Bộ Tư bản của Karl Marx
[*] mở đầu bằng câu: “Trong những xã hội do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chi phối thì của cải biểu hiện ra là một “đống hàng hoá khổng lồ”, còn từng hàng hoá một thì biểu hiện ra là hình thái nguyên tố của của cải ấy. Vì vậy, công cuộc của chúng ta bắt đầu bằng việc phân tích hàng hoá” (TBI/1 tr. 51). Một câu khởi đầu đơn giản, tưởng không có gì quan trọng, nhưng ai đã đọc Marx nhiều lần đều nhận thấy tiềm ẩn ở đây một bản nội dung rút gọn của lý luận mácxít về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cùng với số phận lịch sử của nó.
Nhân cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu lần này, khi đọc lại Marx, tôi muốn dừng lại câu dẫn trên đây để tìm hiểu rõ hơn thực chất của cái vật thể được ông gọi là “hình thái nguyên tố của của cải” tạo dựng nên xã hội tư bản, qua đó tập trung làm sáng tỏ vấn nạn cần được nêu ra ngay từ đầu để mọi thảo luận về học thuyết Marx có thể đi xa hơn: trong một thế giới tràn ngập hàng hoá, với mọi người, hàng hóa chỉ là những vật thể hữu dụng “tự nhiên” trong đời sống hàng ngày, nhưng qua phân tích và sự diễn tả của Marx, tại sao cái vật thể tầm thường ấy lại hiện ra với rất nhiều điều “khó hiểu”, “kỳ quái”, đến độ có thể gọi là “bí ẩn”, “siêu hình”?
Câu hỏi này không thể không dẫn đến một câu hỏi khác: trong lý giải của Marx, đâu là nguồn gốc sâu xa gây ra sự “khó hiểu” của vật thể được gọi là “hình thái nguyên tố” làm nên sự giàu có về mặt vật chất cho xã hội tư bản? Khai triển ý nghĩa của vấn nạn ấy người ta phải hiểu như thế nào về cái gọi là tính đặc trưng mácxít của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với tư cách là một hình thái lịch sử đặc thù? Và qua vấn nạn mácxít về sự bí ẩn của hàng hoá trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đó, chúng ta có thể hiểu thêm được gì về những “bí ẩn” nằm ngay trong chính bản thân sự suy tưởng của Marx về lịch sử, về bản chất xã hội của con người, những điều mà Marx đã gợi ra cách đây hơn cả một thể kỷ rưỡi, nay vẫn còn gây ra tranh cãi?
Giá trị, đại lượng giá trị, thời gian lao động xã hội cần thiết, sức sản xuất
Để bắt đầu tìm hiểu những vấn đề phức tạp nói trên, chúng ta hãy cùng với Marx hình dung trước mặt mình có hai món hàng do hai người làm ra và dự định đem trao đổi với nhau. Trước khi trao đổi chúng ta được cho biết rằng theo quan điểm kinh tế cổ điển của Adam Smith, hàng hoá là do lao động khổ nhọc tạo ra, và ở Marx thì điều này hàm nghĩa đó là một hình thái lao động sản xuất trực tiếp, thứ lao động tạo ra những sản phẩm vật chất có thể cảm nhận bằng giác quan, đối tượng nghiên cứu của kinh tế học. Trừ những trường hợp riêng biệt, nguyên tắc của trao đổi là ngang giá, hai bên đều có lợi, mình cần cái mình không có mà không bị thiệt thòi. Muốn như vậy thì phải tìm ra một chuẩn mực chung giữa hai hàng hoá để làm cơ sở cho cuộc trao đổi đó.
Chuẩn mực chung đó là gì? Trong trao đổi đơn giản, Marx cho rằng nếu đó là sự chi phí sức lao động tính bằng độ lâu (durée) về thời gian của các loại lao động riêng biệt thì trong xã hội mà sự trao đổi hàng hoá đã trở thành hiện tượng “chi phối”, phổ biến, sự chi phí về sức lao động đó đã biểu hiện như một hình thái đồng nhất, trừu tượng mang ý nghĩa của một bản thể xã hội gọi là giá trị. Không có cái bản thể chung quy định cho hình thái giá trị này làm cơ sở thì việc trao đổi hàng hoá sẽ trở nên tuỳ tiện, không thể bảo đảm được nguyên tắc ngang giá, có lợi cho các đối tác trên phạm vi toàn xã hội.
Trong một xã hội của sản xuất và trao đổi hàng hoá, giá trị có thể xem như là một thứ linh hồn, vô hình, không ai thấy được, nhưng lại có khả năng điều khiển mọi chuyển động của cái hình thái xã hội ấy. Từ cách nhìn sự vật ở những dáng vẻ bên ngoài của nó, người ta cho rằng khái niệm giá trị là viễn vông, không giúp gì cho việc tính toán sản xuất (vì trong thực tế chỉ có giá cả), nhưng với Marx điều đó không đúng: không ai có thể thấy linh hồn của người bên cạnh mình, nhưng người ta vẫn có thể thông qua những biểu hiện hành vi, ứng xử để lần dò. Marx cho đó chính mới là công việc của những người làm khoa học: từ những biểu hiện của sự vật, người ta có thể tìm ra yếu tính của nó (đi từ giá cả để hiểu giá trị).
Vấn đề đặt ra ở đây là hãy xét xem thực thể của giá trị là gì? Với Marx khái niệm đó không phải là cái ý nghĩa tâm lý mưu cầu lợi ích của từng cá nhân (trong sản xuất lẫn tiêu thụ) mà, từ sự cấu tạo của nó, nó là một bản thể xã hội, là một hình thái lao động trừu tượng đã chưng cất lên từ tất cả các loại lao động dị biệt, dù khéo léo hay đơn giản, được tổng hợp, trung bình hoá thành một hình thái đồng nhất, hình thành “trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với một trình độ thành thạo trung bình, một cường độ lao động trung bình” (TBI/1, tr. 56), kết tinh lại trong hàng hoá dưới hình thái “lượng thời gian lao động” và được gọi là “thời gian lao động xã hội cần thiết”.
Một tính chất khác cũng đã được Marx nhấn mạnh để làm rõ hơn nội dung của cái có thể gọi là “sức lao động xã hội” này: nó hoàn toàn tuỳ thuộc vào sức sản xuất của mỗi xã hội cụ thể, diễn ra trong các điều kiện về phát triển nhất định nào đó của sự phát triển về sản xuất xã hội (ta có thể hiểu đó là trình độ khoa học, kỹ thuật, quản lý, sáng tạo, phát minh, tổ chức điều hành…) mà mang chất lượng khác nhau. Qua sự trình bày của Marx thì sức sản xuất của lao động của một xã hội càng lớn thì thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một vật phẩm nào đó sẽ càng nhỏ, sức lao động bỏ ra càng ít, trái lại nếu sức sản xuất của xã hội đó càng yếu, thì khối lượng lao động kết tinh trong vật phẩm càng lớn, giá trị của nó càng lớn, sức lao động bỏ ra càng nhiều.
Giá trị là một khái niệm nền móng trong học thuyết Marx về sự vận động của lao động trong xã hội tư bản, không khởi đầu từ thực thể này, thì không thể lĩnh hội được bản chất của chế độ tư bản thông qua những phạm trù kinh tế học thường nghiệm của nó.
Giá trị và giá trị sử dụng trong hàng hoá
Ai có chú ý đến vấn đề giá trị lao động trong lý luận của Adam Smith đều biết tuy có nhắc đến khái niệm giá trị sử dụng, nhưng khái niệm này đã bị bỏ qua để chỉ nhấn mạnh khái niệm giá trị trao đổi trong quan hệ hàng hoá. Marx cũng tập trung tìm hiểu khái niệm đó (và cho đó là hình thái biểu hiện của giá trị) nhưng lại cho rằng người ta không thể hiểu được thực chất của giá trị nếu tách rời khỏi khái niệm đi chung với nó là giá trị sử dụng, cả hai cùng tồn tại và cần được phân tích để bổ sung cho nhau: trong khi hình thái giá trị trong hàng hoá được xem là trừu tượng, phi tự nhiên thì giá trị sử dụng lại chính là hình thái tự nhiên, cụ thể của nó, là mục đích cuối cùng trong chu kỳ lưu chuyển của hàng hoá.
Trong phân tích của Marx, hai hình thái gíá trị nói trên cùng tồn tại trong hàng hoá nhưng trong quá trình trao đổi, hình thái giá trị sử dụng đã bị tạm thời gạt hẳn sang một bên để giá trị trồi lên làm tròn chức năng trao đổi ngang giá của nó với những món hàng khác, và trong khi tập trung làm tròn chức năng này, theo cách nói của Marx, hàng hoá đã không còn giữ được “một nguyên tử nào về giá trị sử dụng” cả (TBI/1, tr.55). Giá trị bây giờ đã trở thành một thực thể hoàn toàn trừu tượng trong vận động, một hình thái phi vật thể, không bị ràng buộc gì với cái gánh nặng vật chất của giá trị sử dụng đã kéo trì nó xuống mặt đất. Nó tự tạo ra một con đường đi độc lập cho nó.
Nhưng cũng chính từ sự thoát ly của giá trị trong trao đổi mà Marx ghi nhận tính chất mâu thuẫn nội tại trong bản thân sự tồn tại của hàng hoá: sự mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị (biểu hiện thành giá trị trao đổi). Sự mâu thuẫn này chính là sự mâu thuẫn giữa tính chất trừu tượng, đồng nhất, phi tự nhiên của giá trị trong trao đổi hàng hoá với tính chất tự nhiên, cụ thể, muôn màu muôn vẻ của giá trị sử dụng chứa đựng trong bản thân nó. Người ta đổi hàng hoá để khai thác giá trị sử dụng có ích của nó, nhưng người ta không thể nào có được giá trị sử dụng ấy nếu không thông qua giá trị. (Không có mua qua bán lại thì không có hàng để tiêu dùng).
Hình thái ngang giá trong trao đổi giữa các hàng hoá như vậy đã tạo ra một sự đối lập từ nguồn gốc: giá trị sử dụng đã trở thành hình thái biểu hiện của cái đối lập với nó là giá trị. Ngoài ra còn là một hình thái đối lập thống nhất khác nữa: lao động cụ thể (hình thành trên giá trị sử dụng) đã biểu hiện trong cái đối lập với nó là lao động trừu tượng (kết tinh trong giá trị). Cần phải lưu ý đặc biệt những mâu thuẫn nội tại nói trên trong hàng hoá, những mâu thuẫn này đã bị những nhà kinh tế cổ điển bỏ qua, không đếm xỉa gì tới thì đối với Marx đã được khai thác triệt để trong phân tích làm tiền đề giải thích toàn bộ những mâu thuẫn đối kháng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong Tư bản, những mâu thuẫn đó đã được Marx ghi nhận tiên khởi như “tính chất hai mặt của hàng hoá”, từ đó sau khi phân tích đã dẫn đến một nhận xét rất đáng lưu ý sau đây: đó là tính chất mà ông gọi là “tính chất bí ẩn của hình thái ngang giá” khi các hàng hoá được trao đổi với nhau – nhận xét này sẽ giúp chúng ta hiểu hiện tượng mà Marx sẽ gọi là “tính bái vật giáo của hàng hoá”. Hàng hoá là một vật, bản thân của nó là một giá trị, giá trị này chỉ có được trong trao đổi với một hàng hoá khác, nhưng một cách biểu kiến người ta không thấy được đó là kết quả do mối quan hệ trao đổi tạo ra mà chỉ thấy giá trị ấy tự bộc lộ trong mối quan hệ đó nên tưởng rằng cái hàng hoá được trao đổi đó tự nhiên có được một hình thái ngang giá, có thể trao đổi trực tiếp được.
Nói một cách khác, người ta không thấy được cái bản thể chung về lao động xã hội, trừu tượng của hàng hoá, căn cứ vào đó để trao đổi mà lại chỉ dựa vào hàng hoá với tư cách là một vật thể biểu hiện để cho rằng bản thân vật thể ấy tự nhiên có được cái thuộc tính có thể trao đổi trực tiếp. Marx cho rằng trầm trọng hơn khi cái bí mật của hình thái ngang giá này đã bị coi như không còn được chú ý nữa khi giá trị của hàng hoá đã xuất hiện ra dưới hình thái hoàn chỉnh của nó là tiền – hình thái ngang giá phổ biến của hàng hoá đã đạt đến cấp độ trừu tượng mang tính chất thuần ý niệm, có thể tự thân vận động độc lập với sản xuất trong lưu thông.
Lao động tư nhân và quan hệ sản xuất
Qua hình thái giá trị nội tại trong hàng hoá, với tư cách là một hình thái vật thể hoá giá trị, một câu hỏi đặt ra: tại sao các vật phẩm tiêu dùng bao hàm giá trị sử dụng lại trở thành hàng hoá? Câu trả lời của Marx là: “chỉ vì chúng là sản phẩm của những lao động tư nhân được tiến hành một cách độc lập với nhau” (TBI/1, tr. 98). Như vậy xét về mặt quan hệ xã hội giữa những người sản xuất ra hàng hoá thì một xã hội bao gồm những tư nhân độc lập với nhau đã là điều kiện tiên quyết để hình thành xã hội hàng hoá.
Trong xã hội trao đổi hàng hoá phổ biến, những tư nhân này đã không còn là những người đem hàng hoá dư thừa của mình trao đổi lấy hàng hoá khác để tiêu dùng mà đã trở thành những nhà chuyên làm hàng hoá để trao đổi, cũng vì đó tính chất giá trị của hàng hoá đã được coi là mục đích ngay từ đầu. Tính có ích của hàng hoá vẫn tồn tại nhưng đã trở thành sự có ích cho người khác, chứ không phải cho người sản xuất ra sản phẩm. Tính có ích cụ thể này cũng bị gạt hẳn sang bên trong quá trình trao đổi cho nên hình thái giá trị trừu tượng trong hàng hoá đã có thể vận động theo một đường đi phi vật thể, chuyển vận khắp nơi theo cái sức đẩy tự thân của nó.
Tách rời khỏi sự ràng buộc của giá trị sử dụng, tách rời khỏi những giao tiếp cụ thể của những người làm ra sản phẩm để tiêu dùng, hàng hoá vật thể hoá của giá trị đã trở thành đại diện cho những người sản xuất, và những người sản xuất bấy giờ chỉ cần quan hệ với nhau thông qua những hàng hoá-vật thể ấy như những đại biểu cho mình. Khái niệm “quan hệ xã hội về sản xuất” trong kho từ vị của Marx đã xuất hiện theo một ý nghĩa rất đặc biệt trong xã hội hàng hoá: nó chỉ mối quan hệ của những tư nhân sản xuất độc lập với nhau và chỉ quan hệ với nhau dưới hình thái của một “quan hệ xã hội của những sản phẩm lao động”. Trong xã hội hàng hoá đó
“Tính bình đẳng của các loại lao động của con người mang hình thái giá trị của những sản phẩm lao động; thước đo những lao động cá thể bằng thời gian mang hình thái đại lượng giá trị những sản phẩm lao động; cuối cùng những quan hệ của các người sản xuất, ở đó những tính cách xã hội của lao động của họ tự bộc lộ, mang hình thái một quan hệ xã hội của những sản phẩm của lao động” (TBI/1, tr. 97).
Ý nghĩa câu dẫn trên là gì?
“Những quan hệ của những người sản xuất ở đó tính chất xã hội của lao động của họ tự bộc lộ”: ở đây là quan hệ giữa những người sản xuất trong hình thái xã hội mà ta có thể hiểu theo lôgích ngược lại, một hình thái xã hội phi hàng hoá, trong hình thái này tính chất xã hội của họ bộc lộ ra một cách tự nhiên; điều đó có nghĩa bất cứ lao động nào cũng mang tính chất xã hội, tính chất xã hội này đã biểu hiện một cách trực tiếp nơi những chủ thể sản xuất. Ý nghĩa: yếu tính lao động xã hội biểu hiện trực tiếp nơi những chủ thể lao động cá biệt.
Những quan hệ sản xuất nói trên, trong xã hội hàng hoá đã “mang hình thái một quan hệ xã hội của những sản phẩm của lao động”. Nếu trong xã hội phi hàng hoá, sản phẩm phụ thuộc vào con người để khi giao tiếp đối mặt trực tiếp với nhau thì trong xã hội hàng hoá, sản phẩm đã trở thành một vật thể trung gian qua đó con người quan hệ với nhau không cần biết nhau là ai. Mối quan hệ sản xuất cụ thể giữa người và người trước đó nay đã thay bằng mối quan hệ gián tiếp của những sản phẩm. Ý nghĩa: yếu tính lao động xã hội biểu hiện thông qua những vật thể trung gian giữa những nguời sản xuất cá biệt.
Tính chất đặc biệt của mối quan hệ sản xuất này có được vì được đặt trên hai điều kiện:
1)Tính bình đẳng của các loại lao động của con người mang hình thái giá trị của những sản phẩm lao động: Hình thái tự nhiên của lao động của con người biểu hiện ra ở những chi phí khác nhau về sức lao động trong các loại lao động khác nhau – trong xã hội hàng hoá tất cả đã được quy về một bản thể chung, một thứ lao động đồng nhất, trừu tượng, biểu hiện thành hình thái giá trị. Vì trừu tượng, giá trị không thể trông thấy được nhưng đã quy định mọi lưu thông vận động của hàng hoá.
2) Thước đo những lao động cá thể bằng thời gian mang hình thái đại lượng giá trị những sản phẩm lao động: Các hình thái lao động khác nhau về chất có thể đo bằng thời gian lao động cụ thể, tức là độ dài riêng biệt của sự chi phí sức lao động làm cho những sản phẩm khác nhau về chất thì trong xã hội hàng hoá, thước đo ấy đã biểu hiện thành một hình thái đại lượng giá trị, tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết (trung bình, tuỳ theo sức sản xuất…) để tạo ra sản phẩm trao đổi.
Những quy định xã hội khác nhau
Qua những gì đã phân tích, chúng ta thấy những mâu thuẫn trong hàng hoá chính là mâu thuẫn giữa hình thái tự nhiên và cụ thể (trong giá trị sử dụng) với cái hình thái phi tự nhiên và trừu tuợng của nó biểu hiện trong giá trị (dưới hình thái giá trị trao đổi). Những mâu thuẫn ấy quy cho cùng có thể hiểu chính là sự mâu thuẫn giữa xã hội hàng hoá mang tính đặc thù, lịch sử với cái hình thái xã hội phi hàng hoá mang tính tự nhiên của loài người. Nội dung nhu cầu căn bản của sự sống con người, một trao đổi về chất của con người với tự nhiên, một thứ lao động có ích, căn bản cho sự tồn tại của con người đã được Marx nhắc đi nhắc lại nhiều lần ngay trong Tư bản:
“Ở đâu mà nhu cầu buộc người ta phải có quần áo thì ở đấy người ta đã may quần áo trong suốt mấy nghìn năm trước khi có người trở thành thợ may. Nhưng dù đó là áo hay vải, hay nói chung bất cứ một thứ yếu tố nào của cái vật chất không có sẵn trong thiên nhiên, thì bao giờ nó cũng do một thứ sản xuất đặc biệt, có mục đich tạo nên bằng cách làm cho những vật chất khác nhau trong thiên nhiên thích ứng với những nhu cầu nhất định của con người. Do đó, với tư cách là kẻ sáng tạo ra giá trị sử dụng, là lao động có ích, thì lao động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ thuộc vào bất kỳ hình thái xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên vĩnh cửu làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên, tức là cho bản thân sự sống của con người” (TBI/1, tr.61)
Tính chất phổ quát của lao động mang tính nhân loại ấy đã được Marx mô tả rõ hơn về mặt nội dung:
“Đầu tiên, dù các loại lao động có ích có khác nhau như thế nào, đó là một hiện tượng sinh lý nghĩa là chúng là chức năng của cơ thể con người, mỗi chức năng dù bản chất và hình thái thế nào, chủ yếu là sự tiêu phí về não, thần kinh, cơ bắp…Thứ hai, đối với cái tạo ra cơ sở cho sự quy định có tính định lượng về giá trị, tức là sự kéo dài của sự chi phí đó, hoặc đại lượng của lao động thì đã có sự khác biệt rõ ràng giữa đại lượng và chất lượng của nó. Trong mọi trạng thái xã hội, thời gian lao động chi phí để sản xuất ra các phương tiện sinh sống tất yếu buộc phải là một vật thể có ích cho con người dù không có ý nghĩa như nhau trong các quá trình phát triển khác nhau. Và cuối cùng, từ lúc con người lao động qua lại với nhau thì lao động của họ đã đảm nhận một hình thái xã hội.” (TBI/1, tr. 97)
Rõ ràng là trong quy định xã hội cần thiết “cho bản thân sự sống của con người”, “không phụ thuộc vào bất kỳ hình thái xã hội nào”, con người chỉ sản xuất ra những sản phẩm tiêu dùng trực tiếp cho nhau chứ không sản xuất ra hàng hoá như một vật thể chỉ với mục đích trao đổi bởi vì những giá trị sử dụng không thể đối diện với nhau như hàng hoá. Trong sự quy định xã hội ấy vẫn có phân công lao động nhưng, như trong xã hội thời cổ, sản phẩm không trở thành hàng hoá. Chỉ trong xã hội hàng hoá có sự khác nhau về chất giữa các lao động độc lập với nhau, giữa những chủ thể sản xuất độc lập với nhau mới phát triển thành một hệ thống phân công lao động xã hội nhiều ngành ở đó những sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập với nhau và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như những hàng hoá (TBI/1, tr.61).
Xét về mặt lập luận của Marx, chúng ta cần ghi nhận điều sau đây: tất cả những thuộc tính phổ quát về lao động nói trên đều có thể tìm thấy trong hình thái sản xuất hàng hoá như một hình thái biểu hiện đặc thù, nhưng do hình thái sản xuất này là một hình thái đặc thù cho nên tính chất phổ quát ấy cũng đã biểu hiện ở đó dưới một hình thái đặc thù – cái biểu hiện bên ngoài đã trở thành đối lập với cái yếu tính bên trong của nó. Cũng chính vì vậy mà Marx đã phát hiện ra hình thái mâu thuẫn khác tiềm ẩn trong trao đổi hàng hoá: “lao động của những tư nhân mang hình thái của cái đối lập với nó là lao động mang hình thái xã hội trực tiếp”. Nói cách khác mối quan hệ giữa những tư nhân độc lập trong xã hội hàng hoá thực chất cũng là mối quan hệ xã hội do cái xã hội hàng hoá ấy quy định: hình thái biểu hiện tư nhân trong lao động ở đây vẫn mang nội dung xã hội của lao động nhưng dưới hình thái đối lập.
Quy luật giá trị, tiền và tư bản
Tất cả những tính chất trừu tuợng và mâu thuẫn chứa đựng trong sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá trong xã hội hàng hoá, khi đi vào chu kỳ lưu thông trên thị trường tư bản chủ nghĩa đã được Marx cô đọng lại trong một quy luật nền móng và gọi là “quy luật giá trị”: từ hình thái trừu tượng trong trao đổi, lưu thông, giá trị khi biểu hiện thành hình thái cụ thể của nó là đại lượng giá trị thì chính đại lượng giá trị ấy sẽ điều tiết quan hệ trao đổi hàng hoá đó, chứ không phải là ngược lại (TbI/1, tr. 87). Tính chất trừu tượng, tự động của giá trị dưới hình thái đại lượng giá trị đã giữ vai trò chi phối thị trường.
Điều này bộc lộ khá rõ rệt khi giá trị biểu hiện thành hình thái tiền tệ. Theo sự phân tích của Marx, từ hình thái giá trị kết tinh của lao động trong trao đổi đơn giản, bước sang những hình thái trao đổi mở rộng, một hàng hoá nào đó có thể xuất hiện đại diện cho một hình thái ngang giá chung, hình thái này từ chỗ tìm được một chất liệu thích hợp quý hiếm để đại diện (vàng, bạc…) về sau có thể vượt lên trên mọi vật thể cụ thể để trở thành hình thái tiền trên danh nghĩa, tiền trên ý niệm (tiền giấy, tín dụng…).
Dưới hình thái thuần tuý ý niệm này, trong lưu thông, tiền với tư cách là đại diện cho giá trị, đã có điều kiện để tách khỏi mọi ràng buộc với những quy trình sản xuất để chuyển từ hình thái này sang hình thái khác “nhưng không bao giờ mất đi trong cuộc vận động ấy, và như vậy là nó biến thành một chủ thể tự động.” [TBI/1, tr. 201]. Tự động, đó cũng là một khái niệm mà Marx đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần để chỉ định tính chất tự bành trướng, tự vận động, thoát khỏi mọi toan tính chủ quan của con người, nhất là khi tiền đã được tập trung vào tay những chủ thể tư nhân để biến thành tư bản, sử dụng trong việc đầu tư để sản xuất và tái sản xuất.
Trong trường hợp này với tư cách là tư bản, tiền đã lưu thông như một mục đích “tự nó” trong cuộc vận động không ngừng để làm tăng thêm giá trị cho tư bản và như vậy đã làm cho sự vận động của tư bản trở thành sự vận động “không giới hạn” (TBI/1, tr. 199). Đoạn văn sau đây của Trần Hải Hạc đã mô tả tính chất tự thân vận động của tiền như sau:
“Với sự phát triển của tư bản cổ phần hoá và sự hình thành của thị trường chứng khoán, tư bản tách đôi và tồn tại dưới hai mặt: một mặt là “tư bản thật” là tư bản đầu tư trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá ; mặt kia là “tư bản giả” là tư bản biểu hiện trong chứng khoán có giá, tức cổ phiếu và trái phiếu. Về danh nghĩa, tư bản giả là “bản sao” của tư bản thật, song giá trị của tư bản giả không tuỳ thuộc vào giá danh nghĩa của chứng khoán, mà vào giá mua bán của nó trên thị trường. Thị trường chứng khoán này mang tính chất đầu cơ theo nghĩa nó phản ánh những dự đoán về biến đổi lên xuống của tỷ suất lợi tức và mức cổ tức có thể thu được trong tương lai : thị giá chứng khoán hình thành từ hoạt động mua bán của những người tìm kiếm chênh lệch thị giá. Cho nên tổng số tư bản giả có thể lớn hơn hay thấp hơn nhiều lần tổng số tư bản thật. Tư bản giả có tuần hoàn riêng, không phụ thuộc vào tuần hoàn của tư bản thật, và hình như có thuộc tính tự nhiên tăng giá trị một cách độc lập với quá trình thật tạo ra giá trị thặng dư. Từ đó mà chủ nghĩa tư bản hình thành một nền kinh tế ảo tách rời hoàn toàn nền kinh tế thực, và – ngoài những thời điểm “bong bóng xà phòng” vỡ tung – tư bản chứng khoán trở nên vật thần bí được xã hội sùng bái nhất [Trần Hải Hạc: “Học thuyết Marx, Đảng Cộng sản Việt Nam và vấn đề bóc lột””, Thời Đại Mới số 8, 2003 ].
Phải nói về khái niệm giá trị thặng dư rất quan trọng được nhắc đến, bởi vì thực chất đó chỉ là sự phát triển lôgích của khái niệm “giá trị” hàng hoá đã phân tích ở trên khi từ những quy định xã hội của hình thái sản xuất vật phẩm tiêu dùng chuyển sang hình thái sản xuất hàng hoá để trao đổi. Trong những hình thái xã hội trước tư bản chủ nghĩa vẫn có tình trạng bóc lột lao động thặng dư của một lớp người này với những lớp người khác, nhưng sự bóc lột ấy đã diễn ra theo phương thức tước đoạt sản phẩm cụ thể hoặc thời gian tiêu phí sức lao động cụ thể chứ không diễn ra dưới hình thái giá trị trừu tượng như trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong xã hội này, sức lao động của con người đã trở thành một thứ hàng hoá có thể mua được trên thị trường (gọi là thị trường lao động) mà những đơn vị tư nhân sản xuất (cá thể hoặc tập đoàn) kết hợp với tư bản (biểu hiện ở đây là tư liệu sản xuất) để tạo ra lao động thặng dư dưới hình thái giá trị. Ở đây không phải chỗ để chúng ta đi sâu vào những phương thức khai thác lao động thặng dư (tuyệt đối và tương đối) mà chỉ muốn nhấn mạnh đến tính chất tước đoạt dưới hình thái trừu tượng đã phân tích: đó là sự bòn rút sức lao động mà những chủ thể sản xuất đã mua và sử dụng như một sức chi phí đồng nhất, để làm tăng lên một cách “tự động” và “không giới hạn” đại lượng giá trị đã vật thể hoá trong tư bản. Và đó chính là phương thức bóc lột lao động theo “quy luật giá trị” riêng biệt của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
[*] mở đầu bằng câu: “Trong những xã hội do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chi phối thì của cải biểu hiện ra là một “đống hàng hoá khổng lồ”, còn từng hàng hoá một thì biểu hiện ra là hình thái nguyên tố của của cải ấy. Vì vậy, công cuộc của chúng ta bắt đầu bằng việc phân tích hàng hoá” (TBI/1 tr. 51). Một câu khởi đầu đơn giản, tưởng không có gì quan trọng, nhưng ai đã đọc Marx nhiều lần đều nhận thấy tiềm ẩn ở đây một bản nội dung rút gọn của lý luận mácxít về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cùng với số phận lịch sử của nó.
Nhân cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu lần này, khi đọc lại Marx, tôi muốn dừng lại câu dẫn trên đây để tìm hiểu rõ hơn thực chất của cái vật thể được ông gọi là “hình thái nguyên tố của của cải” tạo dựng nên xã hội tư bản, qua đó tập trung làm sáng tỏ vấn nạn cần được nêu ra ngay từ đầu để mọi thảo luận về học thuyết Marx có thể đi xa hơn: trong một thế giới tràn ngập hàng hoá, với mọi người, hàng hóa chỉ là những vật thể hữu dụng “tự nhiên” trong đời sống hàng ngày, nhưng qua phân tích và sự diễn tả của Marx, tại sao cái vật thể tầm thường ấy lại hiện ra với rất nhiều điều “khó hiểu”, “kỳ quái”, đến độ có thể gọi là “bí ẩn”, “siêu hình”?
Câu hỏi này không thể không dẫn đến một câu hỏi khác: trong lý giải của Marx, đâu là nguồn gốc sâu xa gây ra sự “khó hiểu” của vật thể được gọi là “hình thái nguyên tố” làm nên sự giàu có về mặt vật chất cho xã hội tư bản? Khai triển ý nghĩa của vấn nạn ấy người ta phải hiểu như thế nào về cái gọi là tính đặc trưng mácxít của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với tư cách là một hình thái lịch sử đặc thù? Và qua vấn nạn mácxít về sự bí ẩn của hàng hoá trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đó, chúng ta có thể hiểu thêm được gì về những “bí ẩn” nằm ngay trong chính bản thân sự suy tưởng của Marx về lịch sử, về bản chất xã hội của con người, những điều mà Marx đã gợi ra cách đây hơn cả một thể kỷ rưỡi, nay vẫn còn gây ra tranh cãi?
Giá trị, đại lượng giá trị, thời gian lao động xã hội cần thiết, sức sản xuất
Để bắt đầu tìm hiểu những vấn đề phức tạp nói trên, chúng ta hãy cùng với Marx hình dung trước mặt mình có hai món hàng do hai người làm ra và dự định đem trao đổi với nhau. Trước khi trao đổi chúng ta được cho biết rằng theo quan điểm kinh tế cổ điển của Adam Smith, hàng hoá là do lao động khổ nhọc tạo ra, và ở Marx thì điều này hàm nghĩa đó là một hình thái lao động sản xuất trực tiếp, thứ lao động tạo ra những sản phẩm vật chất có thể cảm nhận bằng giác quan, đối tượng nghiên cứu của kinh tế học. Trừ những trường hợp riêng biệt, nguyên tắc của trao đổi là ngang giá, hai bên đều có lợi, mình cần cái mình không có mà không bị thiệt thòi. Muốn như vậy thì phải tìm ra một chuẩn mực chung giữa hai hàng hoá để làm cơ sở cho cuộc trao đổi đó.
Chuẩn mực chung đó là gì? Trong trao đổi đơn giản, Marx cho rằng nếu đó là sự chi phí sức lao động tính bằng độ lâu (durée) về thời gian của các loại lao động riêng biệt thì trong xã hội mà sự trao đổi hàng hoá đã trở thành hiện tượng “chi phối”, phổ biến, sự chi phí về sức lao động đó đã biểu hiện như một hình thái đồng nhất, trừu tượng mang ý nghĩa của một bản thể xã hội gọi là giá trị. Không có cái bản thể chung quy định cho hình thái giá trị này làm cơ sở thì việc trao đổi hàng hoá sẽ trở nên tuỳ tiện, không thể bảo đảm được nguyên tắc ngang giá, có lợi cho các đối tác trên phạm vi toàn xã hội.
Trong một xã hội của sản xuất và trao đổi hàng hoá, giá trị có thể xem như là một thứ linh hồn, vô hình, không ai thấy được, nhưng lại có khả năng điều khiển mọi chuyển động của cái hình thái xã hội ấy. Từ cách nhìn sự vật ở những dáng vẻ bên ngoài của nó, người ta cho rằng khái niệm giá trị là viễn vông, không giúp gì cho việc tính toán sản xuất (vì trong thực tế chỉ có giá cả), nhưng với Marx điều đó không đúng: không ai có thể thấy linh hồn của người bên cạnh mình, nhưng người ta vẫn có thể thông qua những biểu hiện hành vi, ứng xử để lần dò. Marx cho đó chính mới là công việc của những người làm khoa học: từ những biểu hiện của sự vật, người ta có thể tìm ra yếu tính của nó (đi từ giá cả để hiểu giá trị).
Vấn đề đặt ra ở đây là hãy xét xem thực thể của giá trị là gì? Với Marx khái niệm đó không phải là cái ý nghĩa tâm lý mưu cầu lợi ích của từng cá nhân (trong sản xuất lẫn tiêu thụ) mà, từ sự cấu tạo của nó, nó là một bản thể xã hội, là một hình thái lao động trừu tượng đã chưng cất lên từ tất cả các loại lao động dị biệt, dù khéo léo hay đơn giản, được tổng hợp, trung bình hoá thành một hình thái đồng nhất, hình thành “trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với một trình độ thành thạo trung bình, một cường độ lao động trung bình” (TBI/1, tr. 56), kết tinh lại trong hàng hoá dưới hình thái “lượng thời gian lao động” và được gọi là “thời gian lao động xã hội cần thiết”.
Một tính chất khác cũng đã được Marx nhấn mạnh để làm rõ hơn nội dung của cái có thể gọi là “sức lao động xã hội” này: nó hoàn toàn tuỳ thuộc vào sức sản xuất của mỗi xã hội cụ thể, diễn ra trong các điều kiện về phát triển nhất định nào đó của sự phát triển về sản xuất xã hội (ta có thể hiểu đó là trình độ khoa học, kỹ thuật, quản lý, sáng tạo, phát minh, tổ chức điều hành…) mà mang chất lượng khác nhau. Qua sự trình bày của Marx thì sức sản xuất của lao động của một xã hội càng lớn thì thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một vật phẩm nào đó sẽ càng nhỏ, sức lao động bỏ ra càng ít, trái lại nếu sức sản xuất của xã hội đó càng yếu, thì khối lượng lao động kết tinh trong vật phẩm càng lớn, giá trị của nó càng lớn, sức lao động bỏ ra càng nhiều.
Giá trị là một khái niệm nền móng trong học thuyết Marx về sự vận động của lao động trong xã hội tư bản, không khởi đầu từ thực thể này, thì không thể lĩnh hội được bản chất của chế độ tư bản thông qua những phạm trù kinh tế học thường nghiệm của nó.
Giá trị và giá trị sử dụng trong hàng hoá
Ai có chú ý đến vấn đề giá trị lao động trong lý luận của Adam Smith đều biết tuy có nhắc đến khái niệm giá trị sử dụng, nhưng khái niệm này đã bị bỏ qua để chỉ nhấn mạnh khái niệm giá trị trao đổi trong quan hệ hàng hoá. Marx cũng tập trung tìm hiểu khái niệm đó (và cho đó là hình thái biểu hiện của giá trị) nhưng lại cho rằng người ta không thể hiểu được thực chất của giá trị nếu tách rời khỏi khái niệm đi chung với nó là giá trị sử dụng, cả hai cùng tồn tại và cần được phân tích để bổ sung cho nhau: trong khi hình thái giá trị trong hàng hoá được xem là trừu tượng, phi tự nhiên thì giá trị sử dụng lại chính là hình thái tự nhiên, cụ thể của nó, là mục đích cuối cùng trong chu kỳ lưu chuyển của hàng hoá.
Trong phân tích của Marx, hai hình thái gíá trị nói trên cùng tồn tại trong hàng hoá nhưng trong quá trình trao đổi, hình thái giá trị sử dụng đã bị tạm thời gạt hẳn sang một bên để giá trị trồi lên làm tròn chức năng trao đổi ngang giá của nó với những món hàng khác, và trong khi tập trung làm tròn chức năng này, theo cách nói của Marx, hàng hoá đã không còn giữ được “một nguyên tử nào về giá trị sử dụng” cả (TBI/1, tr.55). Giá trị bây giờ đã trở thành một thực thể hoàn toàn trừu tượng trong vận động, một hình thái phi vật thể, không bị ràng buộc gì với cái gánh nặng vật chất của giá trị sử dụng đã kéo trì nó xuống mặt đất. Nó tự tạo ra một con đường đi độc lập cho nó.
Nhưng cũng chính từ sự thoát ly của giá trị trong trao đổi mà Marx ghi nhận tính chất mâu thuẫn nội tại trong bản thân sự tồn tại của hàng hoá: sự mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị (biểu hiện thành giá trị trao đổi). Sự mâu thuẫn này chính là sự mâu thuẫn giữa tính chất trừu tượng, đồng nhất, phi tự nhiên của giá trị trong trao đổi hàng hoá với tính chất tự nhiên, cụ thể, muôn màu muôn vẻ của giá trị sử dụng chứa đựng trong bản thân nó. Người ta đổi hàng hoá để khai thác giá trị sử dụng có ích của nó, nhưng người ta không thể nào có được giá trị sử dụng ấy nếu không thông qua giá trị. (Không có mua qua bán lại thì không có hàng để tiêu dùng).
Hình thái ngang giá trong trao đổi giữa các hàng hoá như vậy đã tạo ra một sự đối lập từ nguồn gốc: giá trị sử dụng đã trở thành hình thái biểu hiện của cái đối lập với nó là giá trị. Ngoài ra còn là một hình thái đối lập thống nhất khác nữa: lao động cụ thể (hình thành trên giá trị sử dụng) đã biểu hiện trong cái đối lập với nó là lao động trừu tượng (kết tinh trong giá trị). Cần phải lưu ý đặc biệt những mâu thuẫn nội tại nói trên trong hàng hoá, những mâu thuẫn này đã bị những nhà kinh tế cổ điển bỏ qua, không đếm xỉa gì tới thì đối với Marx đã được khai thác triệt để trong phân tích làm tiền đề giải thích toàn bộ những mâu thuẫn đối kháng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong Tư bản, những mâu thuẫn đó đã được Marx ghi nhận tiên khởi như “tính chất hai mặt của hàng hoá”, từ đó sau khi phân tích đã dẫn đến một nhận xét rất đáng lưu ý sau đây: đó là tính chất mà ông gọi là “tính chất bí ẩn của hình thái ngang giá” khi các hàng hoá được trao đổi với nhau – nhận xét này sẽ giúp chúng ta hiểu hiện tượng mà Marx sẽ gọi là “tính bái vật giáo của hàng hoá”. Hàng hoá là một vật, bản thân của nó là một giá trị, giá trị này chỉ có được trong trao đổi với một hàng hoá khác, nhưng một cách biểu kiến người ta không thấy được đó là kết quả do mối quan hệ trao đổi tạo ra mà chỉ thấy giá trị ấy tự bộc lộ trong mối quan hệ đó nên tưởng rằng cái hàng hoá được trao đổi đó tự nhiên có được một hình thái ngang giá, có thể trao đổi trực tiếp được.
Nói một cách khác, người ta không thấy được cái bản thể chung về lao động xã hội, trừu tượng của hàng hoá, căn cứ vào đó để trao đổi mà lại chỉ dựa vào hàng hoá với tư cách là một vật thể biểu hiện để cho rằng bản thân vật thể ấy tự nhiên có được cái thuộc tính có thể trao đổi trực tiếp. Marx cho rằng trầm trọng hơn khi cái bí mật của hình thái ngang giá này đã bị coi như không còn được chú ý nữa khi giá trị của hàng hoá đã xuất hiện ra dưới hình thái hoàn chỉnh của nó là tiền – hình thái ngang giá phổ biến của hàng hoá đã đạt đến cấp độ trừu tượng mang tính chất thuần ý niệm, có thể tự thân vận động độc lập với sản xuất trong lưu thông.
Lao động tư nhân và quan hệ sản xuất
Qua hình thái giá trị nội tại trong hàng hoá, với tư cách là một hình thái vật thể hoá giá trị, một câu hỏi đặt ra: tại sao các vật phẩm tiêu dùng bao hàm giá trị sử dụng lại trở thành hàng hoá? Câu trả lời của Marx là: “chỉ vì chúng là sản phẩm của những lao động tư nhân được tiến hành một cách độc lập với nhau” (TBI/1, tr. 98). Như vậy xét về mặt quan hệ xã hội giữa những người sản xuất ra hàng hoá thì một xã hội bao gồm những tư nhân độc lập với nhau đã là điều kiện tiên quyết để hình thành xã hội hàng hoá.
Trong xã hội trao đổi hàng hoá phổ biến, những tư nhân này đã không còn là những người đem hàng hoá dư thừa của mình trao đổi lấy hàng hoá khác để tiêu dùng mà đã trở thành những nhà chuyên làm hàng hoá để trao đổi, cũng vì đó tính chất giá trị của hàng hoá đã được coi là mục đích ngay từ đầu. Tính có ích của hàng hoá vẫn tồn tại nhưng đã trở thành sự có ích cho người khác, chứ không phải cho người sản xuất ra sản phẩm. Tính có ích cụ thể này cũng bị gạt hẳn sang bên trong quá trình trao đổi cho nên hình thái giá trị trừu tượng trong hàng hoá đã có thể vận động theo một đường đi phi vật thể, chuyển vận khắp nơi theo cái sức đẩy tự thân của nó.
Tách rời khỏi sự ràng buộc của giá trị sử dụng, tách rời khỏi những giao tiếp cụ thể của những người làm ra sản phẩm để tiêu dùng, hàng hoá vật thể hoá của giá trị đã trở thành đại diện cho những người sản xuất, và những người sản xuất bấy giờ chỉ cần quan hệ với nhau thông qua những hàng hoá-vật thể ấy như những đại biểu cho mình. Khái niệm “quan hệ xã hội về sản xuất” trong kho từ vị của Marx đã xuất hiện theo một ý nghĩa rất đặc biệt trong xã hội hàng hoá: nó chỉ mối quan hệ của những tư nhân sản xuất độc lập với nhau và chỉ quan hệ với nhau dưới hình thái của một “quan hệ xã hội của những sản phẩm lao động”. Trong xã hội hàng hoá đó
“Tính bình đẳng của các loại lao động của con người mang hình thái giá trị của những sản phẩm lao động; thước đo những lao động cá thể bằng thời gian mang hình thái đại lượng giá trị những sản phẩm lao động; cuối cùng những quan hệ của các người sản xuất, ở đó những tính cách xã hội của lao động của họ tự bộc lộ, mang hình thái một quan hệ xã hội của những sản phẩm của lao động” (TBI/1, tr. 97).
Ý nghĩa câu dẫn trên là gì?
“Những quan hệ của những người sản xuất ở đó tính chất xã hội của lao động của họ tự bộc lộ”: ở đây là quan hệ giữa những người sản xuất trong hình thái xã hội mà ta có thể hiểu theo lôgích ngược lại, một hình thái xã hội phi hàng hoá, trong hình thái này tính chất xã hội của họ bộc lộ ra một cách tự nhiên; điều đó có nghĩa bất cứ lao động nào cũng mang tính chất xã hội, tính chất xã hội này đã biểu hiện một cách trực tiếp nơi những chủ thể sản xuất. Ý nghĩa: yếu tính lao động xã hội biểu hiện trực tiếp nơi những chủ thể lao động cá biệt.
Những quan hệ sản xuất nói trên, trong xã hội hàng hoá đã “mang hình thái một quan hệ xã hội của những sản phẩm của lao động”. Nếu trong xã hội phi hàng hoá, sản phẩm phụ thuộc vào con người để khi giao tiếp đối mặt trực tiếp với nhau thì trong xã hội hàng hoá, sản phẩm đã trở thành một vật thể trung gian qua đó con người quan hệ với nhau không cần biết nhau là ai. Mối quan hệ sản xuất cụ thể giữa người và người trước đó nay đã thay bằng mối quan hệ gián tiếp của những sản phẩm. Ý nghĩa: yếu tính lao động xã hội biểu hiện thông qua những vật thể trung gian giữa những nguời sản xuất cá biệt.
Tính chất đặc biệt của mối quan hệ sản xuất này có được vì được đặt trên hai điều kiện:
1)Tính bình đẳng của các loại lao động của con người mang hình thái giá trị của những sản phẩm lao động: Hình thái tự nhiên của lao động của con người biểu hiện ra ở những chi phí khác nhau về sức lao động trong các loại lao động khác nhau – trong xã hội hàng hoá tất cả đã được quy về một bản thể chung, một thứ lao động đồng nhất, trừu tượng, biểu hiện thành hình thái giá trị. Vì trừu tượng, giá trị không thể trông thấy được nhưng đã quy định mọi lưu thông vận động của hàng hoá.
2) Thước đo những lao động cá thể bằng thời gian mang hình thái đại lượng giá trị những sản phẩm lao động: Các hình thái lao động khác nhau về chất có thể đo bằng thời gian lao động cụ thể, tức là độ dài riêng biệt của sự chi phí sức lao động làm cho những sản phẩm khác nhau về chất thì trong xã hội hàng hoá, thước đo ấy đã biểu hiện thành một hình thái đại lượng giá trị, tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết (trung bình, tuỳ theo sức sản xuất…) để tạo ra sản phẩm trao đổi.
Những quy định xã hội khác nhau
Qua những gì đã phân tích, chúng ta thấy những mâu thuẫn trong hàng hoá chính là mâu thuẫn giữa hình thái tự nhiên và cụ thể (trong giá trị sử dụng) với cái hình thái phi tự nhiên và trừu tuợng của nó biểu hiện trong giá trị (dưới hình thái giá trị trao đổi). Những mâu thuẫn ấy quy cho cùng có thể hiểu chính là sự mâu thuẫn giữa xã hội hàng hoá mang tính đặc thù, lịch sử với cái hình thái xã hội phi hàng hoá mang tính tự nhiên của loài người. Nội dung nhu cầu căn bản của sự sống con người, một trao đổi về chất của con người với tự nhiên, một thứ lao động có ích, căn bản cho sự tồn tại của con người đã được Marx nhắc đi nhắc lại nhiều lần ngay trong Tư bản:
“Ở đâu mà nhu cầu buộc người ta phải có quần áo thì ở đấy người ta đã may quần áo trong suốt mấy nghìn năm trước khi có người trở thành thợ may. Nhưng dù đó là áo hay vải, hay nói chung bất cứ một thứ yếu tố nào của cái vật chất không có sẵn trong thiên nhiên, thì bao giờ nó cũng do một thứ sản xuất đặc biệt, có mục đich tạo nên bằng cách làm cho những vật chất khác nhau trong thiên nhiên thích ứng với những nhu cầu nhất định của con người. Do đó, với tư cách là kẻ sáng tạo ra giá trị sử dụng, là lao động có ích, thì lao động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ thuộc vào bất kỳ hình thái xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên vĩnh cửu làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên, tức là cho bản thân sự sống của con người” (TBI/1, tr.61)
Tính chất phổ quát của lao động mang tính nhân loại ấy đã được Marx mô tả rõ hơn về mặt nội dung:
“Đầu tiên, dù các loại lao động có ích có khác nhau như thế nào, đó là một hiện tượng sinh lý nghĩa là chúng là chức năng của cơ thể con người, mỗi chức năng dù bản chất và hình thái thế nào, chủ yếu là sự tiêu phí về não, thần kinh, cơ bắp…Thứ hai, đối với cái tạo ra cơ sở cho sự quy định có tính định lượng về giá trị, tức là sự kéo dài của sự chi phí đó, hoặc đại lượng của lao động thì đã có sự khác biệt rõ ràng giữa đại lượng và chất lượng của nó. Trong mọi trạng thái xã hội, thời gian lao động chi phí để sản xuất ra các phương tiện sinh sống tất yếu buộc phải là một vật thể có ích cho con người dù không có ý nghĩa như nhau trong các quá trình phát triển khác nhau. Và cuối cùng, từ lúc con người lao động qua lại với nhau thì lao động của họ đã đảm nhận một hình thái xã hội.” (TBI/1, tr. 97)
Rõ ràng là trong quy định xã hội cần thiết “cho bản thân sự sống của con người”, “không phụ thuộc vào bất kỳ hình thái xã hội nào”, con người chỉ sản xuất ra những sản phẩm tiêu dùng trực tiếp cho nhau chứ không sản xuất ra hàng hoá như một vật thể chỉ với mục đích trao đổi bởi vì những giá trị sử dụng không thể đối diện với nhau như hàng hoá. Trong sự quy định xã hội ấy vẫn có phân công lao động nhưng, như trong xã hội thời cổ, sản phẩm không trở thành hàng hoá. Chỉ trong xã hội hàng hoá có sự khác nhau về chất giữa các lao động độc lập với nhau, giữa những chủ thể sản xuất độc lập với nhau mới phát triển thành một hệ thống phân công lao động xã hội nhiều ngành ở đó những sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập với nhau và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như những hàng hoá (TBI/1, tr.61).
Xét về mặt lập luận của Marx, chúng ta cần ghi nhận điều sau đây: tất cả những thuộc tính phổ quát về lao động nói trên đều có thể tìm thấy trong hình thái sản xuất hàng hoá như một hình thái biểu hiện đặc thù, nhưng do hình thái sản xuất này là một hình thái đặc thù cho nên tính chất phổ quát ấy cũng đã biểu hiện ở đó dưới một hình thái đặc thù – cái biểu hiện bên ngoài đã trở thành đối lập với cái yếu tính bên trong của nó. Cũng chính vì vậy mà Marx đã phát hiện ra hình thái mâu thuẫn khác tiềm ẩn trong trao đổi hàng hoá: “lao động của những tư nhân mang hình thái của cái đối lập với nó là lao động mang hình thái xã hội trực tiếp”. Nói cách khác mối quan hệ giữa những tư nhân độc lập trong xã hội hàng hoá thực chất cũng là mối quan hệ xã hội do cái xã hội hàng hoá ấy quy định: hình thái biểu hiện tư nhân trong lao động ở đây vẫn mang nội dung xã hội của lao động nhưng dưới hình thái đối lập.
Quy luật giá trị, tiền và tư bản
Tất cả những tính chất trừu tuợng và mâu thuẫn chứa đựng trong sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá trong xã hội hàng hoá, khi đi vào chu kỳ lưu thông trên thị trường tư bản chủ nghĩa đã được Marx cô đọng lại trong một quy luật nền móng và gọi là “quy luật giá trị”: từ hình thái trừu tượng trong trao đổi, lưu thông, giá trị khi biểu hiện thành hình thái cụ thể của nó là đại lượng giá trị thì chính đại lượng giá trị ấy sẽ điều tiết quan hệ trao đổi hàng hoá đó, chứ không phải là ngược lại (TbI/1, tr. 87). Tính chất trừu tượng, tự động của giá trị dưới hình thái đại lượng giá trị đã giữ vai trò chi phối thị trường.
Điều này bộc lộ khá rõ rệt khi giá trị biểu hiện thành hình thái tiền tệ. Theo sự phân tích của Marx, từ hình thái giá trị kết tinh của lao động trong trao đổi đơn giản, bước sang những hình thái trao đổi mở rộng, một hàng hoá nào đó có thể xuất hiện đại diện cho một hình thái ngang giá chung, hình thái này từ chỗ tìm được một chất liệu thích hợp quý hiếm để đại diện (vàng, bạc…) về sau có thể vượt lên trên mọi vật thể cụ thể để trở thành hình thái tiền trên danh nghĩa, tiền trên ý niệm (tiền giấy, tín dụng…).
Dưới hình thái thuần tuý ý niệm này, trong lưu thông, tiền với tư cách là đại diện cho giá trị, đã có điều kiện để tách khỏi mọi ràng buộc với những quy trình sản xuất để chuyển từ hình thái này sang hình thái khác “nhưng không bao giờ mất đi trong cuộc vận động ấy, và như vậy là nó biến thành một chủ thể tự động.” [TBI/1, tr. 201]. Tự động, đó cũng là một khái niệm mà Marx đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần để chỉ định tính chất tự bành trướng, tự vận động, thoát khỏi mọi toan tính chủ quan của con người, nhất là khi tiền đã được tập trung vào tay những chủ thể tư nhân để biến thành tư bản, sử dụng trong việc đầu tư để sản xuất và tái sản xuất.
Trong trường hợp này với tư cách là tư bản, tiền đã lưu thông như một mục đích “tự nó” trong cuộc vận động không ngừng để làm tăng thêm giá trị cho tư bản và như vậy đã làm cho sự vận động của tư bản trở thành sự vận động “không giới hạn” (TBI/1, tr. 199). Đoạn văn sau đây của Trần Hải Hạc đã mô tả tính chất tự thân vận động của tiền như sau:
“Với sự phát triển của tư bản cổ phần hoá và sự hình thành của thị trường chứng khoán, tư bản tách đôi và tồn tại dưới hai mặt: một mặt là “tư bản thật” là tư bản đầu tư trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá ; mặt kia là “tư bản giả” là tư bản biểu hiện trong chứng khoán có giá, tức cổ phiếu và trái phiếu. Về danh nghĩa, tư bản giả là “bản sao” của tư bản thật, song giá trị của tư bản giả không tuỳ thuộc vào giá danh nghĩa của chứng khoán, mà vào giá mua bán của nó trên thị trường. Thị trường chứng khoán này mang tính chất đầu cơ theo nghĩa nó phản ánh những dự đoán về biến đổi lên xuống của tỷ suất lợi tức và mức cổ tức có thể thu được trong tương lai : thị giá chứng khoán hình thành từ hoạt động mua bán của những người tìm kiếm chênh lệch thị giá. Cho nên tổng số tư bản giả có thể lớn hơn hay thấp hơn nhiều lần tổng số tư bản thật. Tư bản giả có tuần hoàn riêng, không phụ thuộc vào tuần hoàn của tư bản thật, và hình như có thuộc tính tự nhiên tăng giá trị một cách độc lập với quá trình thật tạo ra giá trị thặng dư. Từ đó mà chủ nghĩa tư bản hình thành một nền kinh tế ảo tách rời hoàn toàn nền kinh tế thực, và – ngoài những thời điểm “bong bóng xà phòng” vỡ tung – tư bản chứng khoán trở nên vật thần bí được xã hội sùng bái nhất [Trần Hải Hạc: “Học thuyết Marx, Đảng Cộng sản Việt Nam và vấn đề bóc lột””, Thời Đại Mới số 8, 2003 ].
Phải nói về khái niệm giá trị thặng dư rất quan trọng được nhắc đến, bởi vì thực chất đó chỉ là sự phát triển lôgích của khái niệm “giá trị” hàng hoá đã phân tích ở trên khi từ những quy định xã hội của hình thái sản xuất vật phẩm tiêu dùng chuyển sang hình thái sản xuất hàng hoá để trao đổi. Trong những hình thái xã hội trước tư bản chủ nghĩa vẫn có tình trạng bóc lột lao động thặng dư của một lớp người này với những lớp người khác, nhưng sự bóc lột ấy đã diễn ra theo phương thức tước đoạt sản phẩm cụ thể hoặc thời gian tiêu phí sức lao động cụ thể chứ không diễn ra dưới hình thái giá trị trừu tượng như trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong xã hội này, sức lao động của con người đã trở thành một thứ hàng hoá có thể mua được trên thị trường (gọi là thị trường lao động) mà những đơn vị tư nhân sản xuất (cá thể hoặc tập đoàn) kết hợp với tư bản (biểu hiện ở đây là tư liệu sản xuất) để tạo ra lao động thặng dư dưới hình thái giá trị. Ở đây không phải chỗ để chúng ta đi sâu vào những phương thức khai thác lao động thặng dư (tuyệt đối và tương đối) mà chỉ muốn nhấn mạnh đến tính chất tước đoạt dưới hình thái trừu tượng đã phân tích: đó là sự bòn rút sức lao động mà những chủ thể sản xuất đã mua và sử dụng như một sức chi phí đồng nhất, để làm tăng lên một cách “tự động” và “không giới hạn” đại lượng giá trị đã vật thể hoá trong tư bản. Và đó chính là phương thức bóc lột lao động theo “quy luật giá trị” riêng biệt của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.