Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
Văn học cổ điển Pháp
I. Khái quát
Thế kỷ XVII là thời kỳ hưng thịnh của chế độ phong kiến trong lịch sử pháp. Về chính trị đó là thời kỳ nền quân chủ chuyên chế được thiết lập vững chắc, về triết học thì đó là thời kỳ thống trị của học thuyết duy lý của Descartes, về văn học nghệ thuật thời kỳ này đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa cổ điển, trong đó, bi kịch cổ điển là loại hình phổ biến nhất. Chủ nghĩa cổ điển vừa là con đẻ của nền quân chủ chuyên chế, vừa là sự thể hiện quan điểm mỹ học và triết học của Descartes trong lĩnh vực nghệ thuật.
1.Tình hình nhà nước quân chủ chuyên chế: (1610-1715)
Sự hình thành của chế độ quân chủ chuyên chế đã trãi qua một chặng đường dài kể từ triều đại Louis XI (1461-1483) đến các triều đại Charles VII (1483-1493), Louis XII (1498-1515) và Francois I (1515-1547)
Triều đại Francois I đánh dấu một bước phát triển mới của nền quân chủ chuyên chế Pháp, thể hiện ở chỗ nó bắt đầu thủ tiêu các thể chế của thời Trung cổ, tập trung mọi quyền hành vào tay nhà vua và bộ máy quan liêu. Một giai đoạn mới quan trọng khác là thời kỳ trị vì của Henry IV (1594-1610). Cống hiến lớn nhất của ông vua này là đã thực hiện được sự hòa hợp dân tộc, thông qua sự hòa hợp của các tín đồ đạo Tin Lành và đạo Gia Tô bằng việc ban bố sắc lệnh Nantes (1578) về tự do tín ngưỡng. Ngoài ra dưới thời cai trị của ông, kinh tế, thương mại, và công nghiệp rất phát triển.
Vua Louis XIII (1610-1624) lên kế vị lúc còn nhỏ, đã được Hồng Y tể tướng Richelieu phụ chính và năm 1624 lên cầm quyền. Tất cả quyền lực của nước Pháp tập trung vào tay Richelieu. Chính vị tể tướng này đã xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế đến mức hoàn hảo.
Vua Louis XIV lên kế vị mới 15 tuổi, tể tướng Mazarin, đồ đệ của Richelieu tiếp tục làm tể tướng, cùng với hoàng hậu Autriche nắm hết quyền hành. Thời kỳ đầu của triều đại Louis XIV đã trãi qua một cuộc khủng hoảng sâu sắc: đó là loạn La Fronde. Sau ki phong trào La Fronde bị dập tắt, nền quân chủ chuyên chế Pháp bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất. Louis XIV trực tiếp cầm quyền, tự xưng là vua Mặt Trời, cho xây cung điện Versailles và tuyên bố: Nhà nước chính là ta (LEùtat cest moi).
Tiếp tục chính sách văn hóa của Richelieu, Louis XIV cũng tập trung ở triều đình hầu hết các văn nghệ sĩ tiên tiến, tài năng nhất. Sự lộng lẫy của triều đình Louis XIV trở thành niềm tự hào cho cả nước Pháp. Người ta cho rằng triều đại Louis XIV là thời kỳ thịnh trị nhất trong lịch sử nước Pháp. Triều đình tổ chức những ngày hội huy hoàng và tất nhiên là trên sự bần cùng hóa của nhân dân, là người phải cung phụng cho mọi chi phí đó. Thực chất của triều đại này là mâu thuẫn khắp nơi: chính quyền phong kiến tập trung mâu thuẫn với tình trạng phong kiến cát cứ, giai cấp phong kiến quý tộc với giai cấp tư sản và nhân dân lao động (đẳng cấp ba).
Ðây là thời kỳ của một nền văn học lúc nào cũng lấy tình hình chính trị làm bối cảnh. Về tư tưởng, có hai tư tưởng lớn đại diện cho thời kỳ này là tư tưởng Descartes (1576-1650) và Gassendie (1592-1655).
2.Tình hình văn học: Văn học thế kỷ XVII có hai khuynh hướng là khuynh hướng quí phái và khuynh hướng tự nhiên.
Khuynh hướng quí phái (Salon littéraire) .
Khuynh hướng tự nhiên
Các giai đoạn văn học :
Giai đoạn 1: (1610-1660) Là giai đoạn ra đời của chủ nghĩa cổ điển. Nước Pháp đi vào thời kỳ tập trung thống nhất quyền lực đồng thời thống nhất cả nhiều mặt bao gồm ngôn ngữ và văn phạm. Malherbe đã đưa ra bộ luật về văn phạm, đề cao ngôn ngữ Paris, có công mở ra cho ngôn ngữ Pháp sự cường thịnh. Tác giả lớn của giai đoạn này là Blaise Pascal, nhà toán học, khoa học, nhà tư tưởng lớn của nước Pháp.
Giai đoạn 2: (1621-1695) Là thời kì thịnh mãn của chủ nghĩa cổ điển, với nhiều kiệt tác xuất hiện. Hai tên tuổi lớn của thời kì này là La Fontaine, nhà thơ, nhà viết ngụ ngôn nổi tiếng của Pháp và Boileau, nhà lí luận xuất sắc của chủ nghĩa cổ điển.
Giai đoạn 3: (Từ năm 1690 trở đi) Là thời kì văn học cổ điển đi vào giai đoạn lụi tàn.
3.Chủ nghĩa cổ diển Pháp:
Sự hình thành và những nguyên lí mỹ học chủ yếu: Ðây coi như một phong trào văn học nảy sinh từ một chế độ chính trị xã hội nhất định. Chủ nghĩa cổ điển Pháp là sản phẩm của chế độ Quân chủ chuyên chế khi chế độ này đặt cơ sở cho sự thống nhất dân tộc. Ðề tài lớn là ý thức về nghĩa vụ và lương tri của người công dân thắng các khuynh hướng cá nhân tự nhiên.
Các nguyên lí mỹ học của chũ nghĩa cổ điển:
- Tôn sùng lí trí: Nêu lên những cái cao cả của lí trí, gạt bỏ những riêng tư cá nhân, tạo nên một thẩm thức quan khác hẵn giữa người Pháp và người Anh, kế thừa và phát huy tinh thần chống mê tín thời Phục Hưng và xây dựng nhân sinh quan tư sản.
- Theo tự nhiên: Tự nhiên trong chủ nghĩa cổ điển được hiểu là tự nhiên đẹp (đời sống cung đình). Ngoài ra quan niệm này còn mở đường cho chủ nghĩa hiện thực Pháp sau này.
- Lấy nghệ thuật cổ đại làm mẫu mực: Chủ nghĩa cổ điển tiếp thu hình thức hài hòa, cấu trúc chặt chẽ lạnh nhạt của nghệ thuật cổ đại. Nguyên tắc tam duy bắt nguồn từ đó.
Không phải ngẫu nhiên mà chủ nghĩa cổ điển đề cao luật tam duy nhất này. Nhận ra rằng vận mệnh xã hội xoay quanh tâm lý con người thống trị, kịch trường cổ điển lấy nội tâm làm cột trụ cho hành động sân khấu. Biểu hiện tâm lý một cách duy lý như vậy chỉ cần 24 tiếng đồng hồ là đủ. Luật tam duy nhất đã gạt bỏ hết những diễn biến phức tạp, phong phú của cuộc đời và xã hội. Nếu như luật tam duy nhất đã có công gột rửa và thống nhất kĩ thuật viết kịch bừa bãi cuả thế kỉ XVII thì nó cũng đã hạn chế sức biểu hiện to lớn của kịch trường.
Chủ nghĩa cổ điển là giai đoạn phát triển quan trọng của lịch sử văn học Pháp. Nó gắn liền với truyền thống dân tộc, đưa văn học dân tộc lên một bước đường mới hẳn. Nó phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân Pháp trong công cuộc xây dựng quốc gia thống nhất và hình thành dân tộc. Nó tiếp tục một cách xứng đáng chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng và chuẩn bị cho nền văn học Aùnh Sáng đầy tính chiến đấu của giai cấp tư sản ở thể kỉ XVIII.
Tuy vậy, chủ nghĩa cổ điển cũng có những hạn chế nhất định của nó. Cũng như triết học duy lýcủa Descartes, các nhà văn cổ điển chỉ mới xây dựng được những tính cách mà chưa đạt đến những điển hình của thời đại. Họ chưa nhận định được hoàn cảnh lịch sử quy định tính cách nhân vật. Họ tưởng rằng lí trí của một số người có thể quyết định số phận của loài người, vì vậy quy luật tam duy nhất dù có nâng cao lên một mức nghệ thuật kịch cổ điển, nhưng chưa giải quyết được một cách thỏa đáng những mâu thuẫn mà kịch đã đề ra. Nhiều vở hài kịch của Molière cũng đã không tránh được những hạn chế ấy.
II. Tác giả tác phẩm tiêu biểu
1. Pierre Corneille (1606-1684)
Tiểu sử: Corneille sinh tại Rouen trong một gia đình trung lưu. Ông là con thứ hai trong số 8 anh chị em. Chị ông là Martha, thân mẫu của nhà văn Fontenelle và em út của ông, Thomas, cũng là thi sĩ.
Ông theo học trường dòng Jésuite tại Rouen. Năm 1642 ông gia nhập Trạng sư đoàn của tỉnh này, nhưng ông có tài hùng biện. Tuy là thầy kiện mà không cãi được việc nào. Sau đó ông sang ngành Pháp quan và năm 1626 ông mua hai chức vụ: Biện lý hoàng gia, 1 ở ngành nông lâm và 1 ở ngành hải quân quốc gia. Ông giữ chức vụ này cho đến năm 1650, chuyển sang viết văn dưới sự bảo trợ của Richelieu.
Corneille có một vai trò quan trọng trong lịch sử văn học Pháp. Trước xu hướng mới của lịch sử là đòi hỏi sự thống nhất tư tưởng để xây dựng chính quyền chuyên chế, Corneille đã đáp ứng được đòi hỏi đó.
Bi kịch Corneille giáo dục lòng yêu nước, đề cao danh dự của người công dân. Những nhân vật trong kịch của ông đều là con người anh hùng chiến thắng mọi trở ngại, cám dỗ, luôn luôn sáng suốt làm chủ lấy mình. Vì vậy những vở kịch của ông được coi là Trường đào tạo những tâm hồn cao thượng (LEùcole de Grandeur lAâme). Tư tưởng ban đầu là tin tưởng vào thời đại mới, thể hiện lý tưởng tốt đẹp của ông về một đấng minh quân và hiền thần. Ông hết lòng ca ngợi triều đại Louis XIV. Nhưng đến cuối đời, các vở kịch của ông đã mất tính chất này.
Le Cid là vở kịch nổi tiếng nhất của Corneille. Nhân vật chính là Don Rodrigue, con trai Don Diègue, yêu nàng Chimène con gái của Don Gormas, là hai đại thần dưới triều vua Don Fernand ở Tây Ban Nha. Hai họ đã thoả thuận về việc cưới xin sắp đến của họ, thì việc bất hòa xảy ra do hai quan đại thần này tranh nhau chức quan thái phó cho thái tử. Don Gormas không được chọn, đã sinh sự và tát tay Don Diègue. Rodrigue trả thù cho cha, đã giết Don Gormas. Kế đó chàng gặp Chimène nói cho nàng biết rằng chàng vẫn hết lòng yêu nàng, và không bao giờ hối hận về việc đã làm. Chimène phục lòng can đảm của chàng và nàng cũng quyết sẽ báo thù cho cha bằng cách tố cáo kẻ sát nhân trước triều đình. Trong lúc đó vua được tin giặc cướp sắp tới cướp phá Séville. Rodrigue ra trận chống giặc và chiến thắng. Chimène vẫn đòi truy tố. Nhà vua đồng ý cho cuộc đấu gươm giữa Don Rodrigue và Don Sand, người thay mặt cho Chimène trả thù cho nàng. Rodrigue lại chiến thắng và tha chết cho Don Sand. Vua muốn tác thành họ để chấm dứt mối thù.
Mượn cốt chuyện của nhà văn Tây Ban Nha Castro, có sửa chữa lại, khi Le Cid ra đời đã đẩy những vở kịch khác lùi vào bóng tối. Công chúng hoan nghênh tới nỗi có một thành ngữ mới xuất hiện: Ðẹp như Le Cid. Các nhân vật chính là Rodrigue và Chimène đều tuân theo những quy luật về dòng dõi và danh dự. Một người yêu lý tưởng phải đạt được tính chất đó.
Nhân vật ông vua Don Fernand là thể hiện của quyền lực quốc gia, có óc phán đoán. Không có Don Fernand thì không thể giải quyết được mâu thuẫn giữa Don Rodrigue và Chimène. Nhà vua đã xác định giá trị của Don Rodrigue là dẹp giặc bảo vệ đất nước và củng cố lý tưởng phong kiến tập quyền. Hạnh phúc của họ là kết quả sự thắng thế đó.
Bi kịch Corneille đã góp phần vào việc thống nhất quốc gia, xây dựng chế độ chính trị quân chủ tập trung trong nửa đầu thế kỷ. Nhưng bi kịch của ông đã không làm được nhiệm vụ mới ở nửa thế kỷ sau, khi nền quân chủ đã bộc lộ những tiêu cực của nó, mà phải nhường cho vai trò của Racine và Molière.
2. Jean Racine (1639-1699)
Racine là một thi sĩ yêu chuộng cổ văn và thiên chân. Ông lấy bi kịch làm phương tiện để nghiên cứu các nhiệt tình của con người. Khi sáng tác, ông biết chọn những tình huống hấp dẫn, lại khéo phô bày tâm lý nhân vật và diễn tả lịch sử bằng một lối văn uyển chuyển du dương nên văn phẩm của ông có một vẻ đẹp xán lạn.
Ông sinh ra tại Ferlé Milon trong một gia đình cổ sẽ ảnh hưởng sâu xa đến nền giáo dục và đời sống tinh thần của ông. Cha ông giữ chức kiểm lâm kho muối ở Ferlé Milon. Nhiều nhân vật nổi tiếng của phái Jansénistes bị ngược đãi thường hay đến ẩn náu tại nhà ông. Ðược hai tuổi thì mẹ ông qua đời, hai năm sau, cha ông mất. Racine mồ coi, đến ở với người bà. Bà này gởi ông đến trường Janséniste ở Beauvais. Năm 16 tuổi ông rời Beauvais đến học tại Port Royal. Trong ba năm liền ở đây hầu như Racine sống đời ẩn dật, giữa khung cảnh đồng ruộng êm đềm mà ông đã miêu tả qua các bài thơ đầu tay của ông.
Năm 1660, Racine công bố bài thơ đầu tay của ông, một bài đoản ca, nhan đề Người đẹp sông Seine sáng tác nhân dịp hôn lễ nhà vua Louis XIV, được hoan nghênh nhiệt liệt. Sau đó vở Andromaque (1647) thành công rực rỡ. Suốt 11 năm ông đã làm cho công chúng say sưa bằng nhiều tác phẩm được diễn liên tục như: Nhựng kẻ ưa kiện (1668), Britanicus (1669), Bérénice (1670), Bajazet (1672), Mithridate (1673). Ông được cử vào Hàn lâm viện và năm 1673 ông cho trình diễn kiệt tác Iphigénie.
Năm 1677 tác phẩm Phèdre của ông bị một số người ganh ghét, tổ chức cả một âm mưu đánh đổ. . Ông rút lui khỏi sân khấu. Nhưng đến năm 1689 bà Maintenon, hiệu trưởng trường trung học Saint Cyr nhờ ông viết cho vài vở kịch để các nữ sinh của bà tập diễn trong trường. Ðó là thời kỳ của Athalie và Esther. Sau 12 năm xa sân khấu, ông vẫn là một nhà thơ lỗi lạc. Cả hai đều là những kiệt tác.
Racine là một thi sĩ mẫu mực của chủ nghĩa cổ điển. Trong sáng tác, ông không bao giờ băn khoăn về các vấn đề thi học cơ bản của chủ nghĩa cổ điển và không bao giờ xa rời quy tắc của nó. Boileu chủ yếu đã dựa vào các sáng tác của Racine khi nói về các quy tắc sáng tác thơ trong bi kịch.
Racine tập trung vào loại hình cơ bản của chủ nghĩa cổ điển Pháp: Bi kịch cổ điển. Bi kịch của ông có tính cách khác với các bi kịch của Corneille, trong thời điểm xây dựng và củng cố chế độ, thường hướng về loại bi kịch anh hùng, dựa vào lịch sử, Còn Racine sáng tác trong thời kỳ yên tĩnh hơn, nên đã xây dựng loại bi kịch ái tình tâm lý. Puskin nhận xét: Ông là nhà thơ của những người đàn bà và những ông vua yêu đương. Nhưng Racine cũng không đóng khung trong các vở bi kịch cung đình, mà ông đã đưa vào đó những nội dung tư tưởng chính trị lớn, nói lên được tâm trạng của tầng lớp tiến bộ trong xã hội Pháp ở thế kỷ XVII. Cho nên người Pháp coi ông là nhà thi sĩ dân tộc vĩ đại.
Andromaque: Là vở kịch đã được Racine sử dụng cốt truyện trong tác phẩm của các nhà thơ cổ đại một cách độc đáo về hình ảnh nàng Andromaque, người vợ góa của Hector. Nhưng ông đã không chỉ miêu tả một người mẹ dịu dàng, một người vợ chung thủy, mà hình ảnh Andromaque còn bộc lộ giá trị nhân đạo mà Racine thường đặt vào các nhân vật nữ tích cực của ông. Ðó là người phụ nữ có nhận thức sâu sắc về giá trị con người, có đạo đức cao cả, có tinh thần xã thân vì nghĩ a vụ và chống đối lại những bất công của bọn vua chúa chuyên chế.
3. Molière (1622-1673)
Là một trong những nhà văn lỗi lạc nhất của chủ nghĩa cổ điển Pháp và của cả nền văn học Pháp. Là nhà viết hài kịch, diễn viên, nhà dàn cảnh, nhà đạo diễn, Molière đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp chân chính. Ngay khi ông còn sống, Boileau đã khẳng định ông là tên tuổi vinh quang nhất của thế kỷ XVII.
Molière tên thật là Jean Baptiste Poquelin, con một thương nhân bán vải kiêm chức quan coi phòng tại hoàng cung. Mẹ mất sớm, ông được nuôi dưỡng trong cảnh đế đô, theo một nề nếp trưởng giả. Do đó ông sớm có ý niệm về các tầng lớp trong xã hội. Thêm vào đó, ông lại hấp thu một nền học vấn vững chắc. Từ 1636-1641 ông học tại trường Clermont ( Louis Le Grand), là trường danh tiếng ở Paris. Hết trung học, cha ông dự định cho ông học luật để nối nghiệp nhà, nhưng từ lâu Molière đã có khuynh hướng về ca kịch.
Năm 1643 ông cùng với gia đình Béjart thành lập đoàn kịch Trứ danh (Illustre Théatre). Chính lúc này nghệ danh Molière ra đời. Cuối năm 1645 đoàn kịch phải tan rả do nợ nần, chủ đoàn còn phải vào tù. Sau đó họ quyết định rời Paris đi lưu diễn ở các tỉnh.
Từ năm 1645-1658 là thời kỳ Molière ở các tỉnh. Ðoàn kịch của ông đã đi rất nhiều nơi, nhất là ở Lyon. Năm 1653 được hoàng thân Conti nâng đỡ, triệu đến Montpelier. Trong khoảng thời gian 12 năm lưu diễn, Molière đã tiếp thu nhiều kinh nghiệm phong phú, thể nghiệm đủ loại hình ca kịch, dần dần trở thành người lãnh đạo đoàn kịch và tự xác định cho mình một đường lối nghệ thuật chân chính, học được ở nhân dân lòng trung thực thẳng thắn. Ông đã mang lại cho kịch hề dân gian nững nét sáng tạo lớn, nâng nó lên thành hài kịch phong tục và hài kịch tính cách, có ý nghĩa sâu sắc và có tính chiến đấu mạnh mẽ.
Từ năm 1658-1673 là thời kỳ Molière ở Paris. Nổi danh ở các tỉnh, đoàn kịch của ông được vua Louis XIV mời về Paris, và năm 1658 ông được vào biểu diễn tại điện Louvre. Thành công, đoàn được dành hẵn một phòng trong nội điện để biểu diễn hằng đêm cho đức vua và hoàng tộc xem.. Nhiều vở kịch nổi tiếng như Các bà cầu kỳ rởm, Người bệnh tưởng đã chinh phục được cảm tình của khán giả. Cũng chính tại dây (điện Petit Bourbon), khi diễn lần thứ tư vở Người bệnh tưởng, Molière đã ngã gục trên sân khấu và mất vài giờ sau đó.
Từ những tác phẩm đầu tiên đến tác phẩm cuối cùng, hài kịch Molière đã gây nhiều dư luận sôi nổi trong nền văn học cổ điển, và kể cả những phản ứng kịch liệt từ phía nhà thờ và quý tộc. Vì thế khi ông mất, nhà thờ đã ngăn cấm việc chôn cất ông trong nghĩa trang tôn giáo. Vợ ông phải quì gối trước mặt nhà vua để cầu xin được lén lút chôn cất ông vào ban đêm trong đất thánh.
Tư tưởng và sự nghiệp của Molière
Tiếng cười trong hài kịch Molière đã tố cáo những tiêu cực, những điều lố lăng, cái xấu, cái rởm đời… của đủ mọi tầng lớp, không kiêng nể ai, từ nhàthờ (Tartuffe, Trường học làm vợ), quý tộc (Các bà cầu kỳ rởm, Trưởng giả học làm sang), tư sản (Lão hà tiện)… Nguồn đề tài phong phú nhất của ông chính là cuộc sống xã hội Pháp thế kỷ XVII, trong cung đình, nơi thành thị. Molière còn quan niệm phải tuân thủ theo tự nhiên để mô tả con người. Các nhân vật của ông đều được mô tả với tâm tư, hành động, lời ăn tiếng nói đặc biệt của họ. Chế độ quân chủ chuyên chế, tầng lớp quý tộc lỗi thời, tôn giáo đè nén hạnh phúc của con người, tư sản có tiền lại đâm ra nô lệ đồng tiền, hoặc ham mê danh vọng… là những mục tiêu đả kích của ông. Bên cạnh đó, ông luôn luôn ca ngợi người bình dân, người lao động với lương tri trong sáng lành mạnh. Họ là tiếng nói bảo vệ những giá trị chân chính của con người như tình yêu, tình gia đình, tình người… và bảo vệ lẽ phải. Các nhân vật người lao động là nguồn sinh lực dồi dào làm cho sân khấu sinh động rực rỡ tiếng cười.
Với tiếng cười mang tính chất duy lý, tiếng cười Molière chính là vũ khí của kẻ mạnh, của những thế lực tiến bộ đang chôn vùi những tàn dư lạc hậu của xã hội cũ. Ông đã dùng nhiều cung bậc của cái cười, từ nhẹ nhàng, đế gay gắt hay chua chát, sâu sắc đến nỗi Alfred de Musset, một nhà thơ Pháp thế hệ sau đã nói: Hài kịch Molière buồn bã và thâm trầm, đến phải khóc sau khi đã cười, vì bên cạnh tiếng cười khỏe khoắn là sự tiếp cận với cái bi kịch.
Những bà cầu kỳ rởm cũng như Trưởng giả học làm sang là những vở kịch đả kích thói học làm sang, ham mê tước vị của tầng lớp tư sản thành thị. Ông Jourdain muốn trở thành người quý tộc thanh lịch, thuê thầy về dạy khiêu vũ, đấu kiếm, học nhạc, triết học và ngữ pháp, bị bọn lừa bịp lợi dụng. Các cô Magdelon vàCathos ham lấy chồng quý phái bị dạy cho một bài học bẽ mặt. Các tính cách đáng chê trách của con người như hà tiện đến thành quái tật và đánh mất cả nhân cách lẫn tình cảm, hoặc quá chăm chút thân thể đến thành một thứ bệnh tật tinh thần, làm cho con người trở thành lố bịch . . . cũng là đối tượng tiếng cười của ông. Nhưng sâu sắc và kịch liệt nhất là tiếng cười đã kích những kẻ lợi dụng tôn giáo để thực hiện những tham vọng xấu xa. Tartuffe trong Ðạo đức giả đã lợi dụng lòng mê tín của người nông dân ngoan đạo để trục lợi và phá hoại hạnh phúc gia đình người khác. Arnolphe trong Trường học làm vợ đã dùng những tín điều và giáo lý để nhồi sọ Agnès hòng làm cô trở thành ngu muội, để cưới làm vợ và dễ sai khiến sau này. Trong những trường hợp trên nhiều tình huống gia đình đã được giải quyết bằng lương tri và trí thông minh của người lao động mà Molière thường đặt vào các vai đầy tớ (Valère trong Lão hà tiện, Dorine trong Tartuffe, Toinette trong Người bệnh tưởng . . .).
Tuy vậy, do ảnh hưởng của tư tưởng duy lý, hài kịch của Molière thường chỉ chú trọng phân tích tâm lý con người mà coi nhẹ hành động kịch, chú trọng miêu tả những xung đột đầy kịch tính bên trong nhân vật mà không chú ý đến hoàn cảnh bên ngoài. Hành động kịch của Molière thường được cấu tạo trên những sơ đồ đơn điệu, ít biến đổi sinh động, mạnh mẽ như hài kịch của Shakespeare. Kết thúc các vở kịch, các nhân vật thay đổi tính cách, giác ngộ một cách dễ dàng. Mâu thuẫn gay gắt trong kịch thường được giải quyết bằng một thế lực sáng suốt bên ngoài xung đột (nhà cầm quyền, cảnh sát . . .). Khi sân khấu buông màn xuống thì cái xã hội của Molière sau cơn biến động lại trở về yên tĩnh, hạnh phúc. Cuộc sống không tiến lên với một chất lượng mới.
Văn học Pháp thế kỷ XVII nói chung đã tiếp tục truyền thống đấu tranh chống cường quyền, chuẩn bị địa hạt hoạt động cho các nhà văn thế kỷ XVIII. Nó đã xây dựng chủ nghĩa hiện thực tâm lý, góp phần vào sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Pháp các giai đoạn về sau.
(Sưu tầm)