• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Về nhà thơ Nguyễn Bính

ngan trang

New member
Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại xã Đồng Đội, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định (hiện nay đã được đổi lại là Hà Nam Ninh); ông lấy bút hiệu Nguyễn Bính.

Theo tài liệu được Hội Nhà Văn ở Hà Nội công bố về tiểu sử của ông: thuở nhỏ Nguyễn Bính không được đi học ở nhà truờng mà chỉ đuợc học ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và đồng thời cũng được người cậu ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy kèm. Ông mồ côi mẹ rất sớm, gia đình túng quẫn, nên khi lên 10 tuổi đã phải theo anh ruột là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Nội sinh sống. Thời gian này ông được người anh dạy học ở nhà... Những năm đầu thập niên 40, Nguyễn Bính nhiều lần lưu lạc vào Miền Nam. Lúc này ông đổi tên là Nguyễn Bính Thuyết. Năm 1 43, Nguyễn Bính lại đi vào Miền Nam lần thứ ba và đã gặp Đông Hồ, Kiên Giang. Có lúc ông cư ngụ trong nhà Kiên Giang... Đó là thời ông viết những bài Hành Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ Độ Về Đây#...

"Từ độ về đây sống rất nghèo
Bạn bè chỉ có gió trăng theo
Những thằng bất nghiã xin đừng tới
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu#."
(Từ Độ Về Đây - 1943)

Năm 1947, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Miền Nam. Đến

Năm 1954, khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước, Nguyễn Bính tập kết về Bắc năm 1955 và được bố trí phục vụ trong Hội Nhà văn ở Hà Nội một thời gian.

Năm 1956, Ông được giao nhiệm vụ phụ trách tờ TRĂM HOA (nguyên văn trong tài liệu của Hội Nhà văn);

Đến năm 1958, Nguyễn Bính chuyển về tỉnh nhà Nam Định và phục vụ trong Ty Văn Hoá Nam Định cho đến ngày ông từ giã cõi đờị

Nguyễn Bính chết ngày 20-1-1966, những ngày cuối năm Ất Tị;

Suốt 30 năm sinh hoạt văn nghệ, nhà thơ đã sáng tác nhiều thể loại như làm thơ, viết kịch, truyện thợ.. Ông sáng tác rất mạnh, viết rất đều và sống hết mình cho sự nghiệp thi cạ Ông đã xuất bản được 20 tác phẩm đủ loại:

- Lỡ Bước Sang Ngang (Thơ 1940)
- Tâm Hồn Tôi (Thơ 1940)
- Hương Cố Nhân (Thơ 1941)
- Một Nghìn Cửa Sổ (Thơ 1941)
- Người Con Gái Ở Lầu Hoa (Thơ 1942)
- Mười Hai Bến Nước (Thơ 1942)
- Mây Tần (Thơ 1942)
- Bóng Giai Nhân (Kịch Thơ 1942)
- Truyện Tỳ Bà (Truyện Thơ 1942)
- Ông Lão Mài Gươm (Thơ 1947)
- Đồng Tháp Mười (Thơ 1955)
- Trả Ta Về (Thơ 1955)
- Gửi Người Vợ Miền Nam (Thơ 1955)
- Trong Bóng Cờ Bay (Truyện Thơ 1957)
- Nước Giếng Thơi (Thơ 1957)
- Tiếng Trống Đêm Xuân (Truyện Thơ 1958)
- Tình Nghĩa Đôi Ta (Thơ 1960)
- Cô Son (Chèo cổ 1961)
- Đêm Sao Sáng (Thơ 1962)
- Người Lái Đò Sông Vỵ (Chèo 1964)

Ngoài những tác phẩm kể trên, còn một số thơ rời viết trong năm 1964, 1965 và 1966 chưa kịp xuất bản.
Nguyễn Bính và “Tỉnh giấc chiêm bao”

1. Cuộc đời của Nguyễn Bính

Nguyễn Bính là bút danh của Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh năm 1918 (khoảng cuối mùa xuân đầu mùa hạ năm Mậu Ngọ) tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đông Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Gia đình ông thuộc loại nhà nho thanh bần, sinh sống tại vùng đất nổi tiếng đồng chua nước mặn. Thân phụ là cụ Nguyễn Đạo Bình (thường gọi Ông Cả Biền) làm nghề dạy học, tính tình điềm đạm, hiền lành, trọng chữ nghĩa hơn c ủa cải vật chất. Thân mẫu là cụ bà Bùi Thị Miện, đức hạnh và xinh đẹp, thuộc một gia đình khá giả và có lòng yêu nước, ở thôn Vân, xã Đông Đội (nay là xã Minh Tân), cùng huyện. Bà sinh cho chồng được ba người con trai là Trúc Đường Nguyễn Mạnh Phát, Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Trọng Bính. Sau khi sinh Nguyễn Bính được đôi ba tháng, bà ra cầu ao rửa chân thì bị rắn độc cắn, mất lúc 24 tuổi. Mấy năm sau, vì cảnh nhà cô quạnh, thân phụ của Nguyễn Bính tái giá với bà Phạm Thị Duyên, rồi sinh thêm được hai con trai và hai con gái.

Tuổi thơ cơ khổ

Sau khi mẹ mất, bà cả Giần, chị ruột của mẹ và là người giàu có, đem ba cháu về cưu mang và cho tiếp tục việc học. Lần này, thầy dạy học chính là anh ruột của mẹ (mà anh em Nguyễn Bính thường gọi là bác), tên là Bùi Trình Khiêm. Cụ Khiêm nổi tiếng hay chữ khắp vùng nhưng thi cử không đỗ. Cụ tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục rồi vào Nam Kỳ định làm báo nhưng bị thực dân Pháp bắt giải về quản thúc ở quê nhà cho tới năm 1945; cụ cũng là thầy học của Trần Huy Liệu. Thời kỳ này Nguyễn Bính bắt đầu tấp tểnh làm thơ và dịch thơ, có bài được bác Khiêm khen hay, nên được nuông chiều. Cùng với việc học chữ nho, Nguyễn Bính vào lớp sơ học trường huyện. Từ năm 1931, ở làng Thiện Vịnh, Nguyễn Bính nổi tiếng thần đồng; được giải nhất trong một cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng. Cậu là người gà thơ cho bên nam đối đáp với bên nữ, cuối cùng, bên nam thắng, dù kẻ gà thơ cho bên nữ là một cụ già 70 tuổi.

Từ quê ra tỉnh

Khoảng năm 1932, Trúc Đường thi đỗ thành chung, vào Hà Đông dạy ở tư thục. Ông mang Nguyễn Bính đi theo, đưa em vào học tiểu học và dạy thêm tiếng Pháp cho em. Ông cũng thường đem em đi khắp các vùng quê để giữ cho mạch thơ của em đưọc chân chất. Đời sống anh em đạm bạc vì lương tháng giáo viên không được bao nhiêu, cá tính của Nguyễn Bính lại vô lo, ham làm thơ hơn học.

Không chịu nổi cánh sống túng thiếu của hai anh em, Nguyễn Bính nghe lời một người bạn học ở thôn Vân rủ lên mạn ngược, vùng Thái Nguyên, dạy học kiếm sống. Nhưng rồi cũng chẳng đủ ăn mà tính nết lại bất định, thích sống rày đây mai đó, Nguyễn Bính lại về Hà Nội, có khi đi bán báo ở phố Hàng Bồ.

Tên Nguyễn Bính bắt đầu xuất hiện và được ngưòi đọc chú ý với bài thơ Cô hái mơ, trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm ở Hà Nội vào năm 1936, nhưng tới khi bài thơ Lỡ bước sang ngang đăng cũng trên tờ báo ấy ông mới thật sự nổi tiếng. Năm 1937, ông được Tự Lực Văn Đoàn trao giải khuyến khích với tập thơ Tâm hồn tôi.

Giữa thời buổi thơ mới đang thịnh hành với những lời cổ vũ “theo mới, hoàn toàn theo mới” và những bài thơ chịu ảnh hưởng đậm đà về thể thơ, lối diễn tả lẫn cách đặt câu theo văn phạm Pháp của một số nhà thơ mới, tiếng thơ Nguyễn Bính nổi bật với lời thơ mộc mạc, cảm xúc đơn sơ và thấm thía, thể thơ phần nhiều là lục bát, lấy cảm hứng và hình ảnh từ những sinh hoạt ở nông thôn, những câu hò điệu hát ca dao dân dã, đồng thời chuyên chở được cái ý nhị của dân tộc và tâm tình của cả một thế hệ thanh niên nam nữ buổi giao thời. Các yếu tố ấy tạo cho Nguyễn Bính một chỗ đứng độc đáo trong lòng độc giả và trên thi đàn. Chỉ trong ba năm (1940-1942), ông in liên tiếp 7 tập thơ, trong đó nhan đề của tập Lỡ bước sang ngang (1940) đã gắn trọn đời với tên tuổi của ông.

Nhưng theo Nguyễn Bính, tập thơ đầu tay của ông là Bướm, viết về những cảm xúc và những hoạt cảnh săn bắt bướm lúc ông sống lang thang ở Thái Nguyên, Phú Thọ, Yên Bái, Cao Bằng. Tập thơ trong đó ông tự nhận tiền kiếp của mình là một loài bướm ấy không bao giờ xuất bản; những bài thơ của nó được ông đưa xen kẽ vào các thi phẩm khác.

Trong giai đoạn này, hầu như mỗi tập thơ của Nguyễn Bính đều bắt nguồn từ cảm hứng tình yêu của ông dành cho một người nữ. Tập Tâm hồn tôi gồm những bài trộm nhớ thầm yêu cô Oanh sông Nhuệ. Hương cố nhân là tình yêu của ông dành cho Anh Thơ, tác giả tập thơ Bức tranh quê. Với Nguyễn Thị Tuyên, em gái của Nguyễn Đình Lạp thì ông hoàn thành Người con gái ở lầu hoa. Và còn nhiều hình bóng khác như cô Phùng, đặc biệt với một đào nương tên Dung, sanh với ông một đứa con mà ông ghi lại trong bài Oan nghiệt viết ở Huế năm 1941.

Nguyễn Bính theo như nhà văn Tô Hoài kể: “Con người anh trông lôm lam lắm. Tay chân thô nhám quềnh quàng, lúc nào cũng lừ đừ thủng thỉnh, như ‘ông từ vào đền’, như người thong thả đi giữa làng. Lại lam lũ như người lướt mướt từ đồng sâu mặn lên, dẫu cho anh đương mũ áo chững chạc trên đường phố. Khi nào anh cũng là người của các xứ đồng, của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công việc làm ăn vất vả sương nắng.”

Nhưng con người thơ ấy vốn giàu đam mê hơn nghị lực, nhiều mơ mộng hơn thực tế lại sống giữa chốn Hà thành phồn hoa với những cuộc vui hát ả đào thâu đêm và bên bàn đèn thuốc phiện suốt sáng. Tô Hoài kể đi đâu Nguyễn Bính cũng cầm trên tay một hộp sắt tây để lâu lâu lại “ngồi lên, vuốt ve, sắp xếp lại các thứ trong ấy. Đấy là bản thảo những bài thơ của anh và những bức thư tình, một hộp thư tình. Tờ trắng, tờ xanh, vết tay mồ hôi đã về vệt cả. Bao nhiêu thư của một mối tình, của những mối tình của anh, anh xếp chật cái hộp. Có điều chắc chắn đấy là những cái thư cũ, những người ta ở những đâu đâu ấy đã ‘cho rơi’ anh rồi. Chỉ còn lại những lá thư trong hộp. Cơ chừng, mỗi lúc canh tàn rượu tỉnh, lại lôi những của oan trái giời ơi ấy trong cái hộp gối ra.”

Loanh quanh ở Hà thành và là người thơ thèm sống tới tận cùng nhưng không bao giờ nắm bắt được những giá trị trần thế thực dụng, Nguyễn Bính tiêu pha ngày tháng và những khoản nhuận bút thất thường trong những cuộc vui phóng túng, những chuyến giang hồ vặt với các thi hữu, khi Bắc Ninh, khi Hải Phòng. Túi khi rỗng khi vơi mà tay tiêu pha thì vung lên quá trán. Khi làm thơ, ông trân trọng từng câu kỹ lưỡng từng chữ bao nhiêu thì trong cuộc đời, ông sống buông thả bấy nhiêu. Lối sống đó hình như không chỉ của riêng ông mà còn chung cho hầu hết một thế hệ văn thi sĩ tiền chiến ở Hà Nội. Những con người trẻ tuổi tài hoa, bồng bềnh với một tâm thức lãng mạn trong hoàn cảnh bế tắc về sinh kế, mịt mù về chính trị với sự bắt đầu có mặt của người Nhật trên một đất nước đã mất từ lâu vào tay người Pháp.

Lưu lạc phương nam

Phải tìm một lối thoát cho đời mình và cho thơ mình. Sau những ngày lang thang ở mạn ngược và những chuyến giang hồ vặt, Nguyễn Bính tìm đường xuôi nam. Có lẽ chuyến đi Sài gòn đầu tiên của ông diễn ra năm “chàng trai còn trẻ mới hai mươi” mà ông đã ghi lại trong bài thơ “Lá thư về bắc”, gửi người anh họ là nhà văn Bùi Hạnh Cẩn – con trai cụ Bùi Trình Khiêm — được in lại trong tập Lỡ bước sang ngang (1940).

Tới năm 1941, ông lại đi Huế với nhà văn Vũ Trọng Can. Gặp nhà thơ Tế Hanh ở Huế, cả ba trình diễn vở kịch thơ Bóng giai nhân ở Hội trường Acceuil, Dòng Chúa Cứu Thế. Ðã không có mặt hoàng đế Bảo Ðại, hoàng hậu Nam Phương và Khâm sứ Pháp như dự kiến, buổi diễn còn bị thất thu về tài chính, và Nguyễn Bính nằm lại cố đô, thấm thía với mưa dầm xứ Huế. Cơn phấn chấn ngày ra đi nay lụi dần và giọng điệu thơ Nguyễn Bính đã bắt đầu chua cay, khinh bạc.

Sau khi về lại Hà Nội, ông cùng Vũ Trọng Can lại làm một chuyến “hành phương nam” khác, lần này có thêm Tô Hoài. Chuyến thứ ba, có lẽ là chuyến sau cùng. Diễn thuyết, viết báo, rồi lang thang ở Sàigòn một thời gian, ba người bạn chia tay người mỗi ngả. Nguyễn Bính về miền tây.

Khoảng năm 1943, ông ở trọ tại khách sạn nghèo Tân Hưng, Mỹ Tho. Tại đó ông gặp một thanh niên về sau là nhà thơ ca dao cung đình Bảo Ðịnh Giang, người mà thuở đó ông gọi là có “mắt xanh”, đã tiếp đãi ông tận tình. Qua Bảo Ðịnh Giang, ông làm quen và được sự giúp đỡ bởi những người yêu mến thi tài Nguyễn Bính như Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, đặc biệt Bác sĩ Dương Tấn Tươi, từng giúp ông 700 đồng, trong khi tiền ăn cơm tháng thuở đó chỉ tốn 3-4 đồng. Năm 1944, Nguyễn Bính được giải nhất truyện ngắn của tạp chí Thanh Niên Ðông Pháp, với tựa đề “Không đất cắm dùi.”

Từ Mỹ Tho, ông xuống Cần Thơ, ở lại nhà của Ðoàn Trọng Khang. Từ Cần Thơ ông qua Rạch Giá, bụi đời ngủ nóp ở đình thờ Nguyễn Trung Trực. Tại đó, ông quen với nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà, về sau là tác giả tập thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” và là soạn giả cải lương nổi tiếng. Kiên Giang nhờ gia đình giúp đỡ, thuê một cái lều của ông chủ sân banh Rạch Giá, rộng đủ chứa một cái nóp nằm ngủ mà ông mô tả là “Ở nhà hẹp mà hồn trùm vũ trụ!” Có lẽ vào thời gian này, bị mật thám để ý vì những bài thơ dán đầy vách lều, Nguyễn Bính bèn đổi tên thành Nguyễn Bính Thuyết.

Ðầu mùa hạ năm 1944, Nguyễn Bính chia tay với Kiên Giang. Ông vào tiệm Công Yên ở Rạch giá hút suốt một đêm rồi đi Hà Tiên, sống những ngày rất đằm thắm với hai văn thi hữu mà ông xem như anh chị của mình, là Ðông Hồ và Mộng Tuyết. Ðất Hà Tiên giúp Nguyễn Bính làm được nhiều thơ, say sưa bộ truyện Tam Quốc Chí, mộng mơ lãng đãng với thiếu nữ tên Ngọc, cháu của Ðông Hồ, và nhất là khiến ông xa được nàng tiên nâu một thời gian. nhưng rồi những tiếp đãi ân cần đó cũng chẳng giữ chân ông được lâu. May mắn là trong khoảng thời gian này ông kịp sáng tác được truyện thơ Tỳ Bà Truyện, theo thể lục bát, dài 1550 câu, mô phỏng vở tuồng nam hí Tỳ Bà Ký của Cao Minh thời cuối Nguyên đầu Minh của Trung Hoa (thế kỷ 14).

Từ bỏ những ngày tháng mà Mộng Tuyết kể lại là “rất yêu đời, lành mạnh, vui vẻ, sống cuộc đời mẫu mực” ở Hà Tiên, Nguyễn Bính lại về Sàigòn, dù chủ nhân “năn nỉ mãi Bính cũng không ở lại”. Thế là lại lao vào cuộc sống phiêu bạt “bất thường vô định của nhà thơ trác táng đến (có thể) vong khước hình hài” (Mộng Tuyết), Nguyễn Bính khi trọ vùng Chợ Cũ, khi ở Xóm Dừa hay khu Nancy, làm thơ đăng báo và lui tới với các văn nhân thi sĩ thành đô. Thơ ông lại càng thấm đẫm chua cay và chất ngất khinh bạc. Có lúc, ông viết tùy bút dưới bút hiệu Kiều Mộc.

Tham gia kháng chiến

Từ những ngày chưa kết thúc Thế Chiến Hai, Nguyễn Bính đã được móc nối bởi một cán bộ Việt Minh trí thức vận, đồng hương với ông. Tiếng hát Tổng Khởi nghĩa Mùa thu vang lên khắp đất nước rồi tiếp đó là tiếng súng của cuộc kháng chiến trường kỳ, từ chợ Rạch Giá, Nguyễn Bính vào bưng biền tham gia đánh giặc. Thơ ông lúc này chuyển hướng, gần như vè, và được ông sử dụng như một thứ vũ khí động viên nhân dân vùng lên đuổi Pháp.

Tại Rạch Giá, ông lập hội Văn hóa Cứu quốc, và làm Phó chủ tịch Tỉnh bộ Việt Minh. Nhà văn Sơn Nam có nhiều dịp gặp ông, kể lại là các công văn ông phê thường kèm theo một bài thơ dưới ký tên Nguyễn Bính. Sau một nhiệm kỳ Phó chủ tịch, Nguyễn Bính chuyển lên công tác ở Ban văn nghệ Khu 8 tại Ðồng Tháp Mười, làm việc chung với Bảo Ðịnh Giang và nhà văn Ðoàn Giỏi...

Sau vài năm, Nguyễn Bính không sống đời bưng biền nữa nhưng vẫn làm thơ kháng chiến và ở lại vùng giải phóng, dù chính quyền Nguyễn Văn Thinh treo giải thưởng ai đem Nguyễn Bính về thành hoặc tự ý nhà thơ về thành sẽ được thưởng 1.000 đồng bạc Ðông Dương, một số tiền rất lớn vào thời đó. Trong giai đoạn này, ông có một người vợ miền nam, mỹ danh là Hồng Châu, ở bên bờ con kinh xáng Chắc Băng-Thái Bình, cách thị xã Vĩnh Long khoảng ba bốn cây số, trên đường đi Cần Thơ. Bà sanh một con gái tên là Nguyễn Bính Hồng Cầu. Ông còn có một đứa con gái khác tên là Hương Mai. Sau năm 1975, Hồng Cầu có thời làm Tổng biên tập Nhà Xuất Bản Vĩnh Long, nay hình như đã nghỉ hưu.

Lại về đất bắc

Năm 1954, theo qui định của Hiệp định Genève tạm thời chia đôi đất nước trong chỉ hai năm, trong đoàn quân tập kết ra Bắc có Nguyễn Bính. Ông để lại người vợ và hai con ở trong nam.

Nhà thơ tái ngộ đất bắc sau mười ba năm xa cách, với bối rối ngỡ ngàng. Người thân mừng rỡ gặp lại nhà thơ vì từng nghe đồn ông đã chết mấy năm trước. Ðời sống xã hội thay đổi không như mình mộng tưởng, ông ghi lại các cảm xúc đó trong bài thơ “Tỉnh giấc chiêm bao”, mà cho đến nay vẫn chưa được phép xuất hiện trong các tuyển tập thơ Nguyễn Bính.

Năm 1956, ông chủ trương báo Trăm Hoa. Báo ra được mấy số thì đình bản vì không có đủ tiền tự túc mua giấy để in báo, trong khi các báo văn nghệ chính thức của nhà nước thì được mua giấy bao cấp. Và theo quan điểm của chính quyền thời đó thì Nguyễn Bính “đã cho đăng trên tờ báo này một số bài viết (trong đó có vài bài của anh) còn mang tính mơ hồ trong lập trường tư tưởng.”

Từ sau Trăm Hoa và thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm cho tới năm 1964, tác phẩm của Nguyễn Bính hầu hết được viết ra theo đúng đường lối chính trị và định hướng văn học dành cho văn nghệ sĩ sống dưới chế độ. Tuy thế, bên cạnh những bài thơ, những truyện thơ và mấy vở chèo phải đạo ấy, ông còn có một chuỗi thơ đặc sắc, bày tỏ lòng tha thiết thương nhớ người vợ trong nam và mấy bài thơ nói về những oan khuất, tàn tệ trong cuộc cải cách ruộng đất.

Lụy tình vẫn đeo đuổi người thơ không dứt. Nguyễn Bính ăn ở với nữ thư ký tờ Trăm Hoa, có một đứa con trai đặt tên là Hiền. Mẹ nó đi lấy chồng giao con lại; đi đâu cha con cũng quấn quít nhau. Bỗng dưng trong một cơn say, ông lỡ đem con cho một người qua đường, tại ngã sáu Bà Triệu, Hà Nội. Về nhà, quá nửa đêm, tỉnh rượu, mới nhớ ra chuyện, ông hốt hoảng đi tìm khắp nơi nhưng không bao giờ gặp lại người chẳng quen biết ấy.

Tới năm 1958, Nguyễn Bính túng thế phải quay về cư trú ở Nam Ðịnh, làm việc tại Ty Văn hóa Thông tin Nam Ðịnh, dưới sự kềm cặp của “nhà văn” Chu Tấn và quan chức địa phương. Nhà văn Ngọc Giao kể là “...Nguyễn Bính cảm thấy mệt mỏi, yếu đau... Anh sống với gia đình, coi như an phận. Chị Bính là người hiền hậu, nết na. Chị hằng ngày ra chợ Rồng, thu nhặt từng xu từng hào với mẹt bày quả chanh quả ớt. Chị tháo mồ hôi, phai tàn tuổi trẻ, làm sao cho hằng ngày có đủ rượu, đồ nhắm, bồi dưỡng cho ông chồng thơ.”

Ðể lại mùa xuân

Vào những ngày cuối năm Ất Tỵ, cảnh nhà Nguyễn Bính trống trơn trong khi xuân về rộn rịp đất trời; nhà thơ lửng thửng rời đất Vị Hoàng, đi tới một thôn xóm ven đô. Theo lời nhà văn Chu Tấn kể thì: “Nguyễn Bính có một chương trình khác. Cái máu giang hồ vặt lại nổi lên. Anh muốn tạo ra một mùa xuân tha hương nữa. Tha hương đây không phải là nơi cách trở ngàn dặm, mà là một làng ở ngay huyện Lý Nhân, ở đây có một anh bạn yêu thơ, nhà làm thuốc đông y. Hai vợ chồng ngõ ý mời từ lâu. Nguyễn Bính chọn ngày giáp Tết. Anh xắn cao quần, xông pha đường bùn đất, lặn lội tới chơi. Chủ nhà cảm động đến rơi nước mắt. Cái tết “tha hương” này hẳn là ấm cúng. Ngờ đâu...”

Nguyễn Bính cùng chủ khách lãng đãng nhắm rượi dưới gốc mai, đào. Cứ thế, sáng hôm sau (20/1/1966), đúng sáng ba mươi Tết Bính Ngọ — ông thức dậy ra cầu ao rửa mình. Một cơn gió bấc thổi đến. “Nguyễn Bính, thấy trời đất xoay tròn, anh chỉ kịp kêu một tiếng rồi cả thân mình đổ xấp xuống, mặt úp vào bùn nước, máu mủi rỉ ra. Anh vừa mổ dạ dày tháng trước. Có lẽ anh chết vì bục dạ dày” (Ngọc Giao). Năm ấy Nguyễn Bính 48 tuổi.

Ngôi mộ và nhà tưởng niệm

Thời điểm Nguyễn Bính từ giã cuộc đời, theo nhà văn Trần Lê Văn trong một bài tưởng niệm bạn hiền, thì ứng với bốn câu thơ ông để lại cho đời trong bài Nhạc Xuân, được viết vào 27 năm trước, trong tập Hương Cố Nhân:

Năm mới tháng giêng mồng một tết,
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân.

và:

Giờ đây chín vạn bông trời nở,
Riêng có tình ta khép lại thôi.

Ngay sau khi Nguyễn Bính qua đời, người ta an táng ông ở nghĩa trang Nam Ðịnh như những người dân bình thường. Ba năm sau, ông được cải táng vào nghĩa địa Tam Ðiệp, cũng như những người dân bình thường khác.

Nhưng rồi thời thế thay đổi. Năm 1986, mở đầu “vận hội đổi mới”. Thơ Nguyễn Bính nhờ thế được tái bản khá đầy đủ, xào đi nấu lại trong nhiều tuyển tập, bán sạch gần cả trăm ngàn cuốn và các nhà phê bình đua nhau ca ngợi ông không tiếc lời. Chợt nhớ ra Nguyễn Bính là một nhà thơ lớn của dân tộc, người ta đưa hài cốt ông về chôn ở cồn đất rìa làng Thiện Vịnh, nằm cạnh ngôi mộ của ông nội ông, vì ngôi nhà cũ của cha mẹ ông bao lâu nay đã thuộc về người khác.

Cuối cùng, chính quyền phải đổi cho người chủ mới ấy một mảnh đất khác để ở, và thêm lần nữa, vào năm 1990, hài cốt Nguyễn Bính được dời, nay an nghỉ ở chính nơi ông cất tiếng khóc chào đời.

Theo nhà báo Vũ Hậu Luật kể thì: “Kể từ khi trút hơi thở cuối cùng đến nay (1990) đã đằng đẵng hai mươi nhăm năm trời, trải qua bốn chặng giang hồ, thi sĩ mới có một nơi yên nghỉ vĩnh hằng. Mộ xây giữa khu đất rộng bốn sào, nằm chính giữa làng Thiện Vịnh. Xung quanh rợp bóng tre, xoan, ruối và lô nhô vài ba đống rơm. Ngôi mộ đơn sơ hình chữ nhật, có đắp nổi hình ngọn bút với dòng chữ: ‘PHẦN MỘ NHÀ THƠ NGUYỄN BÍNH 1918-1966’. Hoa mười giờ nở đỏ dưới chân mộ chí. Người ta dự định xây dựng tại khu đất này, bên cạnh mộ, nhà lưu niệm trưng bày các di vật và tác phẩm của Nguyễn Bính.”

2. Tác phẩm của Nguyễn Bính

Không kể hàng chục tập thơ tuyển, lớn có nhỏ có, in gần đây từ nam chí bắc, do bởi nhu cầu thưởng ngoạn hoặc thương mại, về mặt chính thức, các tác phẩm của Nguyễn Bính gồm có:

Trước Tháng Tám 1945:
- Lỡ bước sang ngang (1940)
- Tâm hồn tôi (1940)
- Hương cố nhân (1941)
- Một nghìn cửa sổ (1941)
- Người con gái ở lầu hoa (1942)
- Mười hai bến nước (1942)
- Mây Tần (1942)
- Bóng giai nhân (kịch thơ – 1942)
- Tì bà Truyện (truyện thơ – 1944)

Sau Tháng Tám 1945:
- Ông lão mài gươm (1947)
- Ðồng Tháp Mười (1955)
- Trả ta về (1955)
- Gửi người vợ miền Nam (1955)
- Trông bóng cờ bay (truyện thơ – 1957)
- Nước giếng khơi (tập thơ chọn – 1957)
- Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ – 1958)
- Tình nghĩa đôi ta (1960)
- Ðêm sao sáng (1962)
- Cô Son (chèo – 1961)
- Người lái đò sông Vỵ (chèo – 1964)


3. Bài thơ vẫn bị cấm: “Tỉnh giấc chiêm bao”

Chín năm đốt đuốc soi rừng,
Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân.
Cửa xưa mành trúc còn ngăn,
Góc tường vẫn đọng trăng xuân thuở nào.
Làng xa bản nhỏ đèo cao,
Gió bay tà áo chiêm bao nửa chừng.
Anh về luyến núi, thương rừng,
Nhớ em đêm sáng một vùng Thủ đô.

Bồi hồi chuyện cũ năm xưa,
Gặp nhau lần cuối... trang thư lệ nhòa.
Thư rằng: “Thôi nhé đôi ta,
Tình sao không phụ mà ra phụ tình.
Duyên nhau đã dựng Trường đình,
Mẹ em đã xé tan tành gối thêu...”
Trăng khuya súng núi gươm đèo
Anh đi, thư vẫn nằm đeo bên mình.
Lửa sàn nét chữ chênh chênh,
Nếp thư đến rách chưa lành vết thương.
Ðằm đằm hoa sữa lên hương,
Chân anh đương bước giữa đường cái đây.
Nẻo hồ, song cửa, lá bay,
Sáng chưng bóng dáng bao ngày yêu xưa.
Trăm năm đã lỡ hẹn hò,
Cây đa bến cũ con đò còn không?
Tình cờ gặp giữa phố đông,
Em đi ríu rít tay chồng tay con.
Nét cười âu yếm môi son,
Áo bay nhắc buổi trăng tròn sánh vai...
Chín năm bão tối mưa ngày,
Nước non để có hôm nay sáng trời.
Em đi hạnh phúc hồng tươi,
Anh nhìn tận mắt cuộc đời đẹp sao!
Sắc hương muôn nẻo tuôn trào,
Tiếc mà chi giấc chiêm bao một mình.
Anh về viết lại thơ anh,
Ðể cho bến mát cây xanh đôi bờ.
Cho sông cho núi tự giờ,
Chẳng còn lỡ chuyện con đò sang ngang.
Lứa đôi những bức thư vàng,
Chẳng còn chữ chữ hàng hàng lệ rơi.
Chim hồng chim nhạn em ơi,
Trên nền gối cưới đời đời yêu nhau.

(Báo Trăm Hoa, Hà Nội, số 9.12. 1956)

Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi"
(Nguyễn Bính)

Ngày xưa, khi còn đi học và ở trong ký túc xá thuộc một trường đại học lớn ở Saigon, tôi có dịp đọc Ngày Xưa Còn Bé của Duyên Anh, và qua đó đã cảm được những bài thơ trữ tình của Xuân Diệu và Nguyễn Bính. Thật ra, tôi bị mê hoặc thì đúng hơn. Nhưng giữa hai tác giả, thì tôi cảm thấy gần gũi với Nguyễn Bính hơn, có lẽ vì tôi là dân quê mùa, tỉnh lỵ. Những câu thơ tình "Tờ lá thắm đã lạc dòng u uất , ánh mai soi cũng pha nhạt màu ôi; Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất , Anh cho em, nên anh đã mất rồi" thật là hay, nhưng sao tôi vẫn thích những câu thơ đơn giản, mộc mạc gần như ca dao của Nguyễn Bính: "... Hai người sống giữa cô đơn; Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi; Giá đừng có dậu mồng tơi; Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng ...".
Tôi nghĩ, hầu như trong chúng ta, những người lớn lên ở Việt Nam, chắc ai cũng không ít thì nhiều nghe qua hay biết về nhà thơ tài hoa nhưng vắn số nàỵ Điều đó cũng dễ hiểu, vì thơ của Nguyễn Bính hình như đã đạt được trình độ dễ nhớ và đại chúng.

Đi ngược dòng thời gian một chút, vào đầu thế kỷ 20, khi mà phong trào thơ cũ (theo truyền thống) không còn phát triển nữa, thơ mới được trỗi dậy như trăm hoa đua nở. Trong khi người ta nô nức đua nhau theo phong trào thơ mới, làm thơ mới, thì Nguyễn Bính và Tú Mỡ vẫn tiếp tục đi theo con đường thơ cũ . Giữa những khuôn mặt sáng giá của vườn thơ mới như Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, v.v. tên tuổi của Nguyễn Bính vẫn không hề bị lu mờ, mà ngược lại ông còn tạo được bản sắc rất riêng của mình. Nguyễn Bính viết:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thày u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều

Có người cho rằng qua bài thơ này Nguyễn Bính muốn làm một bản tuyên ngôn về đường lối sáng tác của mình. Đường lối thơ theo nhà quê. Không cần ra tỉnh, cứ hương đồng gió nội là hay rồi.

Nguyễn Bính là thi sĩ của tình yêụ Nhưng tình yêu của Nguyễn Bính không phải chung chung như :

Yêu là chết trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu ...
(Xuân Diệu)

hay táo bạo và Tây phương hóa như:

Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài ...

Nhưng tình yêu của Nguyễn Bính rất nhẹ nhàng, tế nhị và Việt Nam:

Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng
Có con bướm trắng thường sang bên này ...

Và cũng không phải vội vàng, chạy theo kim đồng hồ như Xuân Diệu "Mau với chứ, vội vàng lên với chứ ... Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi", mà chỉ chầm chậm:
Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Chờ em ăn dập miếng giầu em sang
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng chung một ngõ vội vàng chi anh
Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết chúng mình với nhau

Có lẽ trong chúng ta, ai cũng một lần nghe qua một vài câu thơ trang nhã, tình tứ và sâu xa trong bài Người Hàng Xóm:

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mồng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng ...

và để rồi tiếc cho một mối tình nhẹ nhàng nhưng đầy thi vị của thi sĩ . Nhà thơ yêu một người con gái (có thể là tưởng tượng), nhưng chỉ yêu thầm, không dám nói ra, mà chỉ âm thầm tự nhủ "tôi buồn tự hỏi hay tôi yêu nàng?", để rồi ngày tháng qua đi và nàng chết. Thi sĩ đã than khóc và mới nhận ra được là mình đã yêu:
Đêm qua nàng đã chết rồi
Nghẹn ngào tôi khóc ... Quả tôi yêu nàng
.

Thời còn đi học, tôi thật sự đã cảm những câu thơ trên đây của Nguyễn Bính. Lúc đó, tôi còn muốn tìm hình ảnh của mình đâu đó trong bài thơ để hỏi mình có thương thầm ai không? Nhưng nào có được, khi mà sách vở và thi cử cứ đè nặng lên cuộc đời sinh viên đầy gian truân ...

Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh, khi phê bình về Nguyễn Bính, có viết: "Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước tôi chắc người đã làm những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người, bây giờ đã có vô số những nhà thông thái nghiên cứu". Thật vậy! Nhiều bài thơ của Nguyễn Bính mang vần điệu ca dao và rất dễ nhớ. Nguyễn Bính không dùng chữ trừu tượng hay cầu kỳ để viết nên những vần thơ để đờị Ông cũng không không dùng những triết lý cao siêu để nói lên những điều hiển nhiên trong cuộc sống. Những câu lục bát của bài Tương Tư thật là dễ hình dung:
Thôn Đoài ngôì nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa làbệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.


Tôi thấy cái so sánh "gió mưa là bệnh của trời" với "tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" rất ư là sáng tạo và cân xứng. Trong câu "gió mưa là bệnh của trời" có âm vang của gió bão, trong khi câu kế "tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" thì lại tả cái âm vang của một tấm lòng. Hai câu thơ không chỉ nói về cái vũ trụ mà còn nói về cái tình trong vũ trụ. Gió mưa của trời, của vũ trụ, luôn gây ra cái cảm giác buồn buồn. Và tương tư là một tính của con người, nhất là đôi trai gái yêu nhau; là một cái vốn tự nhiên. Tương tư là bệnh của tình nhân, như mưa gió là bệnh của trời đất.

Cũng có ý cho là "gió mưa" được lấy từ điển "Phong Vũ", tên một bài thơ trong Trịnh Phong, Kinh Thi, thể hiện tình cảm của người con gái đợi người tình. Tôi thấy ý này không chính xác mấy, vì Nguyễn Bính không học chữ một cách hệ thống từ nhà trường mà chỉ tự học từ một ông chú. Nguyễn Bính cũng không dùng điển tích trong thơ văn của ông ta .

Tôi còn cảm thơ Nguyễn Bính vì cái đặc tính mộc mạc, rất quê muà Bắc bộ.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh đã nhuộm thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi..

Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Mặc dù lúc đó tôi chưa hề ra miền Bắc bao giờ, nhưng đọc những câu thơ này, tôi cũng có thể hình dung ra cái trữ tình của trai gái thuộc vùng đồng bằng Bắc Việt Nam. Chỉ có trong thơ Nguyễn Bính, tôi mới thấy rõ tình yêu của người Việt Nam trong khung trời Việt Nam, vì chỉ Việt Nam mới có "thôn đoài, thôn đông" hay "hàng cau liên phòng".

Phần lớn các nhà phê bình đều nhận xét là tình yêu của Nguyễn Bính không lãng mạn, nồng cháy như Xuân Diệu, không chứa chan như Huy Cận, nhưng nhẹ nhàng và mộng tưởng. Riêng tôi thì thấy Nguyễn Bính cũng yêu say đắm lắm chứ. Thi sĩ yêu đến nỗi phải ghen. Người không muốn người yêu mình hôn hoa, xức nước hoa, đi tắm biển và thậm chí không muốn thấy người yêu "ôm gối chiếc đêm ngủ ." Ghen như vậy thì quả là hết ý!

Cô nhân tình bé của tôi ơi
Tôi muốn cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi và mắt chỉ
nhìn tôi những lúc tôi xa xôi

Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai
Đừng hôn, dù thấy đóa hoa tươi
Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ
Đừng tắm chiều nay, bể lắm người

Tôi muốn mùi thơm của nước hoa
mà cô thường xức chẳng bay xa
Chẳng làm ngây ngất người qua lại
dẫu chỉ qua đường khách lại qua

Tôi muốn những đêm đông giá lạnh
Chiêm bao đừng lẩn khuất bên cô
Bằng không tôi muốn cô đừng gặp
Một trẻ trai nào trong giấc mơ

Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ
Đừng làm ẩm áo khách chưa quen
Chân cô in vết trên đường bụi
Chẳng bước chân nào được dẫm lên

Có người cho rằng bài thơ Ghen trên đây là bài thơ khéo nhất của Nguyễn Bính; từ cách gieo vần đến lời thơ và chất thơ .

Bên cạnh những bài thơ tình mà Nguyễn Bính đã tả một cách rất ngọt, rất chân chất ấy, nhà thơ còn rất thành công trong các bài thơ về người mẹ, người chị, giản dị dến không ngờ, nhưng gây xao xuyến và xúc động đến không ngờ cho độc giả. Chắc mọi ngươì còn nhớ bài Lòng Mẹ của Nguyễn Bính . Không một lời bóng bẩy, hào nhoáng, chỉ mộc mạc như tấm lòng của bao bà mẹ Việt Nam, nhưng sao đi vào lòng người đến thế:

Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc, nín đi không
Nín đi mặc áo ra chào họ
Rõ quý con tôi! Các chị trông

Ương ương dở dở quá đi thôi!
Cô có còn thương đến chúng tôi
Thì đứng lên nào! Lau nước mắt
Mình cô làm bận mấy mươi người

Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía
Này gương này lược này hoa tai
Muốn gì tôi sắm cho cô dủ
Nào dã thua ai đã kém ai

Ruộng tôi cày cấy, dâu tôi hái
Nuôi dạy em cô tôi đảm dương
Nhà cửa tôi coi, nợ tôi giả
Tôi còn mạnh chán, khiến cô thương

Để rồi khi tiễn con ra ngõ về nhà ai, mẹ một mình quay vào lủi thủi một mình, một bóng. "Con gái là con người ta mà". Đdọc đến đây ai mà không cảm động? Những vần thơ chân chất đến độ khó mà phân biệt được đâu là đời và đâu là thơ nữa

Một bài thơ nữa của Nguyễn Bính, viết về cảm xúc của người chị cho người em khi đi về nhà "người ta" trong bài "Lỡ Bước Sang Ngang":
Em ơi em ở lại nhà
Vườn dâu em hái, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa


Hẳn lòng người "chị" trong bài thơ này phải có nhiều uẩn khúc lắm, thế nên, lẽ ra phải vui trong ngày hạnh phúc của đời mình, nhưng giọng thơ lại chứa chất tang tóc, đau thương
Mắt quầng tóc rối tơ vương
Em còn cho chị lược gương làm gì
Một lần sẩy bước ra đi
Là không hẹn lại ngày về nữa đâu
...
Em về thương lấy mẹ già
Đừng trông ngóng chị nữa mà uổng công
Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã sang sông đắm đò


Có người cho rằng Lỡ Bước Sang Ngang là một bản tuyên ngôn về quyền phụ nữ của Nguyễn Bính. Có thể là cách đây 50 năm, phụ nữ Việt Nam chưa có quyền tự do lựa chọn, không được bình đẳng trong hôn nhân, vì vậy mà đại đa số chị em có ý nghĩ rằng đám cưới của mình như là một sự "lỡ bước sang ngang".

Không ai phủ nhận được là Nguyễn Bính là tác giả của những lời thơ bình dân. Ông không ca ngợi những vẻ đẹp xa vời hay những bóng dáng mỹ lệ, nhưng chỉ ghi lại và nói những chuyện hàng ngày, rất gần gũi với đại chúng. Một trong những hình ảnh đó là "Những Bóng Người Trên Sân Ga". Trong bài này, tôi thấy những cuộc chia lìa cứ tiếp tục, gần như không ngừng:

Những cuộc chia lìa khởi từ đây
Cây đàn sum hợp đứt từng dây
Những lời bèo bọt, thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tháng ngày

Có lần tôi thấy hai cô bé
Sát má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
-- Đường về nhà chị chắc xa xôi
và còn gì cảm động hơn hơn khi thấy hai người yêu đang bịn rịn chia tay:

Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều
Ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầm tay họ, bóng xiêu xiêu
và những cảnh mà tôi nghĩ là ta thấy hàng ngày trên các sân ga:

Hai chàng tôi thấy tiễn đưa nhau
Kẻ ở sân ga, kẻ cuối tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu

Có lần tôi thấy vợ chồng ai,
Thèn thẹn chia tay bóng chạy dàị
Chị mở khăn trầu anh thắt lại,
Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!

Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi tận chốn xa
Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga

rồi những người cô đơn, không có bạn bè, người thân:

Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly

Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những dôi mắt ướt nhìn đôi mắt,
Buồn ở đâu hơn ở chốn này ?

Tôi đã từng chờ những chuyến xe
Đã từng đưa đón kẻ đi về
Sao nhà ga ấy sân ga ấy
Chỉ để cho lòng dấu biệt ly ?
Biệt ly nào mà không buồn? Cuộc vui nào mà chẳng có lúc chia taỷ Ngày vui lúc nào cũng qua mau và chỉ để lại cho người nhiều ngày buồn sau đó. Có lẽ trong đời người, thời gian buồn nhiều hơn thời gian vui, nên trong bài thơ này, tôi chỉ thấy toàn những hình ảnh của chia tay cứ dồn dập.

Có ai đó đã nói "Cuộc đời là một bài thơ lớn." Tôi thấy điều này rất đúng với Nguyễn Bính. Ông sinh ra ở miền Bắc VN, nhưng sau này (trước 1954), ông lưu lạc vào Nam. Khoảng 1952, ông từng làm phó chủ tịch tỉnh bộ Kiên Giang, phụ trách về văn hóa tuyên truyền. Trong thời gian ở ngoài Bắc, ông viết thơ tình nổi tiếng; trong thời gian đi kháng chiến trong Nam, ông viết nhiều bài thơ về kháng chiến, yêu nước, nhưng không mấy thành công và ít ai biết đến. Một trong những bài ông viết trong lúc còn "nằm gai nêm mật" trong rừng U Minh là Người Của Ngày Maị Trong bài, ông đã tả được một cuộc sống gian lao của những người yêu nước, kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ :

Ở chòi hẹp nhưng hồn bao trùm vũ trụ
Trái tim đau nhưng thương cả loài người
Ddã nhiều hôm không thấy bóng mặt trời
Bởi làm việc liên miên và bí mật
... Những người yêu nước này là ai? Họ là những đứa con VN đến từ ba miền của đất nước, mỗi người mang theo một sắc thái riêng biệt:

Quê các anh ở miền Trung đá núi
Bãi cát vàng bờ biển uốn quanh co
Ddêm trong xanh, cao vút tiếng ai hò
Trên bến vắng một dòng sông nổi bạc

Quê các anh ở miền Nam bát ngát
Trái dừa xiêm nước ngọt buổi trưa nồng
Ddôi ba cô gái bán hàng bông
Chèo yểu điệu một xuồng đầy vú sữa
Theo dòng kênh đi sâu vào biển lúa

Quê các anh ở miền Bắc xa xôi
Bước chân đi , không biết mấy năm rồi
Xa cha mẹ anh em, xa tất cả
Nương dâu xanh, chiếc cầu ao , mái ra
... Họ là ai ?
- Là người của ngày mai .

Sau 1954, Nguyễn Bính tập kết về lại Bắc, ông bị vài người trong chính quyền Hà Nội lúc đó cho là phản động và đã chết trong tủi nhục lúc chỉ 47 tuổi, cái độ tuổi đầy sáng tạọ

Tôi cố tìm một vài phê bình về cái "dở" của thơ Nguyễn Bính mà chẳng thấy bao nhiêu . Phần lớn thơ của Nguyễn Bính được viết theo thể thơ của dân gian. Chả thế mà nhiều nhà phê bình đều đồng ý là Nguyễn Bính là nhà thơ của đồng quê . Tuy nhiên Hoài Thanh, khi phê bình về Nguyễn Bính trong Thi Nhân Việt Nam, cũng có trách: "Giữa những bài giống như ca dao, người ta bỗng chen vào một đôi lời quá mớị Ta thấy khó chịu như khi vào một ngôi chùa có những ngọn đèn điện trên bàn thờ Phật". Chẳng hạn như những câu:

Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời, đôi mắt trong ...
đã làm Nguyễn Bính hết cái "quê mùa" rồị Còn lại, tôi không thấy ai chê thơ của ông cả .

Viết về Nguyễn Bính thì chắc cả một cuốn sách cũng không đủ . Càng lục lại trong tiềm thức càng thấy nhớ nhiều, "Chân quê", "Trường huyện", "Cô hái mơ", "Lẳng lơ" ... toàn những bài đã dược chuyền tay chép đi chép lại trong thời học sinh. Nhưng sao thấy ngôn từ bỗng trở nên khô cứng và trống rỗng dến thảm hại mỗi khi nói về thơ ông. Phải chăng cái "hồn" trong thơ ông đã nói hộ hết rồi ...

Tôi nhớ hoài một lời nói của Nguyễn Bính đâu đó là "Làm văn nghệ khó lắm" vì "Có nhiều ý, nhiều chữ quá tuyệt mà người khác đã cướp mất, trước mình. Mình chỉ nhái lại thôi". Và, tôi cũng chỉ đang nhái lại vài chữ của tiền nhân để bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với một nhà thơ mà tôi cho là của tha hương và tình yêu trắc trở .

Nguyễn Văn Tuấn
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top