nước. Vì vậy bắt trước các vua Trần, tháng 12 năm Kỷ Sửu ( 1529) Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Đăng Doanh làm vua được 3 năm, lúc này mới 46 tuổi. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Việt Nam thời dựng nước
Top