Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Việt Nam thời dựng nước
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ButNghien" data-source="post: 14631" data-attributes="member: 18"><p><strong>Lê nhân tông ( 1443 – 1459)</strong></p><p></p><p><strong>Niên hiệu – Đại Hòa ( 1443- 1453)</strong></p><p><strong>Diên Ninh ( 1454 – 1459)</strong></p><p></p><p>Vua Lê Thái Tông mặc dù mới có 20 tuổi, nhưng khi mất đi đã kịp để lại bốn người con trai do bốn bà vợ sinh ra. Bà Chiêu nghi họ Dương sinh ra Lệ Đức hầu. Nghi Dân. Bà thần phi họ Nguyễn sinh ra Hoàng tử Bang Cơ ( sau là vua Nhân Tông), bà Tiệp Dư họ Ngô sinh ra Tư thành ( sau là vua Thánh Tông) và một bà vợ khác sinh ra Cung vương Khắc Xương.</p><p></p><p>Như vậy, vua Lê Nhân Tông cũng không phải là con trưởng của vua Thái Tông. Ông Húy là Bang Cơ, là con trai thứ ba của Thái Tông. Mẹ là Tuyên từ Hoàng thái hậu họ Nguyễn ( sau này mới phong), húy là Anh, người làng Bố Vệ huyện Đông Sơn ( Thanh Hóa). Bang Cơ sinh ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu ( 1441), đến ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu ( 1441) được lập làm Hoàng Thái Tử, và ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất ( 1442) được lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Hòa. Khi lên ngôi vua mới lên hai tuổi, thái hậu phải buông rèm nghe chính sự, tạm quyết đoán việc nước. May thay Thái hậu là người tận tâm bảo hộ, tín nhiệm đại thần, theo dùng phép sẵn có, trong khoảng hơn 10 năm giúp ấu chúa, trong nước bình yên. Tháng 11 năm Quý Dậu ( 1453), vua 12 tuổi, có thể tự coi được chính sự. Thái hậu trả quyền chính cho Vua rồi lui về ở cung riêng. Khi tự mình ra coi chính sự. Vua đổi niên hiệu là Diên Ninh, đại xá cho thiên hạ. Người đời bấy giờ hết lời ca ngợi đức độ và tài năng của Vua và thái hậu. Bài văn bia Mục Lăng do Nguyễn Bá Kỷ sau có ghi : Vua thần sắc anh tuấn, dung dáng đúng đắn, mỗi khi tan chầu, thân đến Kinh Diên đọc sách, mặt trời xế bóng về tây mới thôi. Khi đã thân coi chính sự thì tế thần kỳ, thờ tôn miếu, đối với thái hậu hết lòng hiếu lễ, đối với anh em hết lòng thân yêu, hòa thuận với họ hàng, kính lễ với đại thần, tôn chuộng nho thuật, xét lời gần, nghe lời xa, chăm sóc chính sự, cẩn thận thưởng phạt, trọng việc nông trang, chuộng nghề gốc rễ, hết lòng thương dân, không thích xây dựng, không ham săn bắn, không gần thanh sắc, không hám tiền của, hậu đối với người, bạc đối với mình, bên trong yên tĩnh, bên ngoài thuận lòng, răn cấm tướng ngoài biên không gây hấn khích. Đến khi Chiêm thành hai lần cướp Hóa Châu thì sai tướng đem quân đi đánh, giết được vua Chiêm là Bí Cai, nước lớn sợ uy, nước nhỏ mến đức. Phàm chính sự đều noi theo phép cũ, đều có phép sẵn, sai đình thần họp bàn tất cả rồi mới thi hành, cho nên chính trị hay giáo hóa tốt, khắp ra bốn biển, trăm họ mến đức, đời được Thái Bình.</p><p></p><p>Chính dưới thời vua Nhân Tông, năm Quý Hợi ( 1455), triều đình sai Phan Phù Tiên biên soạn Đại Việt sử ký, viết tiếp cuốn sử của thời Trần từ Trần Thái Tông cho đến khi người Minh về nước.</p><p></p><p>Nhưng mặc dù là một ông vua nhân từ và sáng suốt, nhưng vì không nghe theo nguyên tắc dòng đích nên mùa đông năm Kỷ Mão ( 1459) Lạng Sơn Vương Nghi Dân ( là anh vua Nhân Tông) đang đêm bắc thang vào tận trong cung cấm. Vua và Tuyên từ Hoàng thái Hậu bị giết, khi đó vua mới 19 tuổi, ở ngôi được 17 năm, đặt liên hiệu hai lần.</p><p></p><p>Nghi Dân tự lập làm vua, nhưng chỉ 8 tháng sau lại bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa giết bọn phản nghịch, giáng Nghi Dân xuống tước hầu rồi tìm lập một người con khác của Thái Tông lên làm vua, đó là vua Lê Thánh Tông.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ButNghien, post: 14631, member: 18"] [b]Lê nhân tông ( 1443 – 1459)[/b] [B]Niên hiệu – Đại Hòa ( 1443- 1453) Diên Ninh ( 1454 – 1459)[/B] Vua Lê Thái Tông mặc dù mới có 20 tuổi, nhưng khi mất đi đã kịp để lại bốn người con trai do bốn bà vợ sinh ra. Bà Chiêu nghi họ Dương sinh ra Lệ Đức hầu. Nghi Dân. Bà thần phi họ Nguyễn sinh ra Hoàng tử Bang Cơ ( sau là vua Nhân Tông), bà Tiệp Dư họ Ngô sinh ra Tư thành ( sau là vua Thánh Tông) và một bà vợ khác sinh ra Cung vương Khắc Xương. Như vậy, vua Lê Nhân Tông cũng không phải là con trưởng của vua Thái Tông. Ông Húy là Bang Cơ, là con trai thứ ba của Thái Tông. Mẹ là Tuyên từ Hoàng thái hậu họ Nguyễn ( sau này mới phong), húy là Anh, người làng Bố Vệ huyện Đông Sơn ( Thanh Hóa). Bang Cơ sinh ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu ( 1441), đến ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu ( 1441) được lập làm Hoàng Thái Tử, và ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất ( 1442) được lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Hòa. Khi lên ngôi vua mới lên hai tuổi, thái hậu phải buông rèm nghe chính sự, tạm quyết đoán việc nước. May thay Thái hậu là người tận tâm bảo hộ, tín nhiệm đại thần, theo dùng phép sẵn có, trong khoảng hơn 10 năm giúp ấu chúa, trong nước bình yên. Tháng 11 năm Quý Dậu ( 1453), vua 12 tuổi, có thể tự coi được chính sự. Thái hậu trả quyền chính cho Vua rồi lui về ở cung riêng. Khi tự mình ra coi chính sự. Vua đổi niên hiệu là Diên Ninh, đại xá cho thiên hạ. Người đời bấy giờ hết lời ca ngợi đức độ và tài năng của Vua và thái hậu. Bài văn bia Mục Lăng do Nguyễn Bá Kỷ sau có ghi : Vua thần sắc anh tuấn, dung dáng đúng đắn, mỗi khi tan chầu, thân đến Kinh Diên đọc sách, mặt trời xế bóng về tây mới thôi. Khi đã thân coi chính sự thì tế thần kỳ, thờ tôn miếu, đối với thái hậu hết lòng hiếu lễ, đối với anh em hết lòng thân yêu, hòa thuận với họ hàng, kính lễ với đại thần, tôn chuộng nho thuật, xét lời gần, nghe lời xa, chăm sóc chính sự, cẩn thận thưởng phạt, trọng việc nông trang, chuộng nghề gốc rễ, hết lòng thương dân, không thích xây dựng, không ham săn bắn, không gần thanh sắc, không hám tiền của, hậu đối với người, bạc đối với mình, bên trong yên tĩnh, bên ngoài thuận lòng, răn cấm tướng ngoài biên không gây hấn khích. Đến khi Chiêm thành hai lần cướp Hóa Châu thì sai tướng đem quân đi đánh, giết được vua Chiêm là Bí Cai, nước lớn sợ uy, nước nhỏ mến đức. Phàm chính sự đều noi theo phép cũ, đều có phép sẵn, sai đình thần họp bàn tất cả rồi mới thi hành, cho nên chính trị hay giáo hóa tốt, khắp ra bốn biển, trăm họ mến đức, đời được Thái Bình. Chính dưới thời vua Nhân Tông, năm Quý Hợi ( 1455), triều đình sai Phan Phù Tiên biên soạn Đại Việt sử ký, viết tiếp cuốn sử của thời Trần từ Trần Thái Tông cho đến khi người Minh về nước. Nhưng mặc dù là một ông vua nhân từ và sáng suốt, nhưng vì không nghe theo nguyên tắc dòng đích nên mùa đông năm Kỷ Mão ( 1459) Lạng Sơn Vương Nghi Dân ( là anh vua Nhân Tông) đang đêm bắc thang vào tận trong cung cấm. Vua và Tuyên từ Hoàng thái Hậu bị giết, khi đó vua mới 19 tuổi, ở ngôi được 17 năm, đặt liên hiệu hai lần. Nghi Dân tự lập làm vua, nhưng chỉ 8 tháng sau lại bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa giết bọn phản nghịch, giáng Nghi Dân xuống tước hầu rồi tìm lập một người con khác của Thái Tông lên làm vua, đó là vua Lê Thánh Tông. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Việt Nam thời dựng nước
Top