Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Văn minh thế giới nửa sau thể kỉ XX
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 179979" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 18px"><strong>Những thành tựu khoa học - công nghệ</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"><a href="https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/" target="_blank">Cuộc cách mạng công nghệ</a> đã đưa lại sự phát triển phi thường trong sản xuất và đời sống. Bên cạnh những thành tựu to lớn của nhiều ngành khoa học, sự xuất hiện máy tính điện tử với các thế hệ nối tiếp nhau đã tạo ra các xu thế, các quan hệ hoàn toàn mới lạ trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Khác hẳn với những máy móc ở thời đại công nghiệp truyền thống làm việc với nguyên liệu, máy tính điện tử làm việc với các tín hiệu gọi là thông tin. Dựa trên công nghệ vi điện tử, máy tính điện tử đóng vai trò cốt lõi của một ngành mới là <em>tin học</em> - ngành xử lý thông tin một cách tự động.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Kể từ chiếc máy tính điện tử đầu tiên ra đời vào năm 1946, cho tới nay máy tính điện tử đã trải qua bốn thế hệ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ở thế hệ thứ nhất từ năm 1950 đến 1960, cấu trúc <em>đèn điện tử chân không,</em> tiêu tốn nhiều năng lượng, kích thước khổng lồ mà tốc độ tính toán chậm (vạn phép tính/giây). Thập niên 60, công nghệ <em>bán dẫn</em> (transitor) đã đưa máy tính điện tử sang thế hệ thứ hai, giảm năng lượng tiêu thụ, gọn nhẹ, dung tích bộ nhớ tăng cùng với sự tăng tốc độ tính toán (triệu phép tính/giây). Linh kiện bán dẫn là một linh kiện điện tử rất nhỏ, hoạt động theo nguyên lý đập nhịp “có, không” và rất quan trọng là tương tự với tư duy lôgich sơ đẳng của bộ não người là đồng ý hay phản đối. Tiếp theo vào đầu thập niên 70, ngành công nghiệp điện tử đã có một bước tiến phi thường khi chế tạo các <em>vi mạch,</em> còn gọi là <em>mạch tích hợp</em> (IC - Integrated Circuit) thuộc các bộ vi xử lý (MP - microprocessor). Trên một diện tích cỡ vài chục xăngtimét vuông của miếng vi mạch chứa đựng được hàng trăm ngàn linh kiện bán dẫn và tạo ra khả năng xử lý thông tin một cách tự động. Các bộ vi xử lý được ghép nối thành các máy vi tính, để trên bàn làm việc, xách tay... đưa máy tính điện tử vào thế hệ thứ ba. Cuối thập niên 70, máy tính điện tử thế hệ thứ tư, đó là những loại có <em>cấu kiện vi mạch với độ tích hợp</em> rất cao, hàng triệu linh kiện bán dẫn điện trên một diện tích vài xăngtimét vuông.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Các máy tính điện tử đến thế hệ thứ tư đều giúp con người chủ yếu trong lĩnh vực tính toán, xử lý thông tin. Gần đây, những thiết kế các loại máy tính điện tử thế hệ thứ năm muốn làm nên một cuộc biến động lớn, giúp con người trong suy luận thông minh, và máy tính điện tử thế hệ thứ sáu sẽ giúp con người trong sáng tạo.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Với ý nghĩa lớn lao và sâu sắc của máy tính điện tử hỗ trợ con người lao động trí tuệ, một kỷ nguyên mới đã được mở ra. Ở đó tri thức trở thành nguồn lực cho phát triển.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tác giả của thuyết <em>“</em><a href="https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-hien-dai-nam-1917-nay.111/" target="_blank"><em>Ba làn sóng của văn minh nhân loại”</em></a> Anvin Tôphơle đã viết về máy tính điện tử. Đó “là một trong những thành tựu kỳ diệu nhất của con người, vì chúng nâng cao sức mạnh trí óc như công nghệ. Làn sóng thứ hai đã làm tăng sức mạnh cơ bắp của chúng ta, và chúng ta không biết trí óc của chúng ta sẽ đưa chúng ta đến đâu... Máy tính sẽ giúp chúng ta suy nghĩ sâu hơn về chúng ta và về thế giới”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Một thành tựu rực rỡ của công nghệ điện tử là sự ra đời của người máy (rôbôt), nó chứa đựng cả hai ưu điểm của tự động hóa: giúp con người về lao động cơ bắp và về trí tuệ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Rôbôt đầu tiên được chế tạo tại Mỹ vào năm 1961 với chức năng như “một nhân công đơn giản bằng thép”. Qua thời gian nhờ các bộ vi xử lý, rôbôt thực hiện được những động tác phức tạp, có thể hàn, sơn, tự động và chuyển dần đến dạng thông minh biết đánh cờ, chơi âm nhạc, nhận biết và phản ứng với môi trường. Sức lao động con người ngày càng đắt giá, rôbôt ngày càng phát triển và sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như quản lý, sản xuất, kể cả công nghệ chế tạo đòi hỏi chính xác (lắp ráp linh kiện điện tử), những nơi lao động nặng nhọc nguy hiểm như trong hầm mỏ, trong lò phản ứng hạt nhân...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Một đặc trưng quan trọng của sự phát triển kinh tế được biểu hiện thông qua các vật liệu sử dụng, coi đó là <a href="https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-can-dai-giua-the-ky-xvi-nam-1917.110/" target="_blank"><em>nền văn minh vật liệu</em></a><em>.</em> Qua các thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, con người đã từ cuộc sống mông muội đến những xã hội của tiện nghi sang trọng. Giữa công nghệ cao cấp (như vi điện tử) và vật liệu (như các loại vật liệu siêu sạch, siêu cứng, siêu bền, siêu dẫn...) có quan hệ chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau. Ngày nay, <em>vật liệu mới</em> được tạo nên theo hai tuyến: kim loại và phi kim loại. Theo hướng phi kim loại vật liệu mới dựa trên các tổ hợp vật liệu phi kim loại mới như gốm, sợi thủy tinh... với các tính chất vật lý mới đang đem lại nhiều triển vọng rực rỡ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong thập niên 80, loài người lại được tiếp nhận một công nghệ cao cấp rất hiệu quả là tia lade (laser - khuyếch đại ánh sáng bằng bức xạ cưỡng bức). Đó là một chùm ánh sáng có tần số rất cao, độ hội tụ và công suất cực lớn. Công nghệ lade ra đời chưa lâu nhưng được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực như giải phẫu, cắt và tiện kim loại, trắc địa, quân sự...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong công nghệ thông tin, tia lade phối hợp với vật liệu sợi thủy tinh đã mở ra những chân trời mới của ngành viễn thông - quang điện tử.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Vật liệu sợi thủy tinh được chế tạo thành những cáp quang có tên <em>cáp sợi thủy tinh quang dẫn</em>được cấu trúc bởi hai loại thủy tinh có chiết suất khác nhau, loại chiết suất thấp bọc ngoài tia lade khi đi trong cáp không bị khuyếch tán ra môi trường xung quanh, nhờ vậy tổn hao thấp. Tín hiệu truyền được xa mà không cần trạm tiếp vận, do trọng lượng nhẹ, cỡ nhỏ nên một sợi thủy tinh có thể thay thế hàng trăm sợi dây đồng. Ngoài ra cáp quang còn không bị nhiễm bởi điện từ trường. Như thế đã xuất hiện một phương tiện viễn thông tuyệt hảo. Đó là những cáp chứa nhiều sợi thủy tinh nhỏ như sợi tóc, dùng tia sáng lade chạy qua trong dạng “lóe sáng - tắt” để truyền âm thanh, hình ảnh, số liệu, chữ viết... với khối lượng thông tin gấp hàng trăm lần so với việc truyền bằng sóng điện trong dây đồng thường dùng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Lần đầu tiên trên thế giới, ngày 14-12-1988 đường cáp quang khổng lồ xuyên dưới đáy Đại Tây Dương nối liền nước Mỹ với châu Âu đã chuyển cùng lúc 40 ngàn cuộc đàm thoại. Sau đó, tháng 9-1989, tuyến cáp quang lớn thứ hai đã được rải dưới đáy Thái Bình Dương dài 16.000 kilômet nối liền nước Mỹ với Nhật Bản. Tiếp đó, nhiều dự án lớn có tính toàn cầu về cáp quang đã được đề ra dài mấy chục triệu kilômet qua nhiều đại dương nối Bắc Mỹ - châu Âu, châu Đại Dương, châu Á trong đó có cả Việt Nam. Với thiết bị Fax (máy sao chụp viễn thông) các bên đối tác xa cách nhau hàng vạn kilômet có thể cùng soạn văn bản, ký kết hợp đồng trong “tức khắc”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Công nghệ sinh học</em> trong vài thập niên gần đây đã có những đột phá phi thường. Bước ngoặt quyết định là vào năm 1973 khi thế giới chứng kiến sự ra đời của <em>công nghệ di truyền,</em> bởi nó chứa đựng một hàm ý lớn lao là con người có khả năng can thiệp vào thiên chức của tạo hóa. Với những thành tựu trong nông nghiệp và y học, công nghệ sinh học chắc chắn sẽ đem lại những cân bằng lương thực mới cho hành tinh và nhiều hỗ trợ đắc lực về sức khỏe cơ thể con người. Sinh học từ một khoa học “quan sát” đã trở thành một khoa học “hành động”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Mục tiêu chủ yếu của công nghệ sinh học là sử dụng các đối tượng như vi sinh vật, virút, tế bào động - thực vật để thu được các sản phẩm hữu ích cho con người thông qua các quá trình công nghệ. Công nghệ sinh học tập trung vào bốn lĩnh vực: công nghệ gien, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh và công nghệ enzim.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Công nghệ gien</em> đồng nghĩa với công nghệ di truyền. Các nhà sinh học đã phát hiện rằng mọi thông tin di truyền về hình dáng, tính chất của cơ thể được ghi lại trong phân tử một loại axít có tên là ADN (axit đêzôxiribônuclêic). <em>Gien</em> là một phân đoạn của ADN. Bản chất của <em>công nghệ gien</em> là thiết kế các phân tử ADN trong ống nghiệm, còn gọi là tái tổ hợp ADN, sau đó đưa chúng vào cơ thể sống của động vật hoặc thực vật. Công nghệ tái tổ hợp ADN này nhằm đưa gien mới vào, có thể sử dụng cả gien lạ về mặt sinh vật để biến đổi gien hiện có, nhằm sáng tạo ra những sinh vật mới. Nhờ công nghệ gien, nhiều chất vắcxin chữa bệnh hiểm nghèo đã được chế tạo, chẩn đoán được bệnh trước khi đứa trẻ ra đời... Công nghệ gien chính là nền móng cho cuộc cách mạng sinh học sắp xảy ra, cung cấp những hiểu biết sâu sắc, mới lạ về bản chất di truyền, tiến hóa của loài, của thế giới động - thực vật.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Công nghệ tế bào</em> đã đi đến những kết quả lớn trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi. Việc nuôi cấy mô và tế bào thực vật đã tạo ra khả năng nhân nhanh và phục tráng cây trồng. Từ những <em>lát mô</em> trong phòng thí nghiệm đã thu được hàng triệu cây con hàng năm, đã tạo được những loài cây sạch bệnh, các giống cây lai tạo với chất lượng đặc biệt và năng suất cao. Trong chăn nuôi, việc chuyển phôi (trứng đã thụ tinh) của một bò cái có nhiều điểm ưu việt về thịt và sữa sang các bò cái khác mang thai hộ đã tạo nên khả năng một con bò sinh được 20 - 40 bê con, mà trước đây chỉ được 3 - 4 con. Ngay cả với người, cũng đã có khả năng đặt phôi của một người phụ nữ vào bụng người mẹ khác và xuất hiện “dịch vụ đẻ thuê” ở một số nước.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Công nghệ vi sinh</em> hiện nay tập trung vào sử dụng các vi sinh vật để sản xuất những chất vitamin, prôtêin hoặc kháng sinh diệt cỏ, chống ung thư... chế ra thuốc diệt sâu bệnh không mang độc tố cho người, lên men các chất phế thải của đô thị, nông thôn góp phần đắc lực cho vệ sinh môi trường.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Công nghệ enzim</em> nhằm tạo nên các chất xúc tác sinh học tên là <em>enzim</em> có hoạt tính mạnh gấp hàng vạn, gấp triệu lần so với các xúc tác vô cơ đã tồn tại trong công nghiệp hóa học. Enzim có rất nhiều ứng dụng trong đời sống, enzim từ quả đu đủ dùng làm mềm thịt, để thuộc da; enzim dùng trong tổng hợp hữu cơ; trong công nghiệp thực phẩm dược liệu...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Cùng với những hướng trên, gần đây trong công nghiệp sinh học nở rộ những nghiên cứu về <em>nơrôn</em> (tế bào thần kinh) và não ở những sinh vật có tổ chức cao cấp như loài người thì gien và nơrôn là hai yếu tố chủ đạo chịu trách nhiệm hầu hết về các đặc điểm. Bản chất cuộc đối thoại giữa gien và nơrôn là vấn đề trung tâm của sinh học.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Công nghệ sinh học mang nhiều hi vọng cho con người, nhưng đồng thời cũng chứa đựng những khía cạnh lo ngại về sinh thái, đạo đức - nhân văn và pháp luật, đòi hỏi chính con người phải giải quyết (như thiên nhiên bị biến dạng theo thiết kế của con người, sinh vật được cấu tạo lại có thể làm hại môi trường và phá vỡ sinh thái, lập trình gây ung thư bằng di truyền của một kẻ ác nào đó...).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như thế, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật mà gần đây còn gọi là cách mạng khoa học - công nghệ đã thu được những thành tựu kỳ diệu theo hướng ngày càng hoàn thiện từ cơ khí, điện khí đến điện tử học vi mô, sinh học; từ loại hình tiêu tốn nhiều năng lượng đến dạng tự động hoá xử lý thông tin; từ nền công nghiệp của những ống khói nhà máy đến nền kinh tế “mềm” nhiều yếu tố dịch vụ - tượng trưng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã làm tăng của cải xã hội và làm cho cuộc sống con người ngày càng văn minh hơn. Đời sống xã hội có những thay đổi to lớn và hầu như trên mọi mặt từ kinh tế - sản xuất, chính trị - quyền lực và cơ cấu lao động xã hội.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhưng mặt khác, từ xã hội công nghiệp hiện đại, nhân loại phải đối mặt với những vấn đề toàn cầu nóng bỏng như nguy cơ hạt nhân, ô nhiễm môi trường, sự xuống cấp của sinh thái hành tinh, tình trạng bạo lực - khủng bố, nạn ma tuý, bệnh AIDS, sự bùng nổ dân số và sự nghèo khổ của nhiều khu vực chậm phát triển, sự phân phối không đều về lương thực, thực phẩm và của cải...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">( Còn Tiếp </span></strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">)</span></span></p><p><span style="color: rgb(65, 168, 95)"><span style="font-size: 18px"><strong>Nguồn :</strong> Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục</span> </span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 179979, member: 288054"] [SIZE=5][B]Những thành tựu khoa học - công nghệ[/B] [URL='https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/']Cuộc cách mạng công nghệ[/URL] đã đưa lại sự phát triển phi thường trong sản xuất và đời sống. Bên cạnh những thành tựu to lớn của nhiều ngành khoa học, sự xuất hiện máy tính điện tử với các thế hệ nối tiếp nhau đã tạo ra các xu thế, các quan hệ hoàn toàn mới lạ trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Khác hẳn với những máy móc ở thời đại công nghiệp truyền thống làm việc với nguyên liệu, máy tính điện tử làm việc với các tín hiệu gọi là thông tin. Dựa trên công nghệ vi điện tử, máy tính điện tử đóng vai trò cốt lõi của một ngành mới là [I]tin học[/I] - ngành xử lý thông tin một cách tự động. Kể từ chiếc máy tính điện tử đầu tiên ra đời vào năm 1946, cho tới nay máy tính điện tử đã trải qua bốn thế hệ. Ở thế hệ thứ nhất từ năm 1950 đến 1960, cấu trúc [I]đèn điện tử chân không,[/I] tiêu tốn nhiều năng lượng, kích thước khổng lồ mà tốc độ tính toán chậm (vạn phép tính/giây). Thập niên 60, công nghệ [I]bán dẫn[/I] (transitor) đã đưa máy tính điện tử sang thế hệ thứ hai, giảm năng lượng tiêu thụ, gọn nhẹ, dung tích bộ nhớ tăng cùng với sự tăng tốc độ tính toán (triệu phép tính/giây). Linh kiện bán dẫn là một linh kiện điện tử rất nhỏ, hoạt động theo nguyên lý đập nhịp “có, không” và rất quan trọng là tương tự với tư duy lôgich sơ đẳng của bộ não người là đồng ý hay phản đối. Tiếp theo vào đầu thập niên 70, ngành công nghiệp điện tử đã có một bước tiến phi thường khi chế tạo các [I]vi mạch,[/I] còn gọi là [I]mạch tích hợp[/I] (IC - Integrated Circuit) thuộc các bộ vi xử lý (MP - microprocessor). Trên một diện tích cỡ vài chục xăngtimét vuông của miếng vi mạch chứa đựng được hàng trăm ngàn linh kiện bán dẫn và tạo ra khả năng xử lý thông tin một cách tự động. Các bộ vi xử lý được ghép nối thành các máy vi tính, để trên bàn làm việc, xách tay... đưa máy tính điện tử vào thế hệ thứ ba. Cuối thập niên 70, máy tính điện tử thế hệ thứ tư, đó là những loại có [I]cấu kiện vi mạch với độ tích hợp[/I] rất cao, hàng triệu linh kiện bán dẫn điện trên một diện tích vài xăngtimét vuông. Các máy tính điện tử đến thế hệ thứ tư đều giúp con người chủ yếu trong lĩnh vực tính toán, xử lý thông tin. Gần đây, những thiết kế các loại máy tính điện tử thế hệ thứ năm muốn làm nên một cuộc biến động lớn, giúp con người trong suy luận thông minh, và máy tính điện tử thế hệ thứ sáu sẽ giúp con người trong sáng tạo. Với ý nghĩa lớn lao và sâu sắc của máy tính điện tử hỗ trợ con người lao động trí tuệ, một kỷ nguyên mới đã được mở ra. Ở đó tri thức trở thành nguồn lực cho phát triển. Tác giả của thuyết [I]“[/I][URL='https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-hien-dai-nam-1917-nay.111/'][I]Ba làn sóng của văn minh nhân loại”[/I][/URL] Anvin Tôphơle đã viết về máy tính điện tử. Đó “là một trong những thành tựu kỳ diệu nhất của con người, vì chúng nâng cao sức mạnh trí óc như công nghệ. Làn sóng thứ hai đã làm tăng sức mạnh cơ bắp của chúng ta, và chúng ta không biết trí óc của chúng ta sẽ đưa chúng ta đến đâu... Máy tính sẽ giúp chúng ta suy nghĩ sâu hơn về chúng ta và về thế giới”. Một thành tựu rực rỡ của công nghệ điện tử là sự ra đời của người máy (rôbôt), nó chứa đựng cả hai ưu điểm của tự động hóa: giúp con người về lao động cơ bắp và về trí tuệ. Rôbôt đầu tiên được chế tạo tại Mỹ vào năm 1961 với chức năng như “một nhân công đơn giản bằng thép”. Qua thời gian nhờ các bộ vi xử lý, rôbôt thực hiện được những động tác phức tạp, có thể hàn, sơn, tự động và chuyển dần đến dạng thông minh biết đánh cờ, chơi âm nhạc, nhận biết và phản ứng với môi trường. Sức lao động con người ngày càng đắt giá, rôbôt ngày càng phát triển và sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như quản lý, sản xuất, kể cả công nghệ chế tạo đòi hỏi chính xác (lắp ráp linh kiện điện tử), những nơi lao động nặng nhọc nguy hiểm như trong hầm mỏ, trong lò phản ứng hạt nhân... Một đặc trưng quan trọng của sự phát triển kinh tế được biểu hiện thông qua các vật liệu sử dụng, coi đó là [URL='https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-can-dai-giua-the-ky-xvi-nam-1917.110/'][I]nền văn minh vật liệu[/I][/URL][I].[/I] Qua các thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, con người đã từ cuộc sống mông muội đến những xã hội của tiện nghi sang trọng. Giữa công nghệ cao cấp (như vi điện tử) và vật liệu (như các loại vật liệu siêu sạch, siêu cứng, siêu bền, siêu dẫn...) có quan hệ chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau. Ngày nay, [I]vật liệu mới[/I] được tạo nên theo hai tuyến: kim loại và phi kim loại. Theo hướng phi kim loại vật liệu mới dựa trên các tổ hợp vật liệu phi kim loại mới như gốm, sợi thủy tinh... với các tính chất vật lý mới đang đem lại nhiều triển vọng rực rỡ. Trong thập niên 80, loài người lại được tiếp nhận một công nghệ cao cấp rất hiệu quả là tia lade (laser - khuyếch đại ánh sáng bằng bức xạ cưỡng bức). Đó là một chùm ánh sáng có tần số rất cao, độ hội tụ và công suất cực lớn. Công nghệ lade ra đời chưa lâu nhưng được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực như giải phẫu, cắt và tiện kim loại, trắc địa, quân sự... Trong công nghệ thông tin, tia lade phối hợp với vật liệu sợi thủy tinh đã mở ra những chân trời mới của ngành viễn thông - quang điện tử. Vật liệu sợi thủy tinh được chế tạo thành những cáp quang có tên [I]cáp sợi thủy tinh quang dẫn[/I]được cấu trúc bởi hai loại thủy tinh có chiết suất khác nhau, loại chiết suất thấp bọc ngoài tia lade khi đi trong cáp không bị khuyếch tán ra môi trường xung quanh, nhờ vậy tổn hao thấp. Tín hiệu truyền được xa mà không cần trạm tiếp vận, do trọng lượng nhẹ, cỡ nhỏ nên một sợi thủy tinh có thể thay thế hàng trăm sợi dây đồng. Ngoài ra cáp quang còn không bị nhiễm bởi điện từ trường. Như thế đã xuất hiện một phương tiện viễn thông tuyệt hảo. Đó là những cáp chứa nhiều sợi thủy tinh nhỏ như sợi tóc, dùng tia sáng lade chạy qua trong dạng “lóe sáng - tắt” để truyền âm thanh, hình ảnh, số liệu, chữ viết... với khối lượng thông tin gấp hàng trăm lần so với việc truyền bằng sóng điện trong dây đồng thường dùng. Lần đầu tiên trên thế giới, ngày 14-12-1988 đường cáp quang khổng lồ xuyên dưới đáy Đại Tây Dương nối liền nước Mỹ với châu Âu đã chuyển cùng lúc 40 ngàn cuộc đàm thoại. Sau đó, tháng 9-1989, tuyến cáp quang lớn thứ hai đã được rải dưới đáy Thái Bình Dương dài 16.000 kilômet nối liền nước Mỹ với Nhật Bản. Tiếp đó, nhiều dự án lớn có tính toàn cầu về cáp quang đã được đề ra dài mấy chục triệu kilômet qua nhiều đại dương nối Bắc Mỹ - châu Âu, châu Đại Dương, châu Á trong đó có cả Việt Nam. Với thiết bị Fax (máy sao chụp viễn thông) các bên đối tác xa cách nhau hàng vạn kilômet có thể cùng soạn văn bản, ký kết hợp đồng trong “tức khắc”. [I]Công nghệ sinh học[/I] trong vài thập niên gần đây đã có những đột phá phi thường. Bước ngoặt quyết định là vào năm 1973 khi thế giới chứng kiến sự ra đời của [I]công nghệ di truyền,[/I] bởi nó chứa đựng một hàm ý lớn lao là con người có khả năng can thiệp vào thiên chức của tạo hóa. Với những thành tựu trong nông nghiệp và y học, công nghệ sinh học chắc chắn sẽ đem lại những cân bằng lương thực mới cho hành tinh và nhiều hỗ trợ đắc lực về sức khỏe cơ thể con người. Sinh học từ một khoa học “quan sát” đã trở thành một khoa học “hành động”. Mục tiêu chủ yếu của công nghệ sinh học là sử dụng các đối tượng như vi sinh vật, virút, tế bào động - thực vật để thu được các sản phẩm hữu ích cho con người thông qua các quá trình công nghệ. Công nghệ sinh học tập trung vào bốn lĩnh vực: công nghệ gien, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh và công nghệ enzim. [I]Công nghệ gien[/I] đồng nghĩa với công nghệ di truyền. Các nhà sinh học đã phát hiện rằng mọi thông tin di truyền về hình dáng, tính chất của cơ thể được ghi lại trong phân tử một loại axít có tên là ADN (axit đêzôxiribônuclêic). [I]Gien[/I] là một phân đoạn của ADN. Bản chất của [I]công nghệ gien[/I] là thiết kế các phân tử ADN trong ống nghiệm, còn gọi là tái tổ hợp ADN, sau đó đưa chúng vào cơ thể sống của động vật hoặc thực vật. Công nghệ tái tổ hợp ADN này nhằm đưa gien mới vào, có thể sử dụng cả gien lạ về mặt sinh vật để biến đổi gien hiện có, nhằm sáng tạo ra những sinh vật mới. Nhờ công nghệ gien, nhiều chất vắcxin chữa bệnh hiểm nghèo đã được chế tạo, chẩn đoán được bệnh trước khi đứa trẻ ra đời... Công nghệ gien chính là nền móng cho cuộc cách mạng sinh học sắp xảy ra, cung cấp những hiểu biết sâu sắc, mới lạ về bản chất di truyền, tiến hóa của loài, của thế giới động - thực vật. [I]Công nghệ tế bào[/I] đã đi đến những kết quả lớn trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi. Việc nuôi cấy mô và tế bào thực vật đã tạo ra khả năng nhân nhanh và phục tráng cây trồng. Từ những [I]lát mô[/I] trong phòng thí nghiệm đã thu được hàng triệu cây con hàng năm, đã tạo được những loài cây sạch bệnh, các giống cây lai tạo với chất lượng đặc biệt và năng suất cao. Trong chăn nuôi, việc chuyển phôi (trứng đã thụ tinh) của một bò cái có nhiều điểm ưu việt về thịt và sữa sang các bò cái khác mang thai hộ đã tạo nên khả năng một con bò sinh được 20 - 40 bê con, mà trước đây chỉ được 3 - 4 con. Ngay cả với người, cũng đã có khả năng đặt phôi của một người phụ nữ vào bụng người mẹ khác và xuất hiện “dịch vụ đẻ thuê” ở một số nước. [I]Công nghệ vi sinh[/I] hiện nay tập trung vào sử dụng các vi sinh vật để sản xuất những chất vitamin, prôtêin hoặc kháng sinh diệt cỏ, chống ung thư... chế ra thuốc diệt sâu bệnh không mang độc tố cho người, lên men các chất phế thải của đô thị, nông thôn góp phần đắc lực cho vệ sinh môi trường. [I]Công nghệ enzim[/I] nhằm tạo nên các chất xúc tác sinh học tên là [I]enzim[/I] có hoạt tính mạnh gấp hàng vạn, gấp triệu lần so với các xúc tác vô cơ đã tồn tại trong công nghiệp hóa học. Enzim có rất nhiều ứng dụng trong đời sống, enzim từ quả đu đủ dùng làm mềm thịt, để thuộc da; enzim dùng trong tổng hợp hữu cơ; trong công nghiệp thực phẩm dược liệu... Cùng với những hướng trên, gần đây trong công nghiệp sinh học nở rộ những nghiên cứu về [I]nơrôn[/I] (tế bào thần kinh) và não ở những sinh vật có tổ chức cao cấp như loài người thì gien và nơrôn là hai yếu tố chủ đạo chịu trách nhiệm hầu hết về các đặc điểm. Bản chất cuộc đối thoại giữa gien và nơrôn là vấn đề trung tâm của sinh học. Công nghệ sinh học mang nhiều hi vọng cho con người, nhưng đồng thời cũng chứa đựng những khía cạnh lo ngại về sinh thái, đạo đức - nhân văn và pháp luật, đòi hỏi chính con người phải giải quyết (như thiên nhiên bị biến dạng theo thiết kế của con người, sinh vật được cấu tạo lại có thể làm hại môi trường và phá vỡ sinh thái, lập trình gây ung thư bằng di truyền của một kẻ ác nào đó...). Như thế, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật mà gần đây còn gọi là cách mạng khoa học - công nghệ đã thu được những thành tựu kỳ diệu theo hướng ngày càng hoàn thiện từ cơ khí, điện khí đến điện tử học vi mô, sinh học; từ loại hình tiêu tốn nhiều năng lượng đến dạng tự động hoá xử lý thông tin; từ nền công nghiệp của những ống khói nhà máy đến nền kinh tế “mềm” nhiều yếu tố dịch vụ - tượng trưng. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã làm tăng của cải xã hội và làm cho cuộc sống con người ngày càng văn minh hơn. Đời sống xã hội có những thay đổi to lớn và hầu như trên mọi mặt từ kinh tế - sản xuất, chính trị - quyền lực và cơ cấu lao động xã hội. Nhưng mặt khác, từ xã hội công nghiệp hiện đại, nhân loại phải đối mặt với những vấn đề toàn cầu nóng bỏng như nguy cơ hạt nhân, ô nhiễm môi trường, sự xuống cấp của sinh thái hành tinh, tình trạng bạo lực - khủng bố, nạn ma tuý, bệnh AIDS, sự bùng nổ dân số và sự nghèo khổ của nhiều khu vực chậm phát triển, sự phân phối không đều về lương thực, thực phẩm và của cải... [B][COLOR=rgb(65, 168, 95)]( Còn Tiếp [/COLOR][/B][COLOR=rgb(65, 168, 95)])[/COLOR][/SIZE] [COLOR=rgb(65, 168, 95)][SIZE=5][B]Nguồn :[/B] Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục[/SIZE] [/COLOR] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Văn minh thế giới nửa sau thể kỉ XX
Top