Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Văn minh thế giới nửa sau thể kỉ XX
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 179980" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 18px"><strong>Công cuộc chinh phục vũ trụ</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bay vào vũ trụ và thám hiểm mặt trăng cùng các hành tinh là ước mơ từ ngàn xưa của bao thế hệ loài người và cũng là bước tiến phi thường thể hiện rực rỡ trí tuệ con người trong nửa sau thế kỷ XX. Cái cản trở lớn nhất là sức hút của trái đất như một sức mạnh vô hình trói chặt con người và vạn vật vào đó. Người ta tính rằng một vật thể từ dưới đất phóng lên muốn thoát khỏi sức hút của trái đất, không rơi xuống nữa mà bay vòng tròn quanh trái đất phải đạt <em>tốc độ vũ trụ cấp 1</em>bằng 7,92 km/giây, tức là gần 28.800 km/giờ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nếu tốc độ tăng hơn 9 km/giây thì vật thể sẽ bay quanh trái đất theo hình elíp, tốc độ càng lớn thì hình elíp càng dẹt. Nếu tốc độ đạt đến 11,2 km/giây (tốc độ vũ trụ cấp 2) thì vật thể sẽ thoát hẳn sức hút trái đất, không bay quanh trái đất nữa nhưng sẽ bị mặt trời hút và trở thành một hành tinh nhân tạo của mặt trời. Nếu đạt đến tốc độ 16,5 km/giây thì không những thoát khỏi sức hút của trái đất mà còn thoát khỏi cả sức hút của mặt trời và đi tới các vì sao khác. Tốc độ này gọi là tốc độ vũ trụ cấp 3.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhà bác học Nga Côngxtăngtin Xiôncốpxki (1857 - 1935), ông tổ của khoa học du hành vũ trụ Liên Xô và thế giới, là người đầu tiên đã đề ra ý niệm bay vào vũ trụ bằng tên lửa nhiều tầng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong tác phẩm kinh điên <em>Thám hiểm khoảng không vũ trụ bằng động cơ phản lực.</em> C. Xiôncốpxki lần đầu tiên đề ra những công thức tính toán về tên lửa.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tháng 8-1933, Liên Xô đã thực hiện việc phóng tên lửa đầu tiên. Tên lửa nặng 19 kirôgam, dài 2,4 mét, sức đẩy 25 - 30 kg, bay lên cao 400 mét trong 18 giây. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, kỹ thuật tên lửa Liên Xô phát triển nhanh chóng, từ những tên lửa tầm vừa 3000 - 4000 km (tộc độ 4 - 5 km/giây) đến tên lửa vượt đại châu 10.000 - 15.000 km (tốc độ 7,2 - 7,6 km/giây).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhờ sự phát triển nhanh chóng đó, ngày 4-10-1957, Liên Xô đã phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Trái Đất mang tên n<em>Xpútnhich</em>n. Đó là một quả cầu thép nhẵn bóng đường kính 58 cm và nặng 83,5 kg. Sự kiện này đã mở đầu cho <em>kỷ nguyên vũ trụ.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Vệ tinh được phóng lên bởi tên lửa A.I do Côlôrép chế tạo, bay quanh trái đất theo một quỹ đạo hình bầu dục, điểm thấp nhất cách mặt đất 227 km, điểm cao nhất cách 947 km, thời gian bay một vòng quanh Trái Đất hết 1 giờ 36 phút.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau lần thất bại vào đầu năm 1957, ngày 1-2-1958, Mỹ phóng vệ tinh đầu tiên nặng 13,5 kg.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Gần bốn năm sau, ngày 12-4-1961, Liên Xô đã phóng tàu vũ trụ <em>Phương Đông (Vostok) chở Iuri Gagarin,</em> nhà du hành vũ trụ đầu tiên của thế giới. Nếu như chuyến bay một vòng quanh Trái Đất trong 108 phút của Iuri Gagarin có tính chất mở đường cho con người bay vào vũ trụ thì chuyến bay thứ hai 17 vòng mất 25 giờ 18 phút của <em>Gécman Titốp</em> ngày 6-8-1961 chứng tỏ khả năng ăn, ngủ, hoạt động bình thường trong hơn một ngày của con người trong vũ trụ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Mười tháng sau khi Liên Xô phóng tàu Phương Đông I của Iuri Gagarin, ngày 20-2-1962, Mỹ phóng tàu vũ trụ đầu tiên mang tên <em>Sao Thủy</em> chở <em>Giôn Grin,</em> nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Hoa Kỳ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tháng 6-1963, một chuyến bay sóng đôi được thực hiện giữa tàu Phương Đông 5 chở V. Bucốpxki và Phương Đông 6 chở <em>Valentina Têrescôva,</em> nhà nữ du hành vũ trụ đầu tiên trên thế giới.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Các con tàu vũ trụ Phương Đông là loại tàu chở một người, nặng khoảng 4,7 tấn, phóng bằng tên lửa có sức đẩy khoảng 500 tấn. Tàu vũ trụ chở một người mang tên “Sao Thủy” của Mỹ nặng khoảng 1,5 tấn, phóng bằng tên lửa có sức đẩy khoảng 135 tấn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tháng 3-1965, Liên Xô bắt đầu phóng loại tàu vũ trụ mới mang tên <em>Rạng Đông</em> nặng hơn 5 tấn, chở 2-3 người. Gần nửa năm sau, Mỹ phóng loại tàu <em>Jêmini</em> chở 2 người, nặng khoảng gần 3 tấn. Trong hai năm 1965-1966, Mỹ đã phóng tất cả 13 tàu vũ trụ Jêmini.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong 10 năm đầu của kỷ nguyên vũ trụ 1957-1967, có thể nói kế hoạch chinh phục vũ trụ của Liên Xô và Mỹ giống nhau và Liên Xô đã đi trước một bước. Sang năm 1967, hai nước bắt đầu thực hiện hai kế hoạch khác nhau. Liên Xô phóng các tàu vũ trụ n<em>Liên Hợp”</em>nhằm tiến tới xây dựng các trạm quỹ đạo lớn có người điểu khiển, bay dài ngày quanh Trái Đất, và Mỹ tập trung cố gắng thực hiện kế hoạch <em>“Apollo”</em> đưa con người lên mặt trăng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngày 12-4-1981, đúng 20 năm sau chuyến bay đầu tiên vào vũ trụ, cơ quan nghiên cứu hàng không và vũ trụ của Mỹ (NASA) đã phóng <em>tàu con thoi</em> đầu tiên <em>Columbia</em> với hai nhà du hành vũ trụ J.Young và R.Crippen.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tàu con thoi là tàu vũ trụ đầu tiên có thể thu hồi và sử dụng lại cho các chuyến bay sau. Đó là con tàu hàng không vũ trụ thực sự, nặng hơn 2000 tấn, cất cánh như một tên lửa (thẳng đứng) và phần chính của nó (orbiter) là một loại máy có cánh tam giác, nặng khoảng 100 tấn, được đặt lên quỹ đạo ở một độ cao thấp (160 tới 1.100 km) quanh Trái Đất. Orbiter sau đó lượn trở về khí quyển để rồi hạ cánh xuống một đường băng như một chiếc máy bay. Tàu con thoi có thể chở 30 tấn và một đội bay từ 4 đến 7 phi công vũ trụ, trong đó có hai người lái.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau con tàu thứ nhất <em>Columbia</em> tháng 4-1983, con tàu thứ hai <em>Challengơ</em> đã được phóng lên, con tàu thứ ba <em>Discovery</em> và thứ tư <em>Atlantic</em> đã lần lượt bay vào vũ trụ các năm 1984 và 1985.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Năm 1988, Liên Xô đã thực hiện chuyến bay đầu tiên của tàu con thoi không người lái (tàu Buran) và hoàn toàn tự động hóa.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau Liên Xô và Mỹ, Pháp là cường quốc vũ trụ thứ ba, phóng một vệ tinh nhỏ “Astérix” nặng 38 kg bằng tên lửa “Diamant” vào ngày 26-11-1965 do Pháp chế tạo. Ngày 11-21970, Nhật Bản phóng vệ tinh “Ôxumi” nặng 22,5 kg bằng một tên lửa bốn tầng. Ngày 24-4-1970, Trung Quốc phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên nặng 173 kg, tiếp đó là các vệ tinh thứ 2 (31971), thứ 3 (7-1975) và thứ 4 (11-1975). Vệ tinh thứ tư này lần đầu tiên được thu hồi về Trái Đất (2-1-1975).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Các nước Anh, CHLB Đức, Canada, Italia, Ôxtrâylia, lần lượt phóng các vệ tinh bằng tên lửa tự chế tạo (Anh, CHLB Đức), hoặc bằng tên lửa của Mỹ (Canađa, Italia...). Ngày 19-41975, vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Ấn Độ “Ariabata” đã được phóng lên bằng tên lửa Liên Xô từ sân bay vũ trụ của Liên Xô. Vệ tinh này nặng 360 kg, phần lớn do Ấn Độ tự chế tạo. Sau này, người Ấn Độ đã tự sản xuất các vệ tinh cũng như các tên lửa tự phóng lên.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Một cuộc chạy đua vào vũ trụ đã diễn ra thật khẩn trương và nhộn nhịp. Theo tài liệu của Trung Quốc thì trong hơn 30 năm qua (tính đến 1991), 3824 vệ tinh đã được phóng lên. Trong đó, 2.461 vệ tinh là của Liên Xô (chiếm 65%), Mỹ - 1.120 vệ tinh (29%), các nước và các tổ chức khác - 236 vệ tinh (6%). Vệ tinh quân sự chiếm tỉ trọng rất lớn - 67%. Tuy nhiên, do tuổi thọ của chúng có hạn nên thực tế số vệ tinh làm việc trên quỹ đạo không nhiều như con số thống kê.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">C. Xiôncốpxki, người đặt nền móng cho ngành khoa học vũ trụ, đã viết: <em>“Trái Đất là cái nôi nuôi dưỡng con người. Nhưng cũng như đứa trẻ không thể sống mãi trong nôi, con người sẽ không mãi mãi dừng lại trên mặt đất mà sẽ từng bước chập chững đi xa dần Trái Đất, đi lên các hành tinh và xa hơn nữa vào khoảng không vũ trụ”.</em> Ước mơ của <em>“người thầy giáo xứ Caluga”</em> cách đây hơn nửa thế kỷ ngày nay đang trở thành hiện thực.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Mặt trăng là thiên thể ở gần trái đất nhất. Vì vậy ước mơ đầu tiên của con người là bay lên cung trăng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Biết bao truyền thuyết và tiểu thuyết ở phương Đông và phương Tây đều xoay quanh ước mơ ấy như “Đường Minh Hoàng du nguyệt điện gặp chị Hằng Nga xinh đẹp, xem điệu múa Nghê thường”, câu chuyện dân gian chú Cuội và chị Hằng Nga, hoặc cuốn <em>Con người trên Mặt Trăng</em>xuất bản năm 1638 ở Anh của Frăngxit Gốtuyn, rồi <em>Từ Trái Đất lên Mặt Trăng</em> và <em>Vòng quanh Mặt Trăng</em> của nhà văn viết truyện viễn tưởng nổi tiếng người Pháp Giuyn Vécnơ (1828-1905) được viết ra vào nửa sau thế kỷ XIX. Trong các tác phẩm để lại, G. Vécnơ đã tiên đoán được rất nhiều phát minh khoa học kỹ thuật của thế kỷ XX, từ chuyến bay đầu tiên của con người lên Mặt Trăng đến nhà chọc trời, tàu ngầm, điện thoại tự động, vô tuyến điện, vô tuyến truyền hình và cả lade nữa. Để đưa người lên Mặt Trăng, G. Vécnơ đã tưởng tượng cho họ ngồi vào đầu một viên đạn đặt trong nòng một khẩu đại bác khổng lồ mang tên “Côlumbiat” (và để kỷ niệm ý tưởng thiên tài này của G. Vécnơ gần 100 năm trước, năm 1969, con tàu đưa các nhà du hành vũ trụ Mỹ lần đầu tiên đổ bộ xuống Mặt Trăng đã được đặt tên là “Côlumbia”).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Hơn một năm sau ngày phóng vệ tinh nhân tạo của Trái Đất, ngày 2-1-1959, Liên Xô phóng trạm tự động đầu tiên về phía Mặt Trăng mang tên <em>Luna 1.</em> Trạm tự động <em>Luna 2</em> (tháng 4-1959) lần đầu tiên đặt quốc huy Liên Xô lên bề mặt Mặt Trăng và <em>Luna 3</em> (tháng 10-1959) đã lần đầu tiên chụp ảnh phía mặt khuất của Mặt Trăng và truyền về Trái Đất. Việc đổ bộ nhẹ xuống bề mặt Mặt Trăng là một vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp vì xung quanh Mặt Trăng không có khí quyển để giảm tốc độ như trong trường hợp các con tàu vũ trụ trở về Trái Đất. Sau bốn lần liên tiếp thất bại, tháng 2-1966, trạm tự động <em>Luna 9</em> đã lần đầu tiên thực hiện được việc đổ bộ nhẹ nhàng lên bề mặt Mặt Trăng, chụp quang cảnh Mặt Trăng và truyền ảnh về Trái Đất. Thành công của Luna 9 đã mở ra một giai đoạn mới trong công cuộc thám hiểm Mặt Trăng. Tháng 10-1970, trạm tự động <em>Luna 17</em> lần đầu tiên đặt lên Mặt Trăng chiếc xe tự hành tám bánh <em>Lunakhốt 1</em> nặng 756 kg. Theo sự điều khiển từ Trái Đất, chiếc xe đã đi lại, tiến hành nhiều cuộc khảo sát như chụp ảnh, lấy mẫu đất đá và phân tích ngay tại chỗ bằng máy móc, truyền kết quả về Trái Đất. Các trạm Luna sau này còn tiếp tục được phóng lên.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong khi đó, Mỹ đi theo một phương hướng khác: thực hiện kế hoạch <em>Apôlô</em> đưa người lên Mặt Trăng. Sau thất bại của cuộc thí nghiệm lần đầu phóng tàu <em>Apôlô I</em> (1967) ngày 20-7-1969, Mỹ phóng <em>Apôlô II,</em> lần đầu tiên đưa con người lên Mặt Trăng lấy mẫu đất đá và an toàn trở về Trái Đất. Với chuyến bay này, hai nhà du hành vũ trụ Mỹ N. Amstrong và E. Aldrin đã thực hiện được giấc mơ từ cổ xưa của loài người là đi bộ trên Mặt Trăng. Họ đã ở đó 21 giờ 36 phút.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong công cuộc thám hiểm các hành tinh, Liên Xô là nước đầu tiên phóng trạm tự động về phía sao Kim, sao Hỏa và cho đổ bộ nhẹ nhàng trạm tự động xuống các hành tinh này. <em>Trạm Sao Kim 3</em> lần đầu tiên đặt quốc huy Liên Xô lên bề mặt sao Kim vào ngày 1-3-1966.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tháng 5-1971, Mỹ phóng về phía sao Hỏa trạm tự động <em>Marine 9.</em> Tháng 3-1974, tàu thăm dò <em>Marine 10</em> của Mỹ đã bay ngang qua cách sao Thủy 1.000 km, đó là hành tinh gần Mặt Trời nhất. Mỹ cũng đã thực hiện thành công các chuyến bay lướt qua sao Mộc và sao Thổ, những hành tinh khổng lồ của hệ Mặt Trời (12-1973 và 12-1974).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tháng 8-1977, trạm thăm dò <em>Voyager 2</em> của Mỹ đã thực hiện chuyến bay dài ngày trong vũ trụ. Bốn cuộc gặp gỡ của nó với sao Mộc, sao Thổ, sao Thiên Vương và sao Hải Vương đã đem lại một khối lượng thông tin và ảnh chụp khiến người ta sửng sốt. Vượt chừng 6 tỉ kilômét, nó đã lướt qua sao Hải Vương và vệ tinh Triton của nó vào ngày 24-8-1989 rồi tiếp tục thám hiểm các vùng biên của hệ Mặt Trời và sẽ đi sâu mãi vào vũ trụ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Những thành tựu của khoa học vũ trụ ngày càng phục vụ đắc lực cho cuộc sống của con người trên hành tinh. Các vệ tinh nhân tạo đã giúp ích to lớn và có hiệu quả cho ngành khí tượng dự báo thời tiết dài ngày và chính xác hơn, cho việc truyền tin và truyền hình, sản xuất nông nghiệp, điều tra cơ bản và thăm dò tài nguyên cũng như lập bản đồ địa lý, địa chất và công tác trắc địa... Mặt khác, việc thám hiểm Mặt Trăng, các hành tinh và các vì sao đã làm phong phú thêm, sâu sắc thêm sự hiểu biết của con người về vũ trụ, đẩy mạnh hơn cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trên toàn thế giới. Cũng như nhiều ngành khoa học khác, khoa học vũ trụ trở thành một bộ phận không thể thiếu được của cách mạng khoa học - kỹ thuật và nền văn minh nhân loại thế kỷ XX.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">( Còn Tiếp </span></strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">)</span></span></p><p><span style="font-size: 18px"><span style="color: rgb(65, 168, 95)"><strong>Nguồn :</strong> Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục </span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 179980, member: 288054"] [SIZE=5][B]Công cuộc chinh phục vũ trụ[/B] Bay vào vũ trụ và thám hiểm mặt trăng cùng các hành tinh là ước mơ từ ngàn xưa của bao thế hệ loài người và cũng là bước tiến phi thường thể hiện rực rỡ trí tuệ con người trong nửa sau thế kỷ XX. Cái cản trở lớn nhất là sức hút của trái đất như một sức mạnh vô hình trói chặt con người và vạn vật vào đó. Người ta tính rằng một vật thể từ dưới đất phóng lên muốn thoát khỏi sức hút của trái đất, không rơi xuống nữa mà bay vòng tròn quanh trái đất phải đạt [I]tốc độ vũ trụ cấp 1[/I]bằng 7,92 km/giây, tức là gần 28.800 km/giờ. Nếu tốc độ tăng hơn 9 km/giây thì vật thể sẽ bay quanh trái đất theo hình elíp, tốc độ càng lớn thì hình elíp càng dẹt. Nếu tốc độ đạt đến 11,2 km/giây (tốc độ vũ trụ cấp 2) thì vật thể sẽ thoát hẳn sức hút trái đất, không bay quanh trái đất nữa nhưng sẽ bị mặt trời hút và trở thành một hành tinh nhân tạo của mặt trời. Nếu đạt đến tốc độ 16,5 km/giây thì không những thoát khỏi sức hút của trái đất mà còn thoát khỏi cả sức hút của mặt trời và đi tới các vì sao khác. Tốc độ này gọi là tốc độ vũ trụ cấp 3. Nhà bác học Nga Côngxtăngtin Xiôncốpxki (1857 - 1935), ông tổ của khoa học du hành vũ trụ Liên Xô và thế giới, là người đầu tiên đã đề ra ý niệm bay vào vũ trụ bằng tên lửa nhiều tầng. Trong tác phẩm kinh điên [I]Thám hiểm khoảng không vũ trụ bằng động cơ phản lực.[/I] C. Xiôncốpxki lần đầu tiên đề ra những công thức tính toán về tên lửa. Tháng 8-1933, Liên Xô đã thực hiện việc phóng tên lửa đầu tiên. Tên lửa nặng 19 kirôgam, dài 2,4 mét, sức đẩy 25 - 30 kg, bay lên cao 400 mét trong 18 giây. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, kỹ thuật tên lửa Liên Xô phát triển nhanh chóng, từ những tên lửa tầm vừa 3000 - 4000 km (tộc độ 4 - 5 km/giây) đến tên lửa vượt đại châu 10.000 - 15.000 km (tốc độ 7,2 - 7,6 km/giây). Nhờ sự phát triển nhanh chóng đó, ngày 4-10-1957, Liên Xô đã phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Trái Đất mang tên n[I]Xpútnhich[/I]n. Đó là một quả cầu thép nhẵn bóng đường kính 58 cm và nặng 83,5 kg. Sự kiện này đã mở đầu cho [I]kỷ nguyên vũ trụ.[/I] Vệ tinh được phóng lên bởi tên lửa A.I do Côlôrép chế tạo, bay quanh trái đất theo một quỹ đạo hình bầu dục, điểm thấp nhất cách mặt đất 227 km, điểm cao nhất cách 947 km, thời gian bay một vòng quanh Trái Đất hết 1 giờ 36 phút. Sau lần thất bại vào đầu năm 1957, ngày 1-2-1958, Mỹ phóng vệ tinh đầu tiên nặng 13,5 kg. Gần bốn năm sau, ngày 12-4-1961, Liên Xô đã phóng tàu vũ trụ [I]Phương Đông (Vostok) chở Iuri Gagarin,[/I] nhà du hành vũ trụ đầu tiên của thế giới. Nếu như chuyến bay một vòng quanh Trái Đất trong 108 phút của Iuri Gagarin có tính chất mở đường cho con người bay vào vũ trụ thì chuyến bay thứ hai 17 vòng mất 25 giờ 18 phút của [I]Gécman Titốp[/I] ngày 6-8-1961 chứng tỏ khả năng ăn, ngủ, hoạt động bình thường trong hơn một ngày của con người trong vũ trụ. Mười tháng sau khi Liên Xô phóng tàu Phương Đông I của Iuri Gagarin, ngày 20-2-1962, Mỹ phóng tàu vũ trụ đầu tiên mang tên [I]Sao Thủy[/I] chở [I]Giôn Grin,[/I] nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Hoa Kỳ. Tháng 6-1963, một chuyến bay sóng đôi được thực hiện giữa tàu Phương Đông 5 chở V. Bucốpxki và Phương Đông 6 chở [I]Valentina Têrescôva,[/I] nhà nữ du hành vũ trụ đầu tiên trên thế giới. Các con tàu vũ trụ Phương Đông là loại tàu chở một người, nặng khoảng 4,7 tấn, phóng bằng tên lửa có sức đẩy khoảng 500 tấn. Tàu vũ trụ chở một người mang tên “Sao Thủy” của Mỹ nặng khoảng 1,5 tấn, phóng bằng tên lửa có sức đẩy khoảng 135 tấn. Tháng 3-1965, Liên Xô bắt đầu phóng loại tàu vũ trụ mới mang tên [I]Rạng Đông[/I] nặng hơn 5 tấn, chở 2-3 người. Gần nửa năm sau, Mỹ phóng loại tàu [I]Jêmini[/I] chở 2 người, nặng khoảng gần 3 tấn. Trong hai năm 1965-1966, Mỹ đã phóng tất cả 13 tàu vũ trụ Jêmini. Trong 10 năm đầu của kỷ nguyên vũ trụ 1957-1967, có thể nói kế hoạch chinh phục vũ trụ của Liên Xô và Mỹ giống nhau và Liên Xô đã đi trước một bước. Sang năm 1967, hai nước bắt đầu thực hiện hai kế hoạch khác nhau. Liên Xô phóng các tàu vũ trụ n[I]Liên Hợp”[/I]nhằm tiến tới xây dựng các trạm quỹ đạo lớn có người điểu khiển, bay dài ngày quanh Trái Đất, và Mỹ tập trung cố gắng thực hiện kế hoạch [I]“Apollo”[/I] đưa con người lên mặt trăng. Ngày 12-4-1981, đúng 20 năm sau chuyến bay đầu tiên vào vũ trụ, cơ quan nghiên cứu hàng không và vũ trụ của Mỹ (NASA) đã phóng [I]tàu con thoi[/I] đầu tiên [I]Columbia[/I] với hai nhà du hành vũ trụ J.Young và R.Crippen. Tàu con thoi là tàu vũ trụ đầu tiên có thể thu hồi và sử dụng lại cho các chuyến bay sau. Đó là con tàu hàng không vũ trụ thực sự, nặng hơn 2000 tấn, cất cánh như một tên lửa (thẳng đứng) và phần chính của nó (orbiter) là một loại máy có cánh tam giác, nặng khoảng 100 tấn, được đặt lên quỹ đạo ở một độ cao thấp (160 tới 1.100 km) quanh Trái Đất. Orbiter sau đó lượn trở về khí quyển để rồi hạ cánh xuống một đường băng như một chiếc máy bay. Tàu con thoi có thể chở 30 tấn và một đội bay từ 4 đến 7 phi công vũ trụ, trong đó có hai người lái. Sau con tàu thứ nhất [I]Columbia[/I] tháng 4-1983, con tàu thứ hai [I]Challengơ[/I] đã được phóng lên, con tàu thứ ba [I]Discovery[/I] và thứ tư [I]Atlantic[/I] đã lần lượt bay vào vũ trụ các năm 1984 và 1985. Năm 1988, Liên Xô đã thực hiện chuyến bay đầu tiên của tàu con thoi không người lái (tàu Buran) và hoàn toàn tự động hóa. Sau Liên Xô và Mỹ, Pháp là cường quốc vũ trụ thứ ba, phóng một vệ tinh nhỏ “Astérix” nặng 38 kg bằng tên lửa “Diamant” vào ngày 26-11-1965 do Pháp chế tạo. Ngày 11-21970, Nhật Bản phóng vệ tinh “Ôxumi” nặng 22,5 kg bằng một tên lửa bốn tầng. Ngày 24-4-1970, Trung Quốc phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên nặng 173 kg, tiếp đó là các vệ tinh thứ 2 (31971), thứ 3 (7-1975) và thứ 4 (11-1975). Vệ tinh thứ tư này lần đầu tiên được thu hồi về Trái Đất (2-1-1975). Các nước Anh, CHLB Đức, Canada, Italia, Ôxtrâylia, lần lượt phóng các vệ tinh bằng tên lửa tự chế tạo (Anh, CHLB Đức), hoặc bằng tên lửa của Mỹ (Canađa, Italia...). Ngày 19-41975, vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Ấn Độ “Ariabata” đã được phóng lên bằng tên lửa Liên Xô từ sân bay vũ trụ của Liên Xô. Vệ tinh này nặng 360 kg, phần lớn do Ấn Độ tự chế tạo. Sau này, người Ấn Độ đã tự sản xuất các vệ tinh cũng như các tên lửa tự phóng lên. Một cuộc chạy đua vào vũ trụ đã diễn ra thật khẩn trương và nhộn nhịp. Theo tài liệu của Trung Quốc thì trong hơn 30 năm qua (tính đến 1991), 3824 vệ tinh đã được phóng lên. Trong đó, 2.461 vệ tinh là của Liên Xô (chiếm 65%), Mỹ - 1.120 vệ tinh (29%), các nước và các tổ chức khác - 236 vệ tinh (6%). Vệ tinh quân sự chiếm tỉ trọng rất lớn - 67%. Tuy nhiên, do tuổi thọ của chúng có hạn nên thực tế số vệ tinh làm việc trên quỹ đạo không nhiều như con số thống kê. C. Xiôncốpxki, người đặt nền móng cho ngành khoa học vũ trụ, đã viết: [I]“Trái Đất là cái nôi nuôi dưỡng con người. Nhưng cũng như đứa trẻ không thể sống mãi trong nôi, con người sẽ không mãi mãi dừng lại trên mặt đất mà sẽ từng bước chập chững đi xa dần Trái Đất, đi lên các hành tinh và xa hơn nữa vào khoảng không vũ trụ”.[/I] Ước mơ của [I]“người thầy giáo xứ Caluga”[/I] cách đây hơn nửa thế kỷ ngày nay đang trở thành hiện thực. Mặt trăng là thiên thể ở gần trái đất nhất. Vì vậy ước mơ đầu tiên của con người là bay lên cung trăng. Biết bao truyền thuyết và tiểu thuyết ở phương Đông và phương Tây đều xoay quanh ước mơ ấy như “Đường Minh Hoàng du nguyệt điện gặp chị Hằng Nga xinh đẹp, xem điệu múa Nghê thường”, câu chuyện dân gian chú Cuội và chị Hằng Nga, hoặc cuốn [I]Con người trên Mặt Trăng[/I]xuất bản năm 1638 ở Anh của Frăngxit Gốtuyn, rồi [I]Từ Trái Đất lên Mặt Trăng[/I] và [I]Vòng quanh Mặt Trăng[/I] của nhà văn viết truyện viễn tưởng nổi tiếng người Pháp Giuyn Vécnơ (1828-1905) được viết ra vào nửa sau thế kỷ XIX. Trong các tác phẩm để lại, G. Vécnơ đã tiên đoán được rất nhiều phát minh khoa học kỹ thuật của thế kỷ XX, từ chuyến bay đầu tiên của con người lên Mặt Trăng đến nhà chọc trời, tàu ngầm, điện thoại tự động, vô tuyến điện, vô tuyến truyền hình và cả lade nữa. Để đưa người lên Mặt Trăng, G. Vécnơ đã tưởng tượng cho họ ngồi vào đầu một viên đạn đặt trong nòng một khẩu đại bác khổng lồ mang tên “Côlumbiat” (và để kỷ niệm ý tưởng thiên tài này của G. Vécnơ gần 100 năm trước, năm 1969, con tàu đưa các nhà du hành vũ trụ Mỹ lần đầu tiên đổ bộ xuống Mặt Trăng đã được đặt tên là “Côlumbia”). Hơn một năm sau ngày phóng vệ tinh nhân tạo của Trái Đất, ngày 2-1-1959, Liên Xô phóng trạm tự động đầu tiên về phía Mặt Trăng mang tên [I]Luna 1.[/I] Trạm tự động [I]Luna 2[/I] (tháng 4-1959) lần đầu tiên đặt quốc huy Liên Xô lên bề mặt Mặt Trăng và [I]Luna 3[/I] (tháng 10-1959) đã lần đầu tiên chụp ảnh phía mặt khuất của Mặt Trăng và truyền về Trái Đất. Việc đổ bộ nhẹ xuống bề mặt Mặt Trăng là một vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp vì xung quanh Mặt Trăng không có khí quyển để giảm tốc độ như trong trường hợp các con tàu vũ trụ trở về Trái Đất. Sau bốn lần liên tiếp thất bại, tháng 2-1966, trạm tự động [I]Luna 9[/I] đã lần đầu tiên thực hiện được việc đổ bộ nhẹ nhàng lên bề mặt Mặt Trăng, chụp quang cảnh Mặt Trăng và truyền ảnh về Trái Đất. Thành công của Luna 9 đã mở ra một giai đoạn mới trong công cuộc thám hiểm Mặt Trăng. Tháng 10-1970, trạm tự động [I]Luna 17[/I] lần đầu tiên đặt lên Mặt Trăng chiếc xe tự hành tám bánh [I]Lunakhốt 1[/I] nặng 756 kg. Theo sự điều khiển từ Trái Đất, chiếc xe đã đi lại, tiến hành nhiều cuộc khảo sát như chụp ảnh, lấy mẫu đất đá và phân tích ngay tại chỗ bằng máy móc, truyền kết quả về Trái Đất. Các trạm Luna sau này còn tiếp tục được phóng lên. Trong khi đó, Mỹ đi theo một phương hướng khác: thực hiện kế hoạch [I]Apôlô[/I] đưa người lên Mặt Trăng. Sau thất bại của cuộc thí nghiệm lần đầu phóng tàu [I]Apôlô I[/I] (1967) ngày 20-7-1969, Mỹ phóng [I]Apôlô II,[/I] lần đầu tiên đưa con người lên Mặt Trăng lấy mẫu đất đá và an toàn trở về Trái Đất. Với chuyến bay này, hai nhà du hành vũ trụ Mỹ N. Amstrong và E. Aldrin đã thực hiện được giấc mơ từ cổ xưa của loài người là đi bộ trên Mặt Trăng. Họ đã ở đó 21 giờ 36 phút. Trong công cuộc thám hiểm các hành tinh, Liên Xô là nước đầu tiên phóng trạm tự động về phía sao Kim, sao Hỏa và cho đổ bộ nhẹ nhàng trạm tự động xuống các hành tinh này. [I]Trạm Sao Kim 3[/I] lần đầu tiên đặt quốc huy Liên Xô lên bề mặt sao Kim vào ngày 1-3-1966. Tháng 5-1971, Mỹ phóng về phía sao Hỏa trạm tự động [I]Marine 9.[/I] Tháng 3-1974, tàu thăm dò [I]Marine 10[/I] của Mỹ đã bay ngang qua cách sao Thủy 1.000 km, đó là hành tinh gần Mặt Trời nhất. Mỹ cũng đã thực hiện thành công các chuyến bay lướt qua sao Mộc và sao Thổ, những hành tinh khổng lồ của hệ Mặt Trời (12-1973 và 12-1974). Tháng 8-1977, trạm thăm dò [I]Voyager 2[/I] của Mỹ đã thực hiện chuyến bay dài ngày trong vũ trụ. Bốn cuộc gặp gỡ của nó với sao Mộc, sao Thổ, sao Thiên Vương và sao Hải Vương đã đem lại một khối lượng thông tin và ảnh chụp khiến người ta sửng sốt. Vượt chừng 6 tỉ kilômét, nó đã lướt qua sao Hải Vương và vệ tinh Triton của nó vào ngày 24-8-1989 rồi tiếp tục thám hiểm các vùng biên của hệ Mặt Trời và sẽ đi sâu mãi vào vũ trụ. Những thành tựu của khoa học vũ trụ ngày càng phục vụ đắc lực cho cuộc sống của con người trên hành tinh. Các vệ tinh nhân tạo đã giúp ích to lớn và có hiệu quả cho ngành khí tượng dự báo thời tiết dài ngày và chính xác hơn, cho việc truyền tin và truyền hình, sản xuất nông nghiệp, điều tra cơ bản và thăm dò tài nguyên cũng như lập bản đồ địa lý, địa chất và công tác trắc địa... Mặt khác, việc thám hiểm Mặt Trăng, các hành tinh và các vì sao đã làm phong phú thêm, sâu sắc thêm sự hiểu biết của con người về vũ trụ, đẩy mạnh hơn cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trên toàn thế giới. Cũng như nhiều ngành khoa học khác, khoa học vũ trụ trở thành một bộ phận không thể thiếu được của cách mạng khoa học - kỹ thuật và nền văn minh nhân loại thế kỷ XX. [B][COLOR=rgb(65, 168, 95)]( Còn Tiếp [/COLOR][/B][COLOR=rgb(65, 168, 95)]) [B]Nguồn :[/B] Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục [/COLOR][/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Văn minh thế giới nửa sau thể kỉ XX
Top