VÉN BỨC MÀN HÓA HỌC
1. Vì sao cá biển chứa nhiều thủy ngân ?
Thuỷ ngân là sản phẩm phụ thoát ra từ hoạt động đốt than, chất thải công nghiệp và các hoạt động khác của con người. Nó ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ sơ sinh, gây bệnh tim và một số căn bệnh khác ở người trưởng thành. Hơn 90% methyl thủy ngân trong cơ thể người dân Mỹ có nguồn gốc từ các sinh vật biển hai mảnh vỏ và cá biển, đặc biệt là cá ngừ.
Lâu nay các nhà khoa học vẫn chưa nghiên cứu nhiều về vấn để thuỷ ngân có trong đại dương. Mặc dù lượng thuỷ ngân trong môi trường nước biển thấp nhưng cá biển lại có hàm lượng thuỷ ngân cao. Nước biển có chứa quá ít methyl thủy ngân nên các nhà khoa học gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập các mẫu nghiên cứu đáng tin cậy và họ không thể giải thích rõ ràng thuỷ ngân xâm nhập từ môi trường vào cơ thể của cá biển qua con đường nào?
Cá biển là nguồn thực phẩm dồi dào nhưng cũng chứa những nguy cơ gây hại cho sức khỏe
Nhà khoa học Krabbenhoft và các đồng nghiệp của ông là những người đầu tiên áp dụng các kỹ thuật mới, có độ nhạy cao để lấy mẫu nước tại 16 điểm ở Thái Bình Dương , từ Alaska tới Hawaii. Tại mỗi điểm, các nhà nghiên cứu phân tích các mẫu cách nhau 100m cho tới độ sâu 1000m.
Khi xây dựng đồ thị, họ nhận thấy lượng methyl thủy ngân cao nhất tại những độ sâu nơi oxi bị rút nhanh nhất. Tại vùng này, xác tảo chìm xuống vùng đáy nước đậm đặc khiến chúng khó bị cuốn đi. Độ sâu đó là từ khoảng 300m đến 800m, nơi có cá ngừ sinh sống.
Những giả thuyết trước đây thường cho rằng thuỷ ngân trong nước biển thoát ra từ các núi lửa dưới đáy đại dương hoặc từ các dòng chảy của sông. Nay, các chuyên gia đã lý giải được cách thức thuỷ ngân xâm nhập vào cơ thể cá.
Ban đầu, loài tảo ở mặt nước hấp thụ thuỷ ngân từ không khí. Hiện tượng này xảy ra mạnh ở vùng ngoài khơi châu Á, nơi có nhiều thủy ngân thoát ra từ các nhà máy nhiệt điện. Các dòng hải lưu đưa chúng theo chiều ngược kim đồng hồ vượt qua Thái Bình Dương đến Bắc Mỹ và trở lại. Khi tảo chết, chìm xuống và phân huỷ trên đường đi, chúng thải ra methyl thủy ngân (thủy ngân ở dạng hòa tan trong chất béo). Chất độc này theo chuỗi thức ăn vào cơ thể cá và người ăn chúng.
So sánh với các nghiên cứu trước đây, các nhà khoa học cảnh báo về mức độ gia tăng báo động của mực thuỷ ngân trong nước biển trong hai thập kỷ qua. Nồng độ thuỷ ngân đã gia tăng 30% tại Thái Bình Dương trong khoảng thời gian này. Và nếu việc phát tán vẫn tiếp tục gia tăng như dự kiến, nồng độ thủy ngân sẽ tăng thêm 50% nữa cho tới năm 2050.
“Quả thực đáng ngạc nhiên khi họ có thể phát hiên sự gia tăng của nồng độ thuỷ ngân tại Thái Bình Dương”, ông Vincent St. Louis, một nhà sinh địa hoá tại đại học Alberta. “Đó là một vùng nước rất rộng lớn”.
Bằng việc vạch ra mối liên hệ rõ ràng giữa chất thải từ hoạt động của con người với sự gia tăng mực thuỷ ngân trong cơ thể cá, nghiên cứu là một căn cứ để thuyết phục các nhà hoạch định chính sách rằng có một mối nguy cơ lớn nếu thiếu sự kiểm soát các chất thải ra môi trường.
2. Bí mật của kim cương
Vẻ đẹp và sự quý giá của kim cương đã mê hoặc con người bao đời nay
Nguồn gốc của kim cương tự nhiên
Hơn một tỷ năm trước, ở sâu dưới lòng đất, sức nóng khủng khiếp cùng với áp suất cực cao đã tôi luyện nên những hạt kim cương quý giá mà người ta khai thác ngày nay. Các hạt này theo nham thạch núi lửa dần được đưa lên gần bề mặt trái đất. Sau mỗi trận phun nham thạch như thế, núi lửa để lại một hình trụ bằng đá có hình dáng tựa củ cà rốt gọi là kimberlite, trong ruột của nó nạm đầy kim cương, hồng ngọc cùng vô số các thứ đá quý khác.
Sơ đồ hình thành kimberlite
Từ "diamond" - kim cương - bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ, "adamas", có nghĩa là vô song. Người Ấn Độ từng khai thác kim cương và sử dụng trên những biểu tượng tôn giáo cách đây ít nhất 2.500 năm. Người La Mã thuộc thế kỷ thứ nhất cũng đã biết dùng nó để khắc những đồ trang sức đá chạm.
Trải qua các thời đại, kim cương được coi là vật huyền bí, tượng trưng cho quyền uy và sự giàu sang. Vào thế kỷ thứ 16, viên kim cương 109 carat có tên Koh-I-Noor tìm được ở mỏ Kollur, miền nam Ấn Độ, được đánh giá là vật quý báu nhất của toàn bán lục địa Ấn Độ. Nước Anh chiếm được Koh-I-Noor năm 1849 khi hai xứ Lahore và Punjab trở thành thành viên của đế quốc Anh. Viên kim cương này hiện nay đang được lưu giữ ở tháp London, chính là viên ngọc nằm giữa vương miện của nữ hoàng Elizabeth.
https://hoahoc365.com/photo.php?name=tt_h6.
Viên kim cương nổi tiếng trên vương miện nữ hoàng Elizabeth
Khi giá trị được nhân lên …
Sự phổ biến của kim cương tăng lên ở thế kỷ 19, khi kỹ thuật đánh bóng và cắt đã đạt đến trình độ khá cao. Ở dạng thô, kim cương không đẹp và ít chiết quang, nhưng sau khi được cắt, nó mang một vẻ đẹp riêng không gì sánh nổi. Có vô số cách cắt được nghĩ ra từ xưa đến nay như cắt “tròn”, “bánh mì” (hạt dưa), “vuông”, “trái tim”, “hoa hồng”. Một viên kim cương được cắt tốt khi nhìn từ trên xuống phải có màu trắng. Nếu được cắt không tốt, khi nhìn từ trên cao xuống sẽ thấy màu đen ở chính giữa và đôi khi có một cái bóng ở đỉnh viên.
Các kiểu cắt kim cương
Quá trình cắt làm tăng giá trị của kim cương do làm tăng độ trong và tôn lên màu sắc, dù khối lượng giảm hơn 30%. Một cấu trúc tinh thể nguyên chất sẽ làm cho viên kim cương trở thành không màu.
Tuy nhiên, hầu hết những viên kim cương đều không hoàn hảo. Màu sắc có thể làm tăng hay giảm giá trị của viên đá. Những đốm nhỏ màu vàng sẽ làm giảm giá trị kim cương đi rất nhiều trong khi màu hồng hay xanh dương (như viên kim cương Hope) sẽ làm nó trở nên quý giá hơn.
Viên kim cương Hope mang theo lời nguyền cho những ai sở hữu nó ?
Tạp chất thường gặp nhất trong kim cương là nitơ. Một phần nhỏ nitơ trong tinh thể kim cương sẽ làm cho nó có màu vàng, thậm chí màu nâu. Trái với màu vàng và màu nâu, những màu khác khó tìm thấy hơn và có giá trị hơn. Chỉ cần viên kim cương hơi hồng hay xanh lam thì giá trị đã rất cao rồi. Tùy theo mạng tinh thể carbon bị thay thế bằng nguyên tố nào mà kim cương sẽ có màu đó. Những màu thường gặp là vàng, hồng, xanh dương, xanh lá cây, đỏ, nâu...
Lịch sử non trẻ của kim cương nhân tạo
Mặc dù từ năm 1796, nhà hóa học Smithson Tennan đã khám phá ra cấu trúc hoá học của kim cương là những phân tử carbon 4, nối với nhau bằng những liên kết đối xứng hình lập phương. Nhưng mãi cho đến thập niên 50 của thế kỷ 20, người ta mới bắt đầu thử chế tạo kim cương nhân tạo. Ban đầu, các nhà khoa học luyện than chì graphite ở 1.400 độ C, với áp suất cao hơn áp suất không khí 55.000 lần. Kết quả, họ thu được những viên đá nhỏ không tinh khiết, chỉ có thể dùng chế tạo lưỡi khoan nha khoa và làm lưỡi cưa sắt do độ cứng không cao.
Cấu trúc tinh thể kim cương là những phân tử
Nhiều nhà khoa học đã bỏ cuộc bởi không lo nổi chi phí cho các thí nghiệm kiểu này nhưng có 1 người vẫn kiên trì theo đuổi và ông đã thành công. Năm 1958 Robert Linares đã phát minh ra kỹ thuật chế tạo kim cương. Năm 1966, ông khám phá trị số chính xác của hỗn hợp khí và nhiệt độ để có thể tạo những hột xoàn lớn dưới dạng một tinh thể duy nhất.
Để có sự thẩm định vô tư về phẩm chất thứ đá quý nhân tạo này, Robert Linares mang viên đá 0,38 carat, thành phẩm của mình, đến chỗ Virgil Ghita, chủ tiệm nữ trang uy tín Ghita′s ở phố Boston. Ông ta dùng cây nhíp nhỏ kẹp viên đá, nâng lên trước mắt phải và nhìn qua chiếc kính lúp của thợ vàng. Từ từ, ông ta xoay viên đá ngược phía ánh nắng nghiêng của buổi chiều rồi thốt lên: "Tôi không thấy một khiếm khuyết nào cả. Ông lấy ở đâu ra viên đá tuyệt vời này vậy?". Câu nói đó đủ để khẳng định sự thành công của Robert Linares.
Robert Linares thực hiện một quy trình hóa học "lắng đọng khí", thực chất là nén carbon dạng khí trên các hạt giống kim cương để tạo thành những viên kim cương có kích cỡ lớn hơn chục lần, và dùng kim loại molten làm chất xúc tác ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cực cao. Kim cương từ đó mọc lên bên trên hạt giống dưới dạng carbon kết tinh. Sau này, công ty của gia đình Linares (có tên Apollo Diamond, trụ sở tại Boston bang Machasusette) mỗi tuần cho ra lò khoảng 20 carat kim cương trang sức và các tinh thể kim cương sử dụng cho nghiên cứu chế tạo vi mạch.
Viên kim cương nhân tạo lớn nhất là 15 carat, do Russell Henley, Giám đốc phòng thí nghiệm địa vật lý thuộc Viện Carnegie làm ra. Gần đây, Henley tạo thứ kim cương được cho là rắn nhất. Thoạt đầu, ông cấy "hạt giống" kim cương từ trong phòng thí nghiệm, kế đó mang đặt vào lò có áp suất lẫn nhiệt độ cực kỳ cao làm thay đổi cấu trúc nguyên tử của kim cương. Viên đá quý này trở nên cứng đến mức làm vỡ máy đo độ cứng, dù rằng bộ phận của máy cũng được làm từ kim cương !
Do nhu cầu về kim cương trong các các lĩnh vực y khoa, công nghệ thông tin, hàng không vũ trụ, quân sự... ngày càng lớn nên rất nhiều công ty đang cạnh tranh ráo riết trong sản xuất kim cương nhân tạo. Công ty Gemesis (tại Sarasota, bang Florida) đã phát minh cách chế tạo kim cương màu xanh dương, loại cực hiếm trên thị trường.
Theo hoahoc365.com
3. Lầm tưởng tai hại về những đám cháy kim loại
Bạn sẽ làm gì khi gặp một đám cháy magie ? Dội nước hoặc phun bình cứu hỏa ? Nếu bạn làm như vậy thì kết quả sẽ là một đám cháy càng ngày càng lớn, thậm chí có thể là một vụ nổ !!
Nếu đã từng nghe nói hoặc chứng kiến một đám cháy kim loại trong công nghiệp, bạn hẳn sẽ ngạc nhiên khi thấy cách mà lính cứu hỏa dập tắt nó. Đó là chẳng làm gì cả !
Một vài loại kim loại, trong đó có liti, natri, magie, có thể bốc cháy dễ dàng, và nhanh chóng trở thành một mồi lửa lớn trong các nhà máy. Nhưng ngay cả khi hàng đống kim loại bốc cháy, bạn cũng không cần phải sợ hãi. Chúng không thổi bùng lên, trái lại chúng có xu hướng sản sinh ra tro và lớp tro này sẽ ngăn cản ôxi không thấm sâu vào trong, vì thế đám cháy sẽ từ từ tắt dần.
Nhưng nếu bạn vẫn muốn thử dập tắt một đám cháy kim loại, bạn có thể sẽ chỉ khiến tình hình tệ thêm. Chẳng hạn, magie sẽ cháy mạnh hơn khi có mặt CO2, so với trong không khí. Vì thế, nếu bạn dùng bình cứu hỏa phun bọt CO2 vào đám cháy magie đang nhỏ, nó sẽ đột ngột bùng lên mạnh và nhanh hơn.
Nước thậm chí còn làm tình hình tồi tệ thêm. Nếu kim loại đã tan chảy, kết quả sẽ là một vụ bùng nổ hơi, làm văng kim loại đi khắp nơi. Thêm nữa, một vài loại kim loại khi bị đốt nóng sẽ phân tách nước thành ôxi và hydro, tạo ra tình huống giống như một vụ nổ hydro lớn.
Ngay cả cát khô hoặc muối - những vật liệu tiêu chuẩn để dập tắt đám cháy kim loại - cũng có thể biến thành sự tàn phá. Năm 1993, một nhà máy công nghiệp ở Massachusetts xảy ra đám cháy natri, và đội cứu hỏa địa phương cố gắng dập tắt bằng muối chữa cháy. Không may, muối đã bị ẩm, khiến rất nhiều lính cứu hỏa bị bỏng nặng do vụ nổ hidro gây ra
.
Khi gặp những đám cháy kim loại như thế này thì bạn đừng dùng nước để dập lửa nhé !
Và lần tới, khi gặp đám cháy kim loại, lính cứu hỏa sẽ chỉ làm một việc đơn giản: cách li vụ cháy và đứng xa ra. Đám cháy kim loại quá nguy hiểm để có thể kiểm soát !