Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Việt Nam thời dựng nước
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ButNghien" data-source="post: 14632" data-attributes="member: 18"><p><strong>Lê thánh tông ( 1460 – 1497)</strong></p><p></p><p><strong>Niên hiệu : Quang Thuận ( 1460 – 1469)</strong></p><p><strong>Hồng Đức ( 1470 – 1497)</strong></p><p><strong></strong></p><p>Lê Thánh Tông là một trong những ông vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các ông vua Việt Nam ( 38 năm ). Nhưng điều đáng nhớ không phải vì ông ở ngôi lâu ( Lê Hiển Tông ở ngôi 47 năm ), mà vì những đóng góp của triều vua này vào đời sống mọi mặt của quốc gia Đại Việt thời ấy.</p><p></p><p>Lê Thánh Tông tên tự là Tư Thành, lại có tên nữa là Hạo, là con trai thứ và cũng là con út của vua Thái Tông, sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất ( 1442). Mẹ là bà Ngô Thị Ngọc Dao, con gái của thái Bổ Ngô Từ, một torng những công thần khai quốc cùa nhà Lê, người làng Động Bàng, huyện Yên Định ( Thanh Hóa). Có nhiều chuyện kể rằng Lê Tư Thành được sinh ra bên ngoài cung cấm, tại chùa Huy Văn ( phía trong ngõ Văn Chương, đường Hàng Bột, Hà Nội). Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ nên đến năm lên 4 tuổi, mẹ Nhân Tông buông rèm nghe chính sự, mới cho đón Tư Thành về phong làm Bình Nguyên vương, cho ở nhà Phiên để hàng ngày cùng vua Nhân Tông và các phiên vương khác họ tập tại tòa Kinh Diên.</p><p></p><p>Tư Thành sớm có tư chất đế vương, chăm chỉ học tập, dáng dấp đoan chính, thông tuệ hơn người. Vì thế mẹ Nhân Tông càng quý và coi Tư Thành như con đẻ của bà, còn vua Nhân Tông thì cho là người em hiếm có.</p><p></p><p>Khi Nghi Dân, con cả của Thái Tông trước đó bị biếm truất rồi âm mưu thoát đoạt đã giết mẹ con Bang Cơ ( vua Nhân Tông) lên ngôi vua, lại phong Tư Thành làm Gia Vương và vẫn cho ở nhà Tây để trong nội điện. Khi Nghi Dân bị lật đổ, trong triều có người lập bàn Tư Thành làm vua, nhưng một viên quan là Lê Lăng can rằng : Tư Thành còn có một anh nữa là Cung vương Khắc Xương, không nên bỏ anh lập em, dẫm lại vết xe đổ Nghi Dân - Bang Cơ. Triều thần đến đón Cung vương song ông này từ chối. Khi đó mới rước Tư Thành lên ngôi, bấy giờ ông mới tròn 18 tuổi.</p><p></p><p>Trị vì đất nước được 38 năm, đến cuối năm Hồng Đức thứ 27 năm Bính Thìn ( 1496) vua bị mệt nhưng vẫn tự giải quyết các việc quan trọng. Tháng Giêng năm sau vua càng mệt nặng rồi mất. Cho đến trước khi qua đời, vua vẫn tỉnh táo, trước đó một hôm còn ngồi ghế ngọc truyền ngôi cho con và làm một bài thơ tuyệt mệnh.</p><p></p><p>Tấm thân bảy thước nay tuổi đã năm mươi,</p><p>Gan dạ như sắt giờ đã hóa ra mềm,</p><p>Gió thổi ngoài song, hoa vàng tàn tạ, </p><p>Sương sa trước sân, liễu xang gầy đi</p><p>Trong suốt bầu trời biến mây bay phơi phới</p><p>Tỉnh giấc mộng kê vàng, đêm dài dằng dặc</p><p>Tiếng người, dáng người trên chốn bồng lai đã xa cách hẳn</p><p>U hồn như vàng như ngọc có vào giấc mộng được không.</p><p></p><p>Lê Thánh Tông thọ 56 tuổi và là một trong những ông vua có khá nhiều vợ và nhiều con. 14 người con trai và 20 người con gái. Sử thần Vũ Quỳnh đời Lê đã từng nhận xét…Tiếc rằng vua nhiều phi tần quá nên mắc bệnh nặng, trường lạc Hoàng hậu thì bị giam lâu ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được đến hầu bệnh, bèn ngầm đem thuốc độc trong tay sờ vào chỗ lở, bệnh vua vì thế lại nặng thêm.</p><p></p><p>Nhưng nhìn toàn cục, cuộc đời ông vua này là một cuộc đời hoạt động sôi nổi trên rất nhiều lĩnh vực mà mặt nào cũng tỏ ra xuất sắc. Người đương thời từng nhận xét. Vua tư trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, mà thánh học rất chăm, tay không lúc nào rời quyển sách. Các sách kinh sử, lịch toán, các việc thánh thần, cái gì cũng tính thông. Văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học. Chính bản thân Lê Thánh Tông cũng rất tự ý thức về sự cần mẫn chăm lo trau dồi tri thức, bỏ công sức mình vào việc cai trị đất nước. Ông từng viết.</p><p></p><p>Lòng vì thiên hạ những sơ âu</p><p>Thay việc trời dám trễ đâu</p><p>Trống dời canh còn đọc sách</p><p>Chiêng xế bóng chửa thôi chầu.</p><p></p><p>Nhờ đó mà dưới thời trị vì của ông vua này, quốc gia Đại Việt đã đạt được sự phát triển rực rỡ về mọi mặt.</p><p></p><p>Lê Thánh Tông là người tha thiết với chủ quyền quốc gia. Ông từng nói câu nói nổi tiếng « Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng. Chính dưới thời Lê Thánh Tông, bản đồ đầu tiên của quôc gia Đại Việt được hoàn thành. Những hành động xâm phạm biên giới bằng mọi hình thức của nhà Minh cũng như của các tập đoàn thống trị Chiêm thành, Bồn Man, Lão Qua đều đã được tích cực giải quyết hoặc giáng trả kịp thời, không để một chút đất đai lọt vào tay kẻ khác.</p><p></p><p>Bộ máy nhà nước trung ương tập quyền dưới triều Lê Thánh Tông đạt đến mức hoàn bị, từ trung ương xuống đến xã. Thế lực của đại quý tộc bị hạn chế, thay vào đó là sự tham chính của tầng lớp sĩ phu nho giáo được tuyển lựa bằng con đường thi cử.</p><p></p><p>Về lập pháp, đây cũng là triều đại đã cho ra đời bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang tên hiệu vua Lê Thánh Tông. Các triều đại trước đây : Lý, Trần đều đã có biên soạn luật của mình, song vì chiến tranh, loạn lạc đã bị mất hết vì thế luật Hồng Đức còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất trong lịch sử luật pháp thời phong kiến nước ta.</p><p></p><p>Dưới triều Lê Thánh Tông, cũng là thời kỳ mà tư tưởng trọng nông và chế độ quân điền được ban bố và thi hành đầy đủ nhất. Các đời sau chỉ lấy đó làm mẫu mực</p><p></p><p>Việc giáo dục thi cử dưới thời ông vua này cũng được coi là thịnh đạt nhất trong lịch sử giáo dục và khoa cử thời phong kiến Việt Nam. Việc học do nhà nước tổ chức đẩy mạnh, đồng thời việc học trong dân gian do tư nhân mở trường cũng được khuyến khích. Nhà vua cho mở rộng nhà thái học và trường Quốc Tử Giám. Các tiến sĩ thi đỗ ngoài việc được khắc tên vào bia đá ( đã được bắt đầu từ năm 1442 thời Lê Thánh Tông) và được dự lễ xướng danh rất long trọng, được treo tên trên bảng vàng và cấp ngựa, ban áo mũ cờ biểu để vinh quy…</p><p></p><p>Bản thân vua Lê Thánh Tông cũng là một nhà văn hóa lớn. Ông là một nhà thơ và là người rất chăm lo đến việc trước thuật, trong thời ông, nhiều công trình biên soạn có tầm cỡ được tiến hành. Đại việt sử ký toàn thư hoàn thành năm Kỷ Hợi ( 1479) Thiên Nam dư hạ tập một công trình có tính báck khoa lớn đầu tiên, hơn 100 bài thơ của Nguyễn Trãi cũng được sưu tầm vào thời gian này. Lê Thánh Tông là người đã giải cái oan của Nguyễn Trãi, cho tìm con cháu còn sống sót và ra lệnh sưu tầm thơ văn của Ức Trai.</p><p></p><p>Lê Thánh Tông tự lậyp ra hội Tao Đàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi thơ văn nhất nước thời đó gọi là « Tao Đàn nhị thập bát tú » do chính Lê Thánh Tông làm Nguyên soái. Khối lượng sáng tác của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn rất lớn, và nó có vị trí đặc biệt.</p><p></p><p>Lê Thánh Tông không chỉ là một ông vua đầy tài năng và nhiệt huyết với tất cả các thành tựu nổi bật dưới thời trị vì của ông mà tên tuổi không thể mờ trong lịch sử và nền văn hóa nước nhà.</p><p></p><p>Lê Thánh Tông làm vua 38 năm đặt niên hiệu hai lần.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ButNghien, post: 14632, member: 18"] [b]Lê thánh tông ( 1460 – 1497)[/b] [B]Niên hiệu : Quang Thuận ( 1460 – 1469) Hồng Đức ( 1470 – 1497) [/B] Lê Thánh Tông là một trong những ông vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các ông vua Việt Nam ( 38 năm ). Nhưng điều đáng nhớ không phải vì ông ở ngôi lâu ( Lê Hiển Tông ở ngôi 47 năm ), mà vì những đóng góp của triều vua này vào đời sống mọi mặt của quốc gia Đại Việt thời ấy. Lê Thánh Tông tên tự là Tư Thành, lại có tên nữa là Hạo, là con trai thứ và cũng là con út của vua Thái Tông, sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất ( 1442). Mẹ là bà Ngô Thị Ngọc Dao, con gái của thái Bổ Ngô Từ, một torng những công thần khai quốc cùa nhà Lê, người làng Động Bàng, huyện Yên Định ( Thanh Hóa). Có nhiều chuyện kể rằng Lê Tư Thành được sinh ra bên ngoài cung cấm, tại chùa Huy Văn ( phía trong ngõ Văn Chương, đường Hàng Bột, Hà Nội). Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ nên đến năm lên 4 tuổi, mẹ Nhân Tông buông rèm nghe chính sự, mới cho đón Tư Thành về phong làm Bình Nguyên vương, cho ở nhà Phiên để hàng ngày cùng vua Nhân Tông và các phiên vương khác họ tập tại tòa Kinh Diên. Tư Thành sớm có tư chất đế vương, chăm chỉ học tập, dáng dấp đoan chính, thông tuệ hơn người. Vì thế mẹ Nhân Tông càng quý và coi Tư Thành như con đẻ của bà, còn vua Nhân Tông thì cho là người em hiếm có. Khi Nghi Dân, con cả của Thái Tông trước đó bị biếm truất rồi âm mưu thoát đoạt đã giết mẹ con Bang Cơ ( vua Nhân Tông) lên ngôi vua, lại phong Tư Thành làm Gia Vương và vẫn cho ở nhà Tây để trong nội điện. Khi Nghi Dân bị lật đổ, trong triều có người lập bàn Tư Thành làm vua, nhưng một viên quan là Lê Lăng can rằng : Tư Thành còn có một anh nữa là Cung vương Khắc Xương, không nên bỏ anh lập em, dẫm lại vết xe đổ Nghi Dân - Bang Cơ. Triều thần đến đón Cung vương song ông này từ chối. Khi đó mới rước Tư Thành lên ngôi, bấy giờ ông mới tròn 18 tuổi. Trị vì đất nước được 38 năm, đến cuối năm Hồng Đức thứ 27 năm Bính Thìn ( 1496) vua bị mệt nhưng vẫn tự giải quyết các việc quan trọng. Tháng Giêng năm sau vua càng mệt nặng rồi mất. Cho đến trước khi qua đời, vua vẫn tỉnh táo, trước đó một hôm còn ngồi ghế ngọc truyền ngôi cho con và làm một bài thơ tuyệt mệnh. Tấm thân bảy thước nay tuổi đã năm mươi, Gan dạ như sắt giờ đã hóa ra mềm, Gió thổi ngoài song, hoa vàng tàn tạ, Sương sa trước sân, liễu xang gầy đi Trong suốt bầu trời biến mây bay phơi phới Tỉnh giấc mộng kê vàng, đêm dài dằng dặc Tiếng người, dáng người trên chốn bồng lai đã xa cách hẳn U hồn như vàng như ngọc có vào giấc mộng được không. Lê Thánh Tông thọ 56 tuổi và là một trong những ông vua có khá nhiều vợ và nhiều con. 14 người con trai và 20 người con gái. Sử thần Vũ Quỳnh đời Lê đã từng nhận xét…Tiếc rằng vua nhiều phi tần quá nên mắc bệnh nặng, trường lạc Hoàng hậu thì bị giam lâu ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được đến hầu bệnh, bèn ngầm đem thuốc độc trong tay sờ vào chỗ lở, bệnh vua vì thế lại nặng thêm. Nhưng nhìn toàn cục, cuộc đời ông vua này là một cuộc đời hoạt động sôi nổi trên rất nhiều lĩnh vực mà mặt nào cũng tỏ ra xuất sắc. Người đương thời từng nhận xét. Vua tư trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, mà thánh học rất chăm, tay không lúc nào rời quyển sách. Các sách kinh sử, lịch toán, các việc thánh thần, cái gì cũng tính thông. Văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học. Chính bản thân Lê Thánh Tông cũng rất tự ý thức về sự cần mẫn chăm lo trau dồi tri thức, bỏ công sức mình vào việc cai trị đất nước. Ông từng viết. Lòng vì thiên hạ những sơ âu Thay việc trời dám trễ đâu Trống dời canh còn đọc sách Chiêng xế bóng chửa thôi chầu. Nhờ đó mà dưới thời trị vì của ông vua này, quốc gia Đại Việt đã đạt được sự phát triển rực rỡ về mọi mặt. Lê Thánh Tông là người tha thiết với chủ quyền quốc gia. Ông từng nói câu nói nổi tiếng « Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng. Chính dưới thời Lê Thánh Tông, bản đồ đầu tiên của quôc gia Đại Việt được hoàn thành. Những hành động xâm phạm biên giới bằng mọi hình thức của nhà Minh cũng như của các tập đoàn thống trị Chiêm thành, Bồn Man, Lão Qua đều đã được tích cực giải quyết hoặc giáng trả kịp thời, không để một chút đất đai lọt vào tay kẻ khác. Bộ máy nhà nước trung ương tập quyền dưới triều Lê Thánh Tông đạt đến mức hoàn bị, từ trung ương xuống đến xã. Thế lực của đại quý tộc bị hạn chế, thay vào đó là sự tham chính của tầng lớp sĩ phu nho giáo được tuyển lựa bằng con đường thi cử. Về lập pháp, đây cũng là triều đại đã cho ra đời bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang tên hiệu vua Lê Thánh Tông. Các triều đại trước đây : Lý, Trần đều đã có biên soạn luật của mình, song vì chiến tranh, loạn lạc đã bị mất hết vì thế luật Hồng Đức còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất trong lịch sử luật pháp thời phong kiến nước ta. Dưới triều Lê Thánh Tông, cũng là thời kỳ mà tư tưởng trọng nông và chế độ quân điền được ban bố và thi hành đầy đủ nhất. Các đời sau chỉ lấy đó làm mẫu mực Việc giáo dục thi cử dưới thời ông vua này cũng được coi là thịnh đạt nhất trong lịch sử giáo dục và khoa cử thời phong kiến Việt Nam. Việc học do nhà nước tổ chức đẩy mạnh, đồng thời việc học trong dân gian do tư nhân mở trường cũng được khuyến khích. Nhà vua cho mở rộng nhà thái học và trường Quốc Tử Giám. Các tiến sĩ thi đỗ ngoài việc được khắc tên vào bia đá ( đã được bắt đầu từ năm 1442 thời Lê Thánh Tông) và được dự lễ xướng danh rất long trọng, được treo tên trên bảng vàng và cấp ngựa, ban áo mũ cờ biểu để vinh quy… Bản thân vua Lê Thánh Tông cũng là một nhà văn hóa lớn. Ông là một nhà thơ và là người rất chăm lo đến việc trước thuật, trong thời ông, nhiều công trình biên soạn có tầm cỡ được tiến hành. Đại việt sử ký toàn thư hoàn thành năm Kỷ Hợi ( 1479) Thiên Nam dư hạ tập một công trình có tính báck khoa lớn đầu tiên, hơn 100 bài thơ của Nguyễn Trãi cũng được sưu tầm vào thời gian này. Lê Thánh Tông là người đã giải cái oan của Nguyễn Trãi, cho tìm con cháu còn sống sót và ra lệnh sưu tầm thơ văn của Ức Trai. Lê Thánh Tông tự lậyp ra hội Tao Đàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi thơ văn nhất nước thời đó gọi là « Tao Đàn nhị thập bát tú » do chính Lê Thánh Tông làm Nguyên soái. Khối lượng sáng tác của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn rất lớn, và nó có vị trí đặc biệt. Lê Thánh Tông không chỉ là một ông vua đầy tài năng và nhiệt huyết với tất cả các thành tựu nổi bật dưới thời trị vì của ông mà tên tuổi không thể mờ trong lịch sử và nền văn hóa nước nhà. Lê Thánh Tông làm vua 38 năm đặt niên hiệu hai lần. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Việt Nam thời dựng nước
Top