Trả lời chủ đề

Xưa  nhất phải kể đến Triệu Cao, một hoạn quan được giữ chức thừa  tướng dưới  thời nhà Tần và đã làm sụp đổ cả triều đại này. Triệu Cao đã  giả di  chiếu của Tần Thuỷ Hoàng, buộc con trưởng là Phù Tô phải tự sát  để  nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hợi lên làm vua, tức hoàng đế Tần Nhị  Thế,  rồi Triệu Cao cướp ngôi nhà Tần dẫn đến việc nhà Tần rơi vào tay  nhà  Hán. Hay như dưới thời vua Hán Linh Đế có loạn “Thập thường thị”,  mười  hoạn quan thao túng triều đình, làm tan rã nhà Hán và quyền hành  rơi vào  tay Đổng Trác, mở đường cho Tam Quốc phân tranh.








 

Trong  lịch sử  nước ta, không biết hoạn quan có từ bao giờ nhưng một trong  những hoạn  quan được sử sách ghi lại dưới thời nhà Lý là Lý Thường  Kiệt, vị tướng  tài giỏi bậc nhất và là anh hùng kiệt xuất của dân tộc  ta. Mặc dù có  nhiều người phục cái tài của Lý Thường Kiệt, ngưỡng mộ  những công trạng  mà ông đã lập được cho đất nước, nhưng cũng có không  ít nho gia đã khinh  khi ông chỉ vì ông là một hoạn quan. Để biết được  Lý Thường Kiệt có  đáng phải nhận thái độ khinh khi của các nho gia dành  cho ông hay không,  chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu xem nguyên nhân nào  ông trở thành hoạn  quan.

 

Xét về thân thế Lý Thường Kiệt

 

Lý   Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn, sinh năm 1019 vào thời vua Lý Thái  Tổ  và mất năm 1105 dưới thời vua Lý Nhân Tông. Khi còn trẻ ông rất đẹp  trai  và được phong “Đệ nhất mỹ nam tử” thời bấy giờ. Ông có tên tự là  Thường  Kiệt, sau được vua ban quốc tính đổi sang họ Lý nên có tên là Lý  Thường  Kiệt. Ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, và bà Hàn  Diệu  Chi. Ngô An Ngữ là tướng của Khai Quốc vương Lý Long Bồ, người  con trai  thứ hai của vua Lý Thái Tổ.

 

Ngô An Ngữ có công  với triều Lý và  tuẫn quốc, chẳng bao lâu sau thì vợ ông, bà Hàn Diệu  Chi cũng qua đời.  Do cha mẹ mất sớm nên hai đứa con còn nhỏ của họ là  Thường Kiệt và  Thường Hiến được Lý Long Bồ nhận làm con nuôi. Đến đời  vua Lý Thánh  Tông, ông được vua nhận làm thiên tử nghĩa nam, tức con  nuôi của vua.  Ngoài ra, Lý Thường Kiệt còn là cháu gọi bà Ngô Thuần  Trúc, bằng cô. Ngô  Thuần Trúc là phu nhân của tướng Tạ Đức Sơn, người  giữ chức Điện tiền  Chỉ huy sứ, thống lĩnh ngự lâm quân của triều đình.  Ngoài ra, Lý Thường  Kiệt còn có quan hệ họ hàng với bà Ngô Cẩm Thi, vợ  của tướng Tôn Đản.

 

Trong  đời, ông đã từng giữ qua nhiều  chức vụ quan trọng. Trước tiên là chức  Thái tử Mật thư tỉnh sự, giúp  thái tử Lý Nhật Tôn ở Đông cung, tức vua  Lý Thánh Tông sau này. Sau khi  bị hoạn, ông được cho giữ chức Hoàng môn  chi hậu , rồi được thăng đến  chức Nội thị sảnh đô tri, sau được cho giữ  chức Đình Uý sứ, trông coi  các việc về hình án trong triều. Năm 1042,  vua Lý Thái Tông giao cho  ông cùng với một số đại thần soạn thảo bộ Luật  “Hình thư”, bộ luật này  được xem là bộ luật hình sự đầu tiên của nước  ta.

 

Đến đời  vua Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt được thăng đến  chức Thái bảo, sau đó  do lập được nhiều chiến công trong trận đánh với  Chiêm Thành nên ông  được phong chức phụ quốc Thái phó, tước Khai Quốc  công. Đến tháng 8 năm  1075 ông được phong chức Đôn quốc Thái uý. Đến khi  mất, ông được vua  Lý Nhân Tông truy phong chức Kiểm hiệu Thái uý Bình  chương sự và ban  tước Việt Quốc công.

 

Lập nhiều đại công hiển hách

 

Các   đại công Lý Thường Kiệt đã lập phải kể đến trận đánh Tống kinh thiên   động địa cuối năm 1075. Trận đánh này do Lý Thường Kiệt tổng chỉ huy   quân Đại Việt vượt biên giới phía bắc đánh các châu phía nam của nhà   Tống như: Khâm, Liêm và Ung châu nhằm phá huỷ đường xá, cầu cống, các   kho lương thực và vũ khí mà Tống tích trữ để chuẩn bị đánh Đại Việt.

 

Đây   là kế hoạch của Linh Nhân hoàng thái hậu Ỷ Lan khi nhận được tin từ  Khu  Mật Viện Đại Việt rằng Tống đang luyện binh và tích trữ lương thực   chuẩn bị đưa quân tấn công nước ta theo kế hoạch nam tiến của Tể tướng   nhà Tống là Vương An Thạch. Kế hoạch đánh Tống của bà Ỷ Lan đã được Lý   Thường Kiệt và các tướng lúc bấy giờ ủng hộ. Theo kế hoạch này, Đại  Việt  phòng thủ bằng cách chủ động tấn công trước, đánh phủ đầu quân  Tống,  phá kho lương thực, vũ khí, đường xá và cầu cống nhằm ngăn cản  cuộc xâm  lăng của nhà Tống. Sau khi hoàn thành kế hoạch, hạ thành cuối  cùng là  thành Ung Châu, quân Đại Việt rút về nước.

 

Dân gian có câu ca dao ca tụng việc Lý Thường Kiệt đưa quân qua biên giới phía bắc đánh Tống trong trận này như sau:

 

Nực cười châu chấu đá xe

Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng 

 

Hoặc là:

 

Đem  chuông đi đánh xứ ngườiChẳng kêu cũng đánh vài hồi lấy danhChiến  thắng  này đã làm cho nhà Tống mất mặt đến mức vua Tống Thần Tông đã  phải  nhượng bộ nước Hạ ở phía tây và chấp nhận cắt đất dâng cho nước  Liêu ở  phía bắc để rảnh tay đối phó với Đại Việt. Năm 1076, nhà Tống đã  huy  động toàn bộ lực lượng binh lính ở phía bắc và phía tây tham gia vào   cuộc chiến đánh trả thù, quyết tâm chiếm Đại Việt. Trong trận này, hai   tướng Quách Quỳ và Triệu Tiết cùng 12 tướng đã từng đánh trận ở Tây Hạ   đem khoảng 30 vạn quân tấn công Đại Việt. Nhưng với sự chỉ huy tài giỏi   của Lý Thường Kiệt, quân Tống đã bị đại bại ở trận chiến trên sông Như   Nguyệt và buộc phải rút quân. Trận thắng Tống lần này đã làm đảo lộn cả   giang san nhà Tống và đã phá vỡ kế hoạch của Vương An Thạch.

 

Các   lần cầm quân đánh quân Chiêm phải kể đến trận chiến năm 1069, Lý  Thường  Kiệt bắt được vua Chiêm là Chế Củ và các tôn thất, sau đó Chế Củ  xin  dâng 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để chuộc mạng. Tháng 10  năm  1103, mặc dù tuổi cao nhưng Lý Thường Kiệt đã xin vua cho đi đánh  Lý  Giác ở Diễn Châu nổi lên làm phản. Năm 1104, ở tuổi 85 nhưng Lý  Thường  Kiệt vẫn còn cầm quân trực tiếp đi đánh Chiêm Thành khi vua  Chiêm là Chế  Ma Na đem quân đánh lấy lại ba châu do Chế Củ đã dâng cho  Đại Việt để  chuộc tội trước đây. Lý Thường Kiệt đã đánh thắng trận này,  buộc Chế Ma  Na phải nộp lại vùng đất đó cho Đại Việt.

 

Vì sao Lý Thường Kiệt trở thành hoạn quan?

 

Nhiều   câu hỏi đã được đặt ra rằng tại sao vị anh hùng của dân tộc ta là một   hoạn quan? Hoạn quan thường không được trọng dụng trong những việc quốc   sự và đánh giặc nhưng Lý Thường Kiệt được cầm quân đánh giặc và lập  được  nhiều đại công làm cho quân Tống phía Bắc, quân Chiêm phía Nam  phải  khiếp sợ. Điều này chứng tỏ Lý Thường Kiệt không giống như những  hoạn  quan khác. Vậy việc tịnh thân của Lý Thường Kiệt có một lý do đặc  biệt  nào khác chăng? Hay ông là một hoạn quan bẩm sinh? Hoặc việc tịnh  thân  của ông là một tai nạn hay chính ông là một nạn nhân?

 

1. Lý Thường Kiệt là một hoạn quan bẩm sinh?

 

Lý   Thường Kiệt chắn chắn không phải là một hoạn quan bẩm sinh vì trước  khi  trở thành hoạn quan ông đã có một mối tình với Dương Hồng Hạc, tức   hoàng hậu Thượng Dương sau này. Dương Hồng Hạc là cháu của hoàng hậu   Thiên Cảm, vợ vua Lý Thái Tông. nên hoàng hậu Thiên Cảm đã sắp xếp cho   cháu bà là Hồng Hạc trở thành vợ của thái tử Lý Nhật Tôn, tức vua Lý   Thánh Tông sau này.

 

Việc Dương Hồng Hạc trở thành vợ của  thái tử  Nhật Tôn có thể gây nguy hiểm cho Lý Thường Kiệt nếu triều đình  khám phá  ra mối tình của ông với Hồng Hạc trước đây. Vì vậy, cha nuôi  của ông là  Lý Long Bồ đã sắp xếp cho Lý Thường Kiệt đính hôn với Tạ  Thuần Khanh,  là con gái của quan Điện suý Tạ Đức Sơn và bà Ngô Thuần  Trúc. Trong khi  chờ đợi chính thức nên vợ nên chồng với Tạ Thuần Khanh  thì Lý Thường  Kiệt trở thành hoạn quan, cho nên ông đã từ hôn với người  vợ chưa cưới.

 

2. Lý Thường Kiệt tự hoạn vì tiền?

 

Có   nhiều lý do được đưa ra để giải thích việc Lý Thường Kiệt trở thành   hoạn quan. Có người tin rằng vì vua Lý Thái Tông thấy Lý Thường Kiệt   “mặt mũi đẹp đẽ” nên cho 3 vạn quan tiền bảo tự hoạn để vào cung hầu hạ.   Lập luận này không mấy có lý bởi vì, thứ nhất số tiền 3 vạn quan là  một  số tiền rất lớn thời bấy giờ. Sử sách còn ghi lại rằng năm 1254 vua   Trần Thái Tông cho Phạm Ứng Mộng 400 quan bảo “tự hoạn” để vào cung  hầu  hạ vua. Không thể nào trước đó 213 năm, số tiền vua cho Lý Thường  Kiệt  lại lớn gấp 75 lần.

 

Thứ hai, Lý Thường Kiệt không  thể vì túng  tiền mà phải tự nguyện tĩnh thân để có 3 vạn quan. Mặc dù  cha mẹ mất sớm  nhưng cha ông, Ngô An Ngữ là một công thần của nhà Lý  nên anh em Lý  Thường Kiệt thừa hưởng gia sản của người cha để lại đủ để  anh em ông  sống một cuộc sống không thua gì con cái của các quan lại  trong triều,  cho nên Lý Thường Kiệt không thể nào “túng thiếu” đến mức  phải tịnh thân  vì lý do tiền bạc.

 

3. Tự nguyện tịnh thân để được vào cung?

 

Với   cương vị là con của một công thần đã vì nước hy sinh và gia đình nối   đời làm quan, Lý Thường Kiệt đã có sẵn cánh cửa mở rộng để “tập ấm làm   quan” mà không cần phải qua thi cử dành cho những dân thường khác. Hơn   nữa, ông còn là người tài trí thông minh, văn võ song toàn thì việc vào   cung không phải là chuyện khó; chỉ cần tham dự một kỳ thi ứng thí võ   công do triều đình mở ra, ông có thể đậu và trở thành một võ quan một   cách dễ dàng.

 

4. Lý Thường Kiệt bị vua trách phạt?

 

Có   một thuyết nữa cho rằng: “vua Lý Thái Tông đánh Chiêm Thành bắt được   Nùng Trí Cao lại tha về, Lý Thường Kiệt can ngăn, vua cho là thất lễ bắt   phải tĩnh thân, sau đó triệu cho vào hầu cận”. Thứ nhất, Nùng Trí Cao   cai quản các khê động ở phía bắc giáp với Tống, trong khi Chiêm Thành ở   phía nam, nên vua Lý Thái Tông đánh Chiêm Thành không thể bắt được  Nùng  Trí Cao. Thứ hai, nếu cho rằng vua Lý Thái Tông vì lòng nhân từ mà  tha  cho một người “nổi lên làm giặc” như Nùng Trí Cao thì không lý nào  vua  lại trở nên “hung ác” đến độ “đem thiến” một người thân cận chỉ vì  người  đó can ngăn chuyện này.

 

5. Lý Thường Kiệt bị bức hại?

 

Có   thuyết cho rằng Lý Thường Kiệt bị hại bằng cách cho đánh thuốc mê rồi   hoạn ông trong đợt tuyển hoạn quan dưới thời vua Lý Thái Tông và trong   thời gian dài Lý Thường Kiệt không biết ai đứng đằng sau chuyện này.  Lập  luận này có lý hơn khi nhìn lại những chuyện “thâm cung bí sử”  trong  cung đình lúc bấy giờ.

 

Nếu không biết chuyện tình  cảm trước đây  của Lý Thường Kiệt với Dương Hồng Hạc cũng như chuyện  lộng quyền của gia  đình họ Dương đối với triều Lý dẫn đến việc họ Dương  làm gian tế cho  Tống như thế nào, có thể chúng ta nghĩ rằng Lý Thường  Kiệt trở thành  hoạn quan là do những nguyên nhân kể trên. Để hiểu thêm  chuyện cung đình  lúc bấy giờ, xin nhắc vài sự việc để chúng ta có thêm  dữ kiện liên quan  đến câu chuyện của Lý Thường Kiệt.

 

Dương  Hồng Hạc là hoàng hậu,  vợ vua Lý Thánh Tông, sau này trở thành thái  hậu Thượng Dương. Thái hậu  Thượng Dương là người mà chính sử ghi rằng  đã bị hoàng thái hậu Linh  Nhân, tức bà Ỷ Lan chôn sống với 72 cung nữ  sau khi vua Lý Thánh Tông  băng hà. Mặc dù chính sử ghi nguyên nhân của  câu chuyện này không rõ  ràng lắm nhưng các nguồn tư liệu khác có nói  việc chôn sống này là do  thái hậu Thượng Dương cùng với 72 cung nữ là  “tay chân” của bà và những  người thân thuộc họ Dương đã làm gian tế cho  Tống, được nhà Tống sắp xếp  cướp ngôi khi vua Lý Thánh Tông mất.

 

Dương  Hồng Hạc là con của  Dương Đức Uy và là cháu gọi hoàng hậu Thiên Cảm,  vợ vua Lý Thái Tông,  bằng cô. Khi hoàng hậu Thiên Cảm được vua Lý Thái  Tông sủng ái, cha của  bà là Dương Đức Thành được phong làm Tể Tướng. Từ  đó thế lực họ Dương  được hình thành như: Dương Đạo Gia, Dương Đức Uy,  Dương Đức Thao, Dương  Đức Huy… ba thế hệ lần lượt nắm giữ các chức vụ  quan trọng trong triều.

 

Để  tạo thêm thế lực cho họ Dương,  hoàng hậu Thiên Cảm đã đem đứa cháu gọi  bằng cô ruột là Dương Hồng Hạc  gả cho con chồng là thái tử Lý Nhật Tôn  để khi Nhật Tôn lên làm vua  thì Hồng Hạc trở thành hoàng hậu. Trước khi  lấy Hồng Hạc, thái tử Nhật  Tôn đã được cảnh giác về việc họ Dương lộng  quyền có thể dẫn đến cướp  ngôi vua như Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, vì  vậy Nhật Tôn không muốn  gần gũi với Hồng Hạc vì lo sợ nếu có con sẽ  trúng kế họ Dương.

 

Mặc  dù làm vợ thái tử nhưng Dương Hồng Hạc  chẳng hề được chồng đoái hoài  tới nên Hồng Hạc nhớ tới người tình cũ –  Lý Thường Kiệt, người đang giữ  chức Thái tử Mật thư tỉnh sự, giúp thái  tử Nhật Tôn ở Đông cung. Mặc  dù giữa Thường Kiệt với Nhật Tôn bên ngoài  là quan hệ chúa – tôi nhưng  bên trong hai người rất gần gũi và thân với  nhau vì hai người đều là  con nuôi của Lý Long Bồ, cùng chơi đùa với nhau  từ thời thơ ấu. Vì vậy,  Dương Hồng Hạc đã nhờ Thường Kiệt giúp mình nói  với Nhật Tôn để được  “ban hồng ân”.

 

Có lẽ vì lo cho hậu  vận nhà Lý nên Thường  Kiệt đã không nhận lời giúp đỡ Hồng Hạc. Phải  chăng vì lý do đó mà ông  đã bị Hồng Hạc và hoàng hậu Thiên Cảm ra tay  bức hại trong một đợt tịnh  thân tuyển hoạn quan vào cung? Hậu quả của  việc này cũng giải thích  phần nào lý do tại sao Lý Thường Kiệt đã đứng  về phe của bà Ỷ Lan chứ  không phải là phe của hoàng hậu Thượng Dương  trong việc tranh giành  quyền “nhiếp chính” sau khi vua Lý Thánh Tông  mất.

 

Riêng  về cuộc đời của Dương Hồng Hạc, sau khi thái  tử Nhật Tôn lên ngôi tức  vua Lý Thánh Tông, hoàng hậu Thiên Cảm lúc đó  trở thành thái hậu và đã  ép vua Lý Thánh Tông phong Hồng Hạc làm hoàng  hậu, tức hoàng hậu Thượng  Dương. Nhưng từ khi được tiến cung đến khi trở  thành hoàng hậu cho tới  khi vua Lý Thánh Tông mất, Dương Hồng Hạc hay  hoàng hậu Thượng Dương  sau này chưa một lần được vua “ban ân sủng”. Bà  đã sống âm thầm lặng lẽ  trong cung với mối hận nhà Lý không nguôi nên đã  cùng với bác là Tể  tướng Dương Đạo Gia và tay chân họ Dương âm mưu cướp  ngôi nhà Lý khi  vua Lý Thánh Tông mất. Vì vậy mới có câu chuyện thái  hậu Thượng Dương  cùng 72 cung nữ bị giam và bị chôn sống theo vua Lý  Thánh Tông mà chúng  ta đã biết qua sử sách.

 

Bài viết này chỉ muốn  phân giải  phần nào nguyên nhân trở thành hoạn quan của Lý Thường Kiệt,  người mà  cho dù đã lập được nhiều đại công nhưng vẫn bị các nho gia  khinh khi.  Đứng trên phương diện nhìn về lịch sử đã qua, cho dù Lý  Thường Kiệt là  hoạn quan với bất kỳ lý do nào khác, lòng tôn kính của  hậu thế chúng ta  đối với ông phải dựa trên những công trạng ông đã đóng  góp cho đất  nước, trong đó chiến công hiển hách nhất là đánh giặc Tống  để giữ vững  nền độc lập cho nước Đại Việt. Công trạng đối với đất nước  mới là điểm  chính yếu xác định ai là anh hùng dân tộc, là người mà muôn  dân phải  luôn tôn kính và ghi nhớ.

 


Nguồn: lophocvuive.com


Top