Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Trung Đại ( Thế kỷ V - XVI )
Văn hóa Tây Âu thời phục hưng
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 179925" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 18px"><strong>2. Những thành tựu chính</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Là một bước nhảy vọt về văn hóa, </span><a href="https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-trung-dai-the-ky-v-xvi.109/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">phong trào Văn hóa phục hưng</span></a><span style="font-size: 18px"> đã đạt được những thành tựu rực rỡ về mọi mặt, đặc biệt là về văn học nghệ thuật.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>a) Văn học</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nền Văn học thời Phục hưng về cả ba thể loại thơ, tiểu thuyết và kịch đều có những tác phẩm có giá trị gắn liền với tên tuổi nhiều tác giả nổi tiếng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>- <em>Thơ:</em></strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhà thơ nổi tiếng nhất đồng thời là người mở đầu cho phong trào Văn hóa phục hưng là <em>Đantê</em>(1265-1321). Đantê xuất thân trong một gia đình kỵ sĩ suy tàn ở Phirenxê, cha ông là một luật sư. Đantê không chống tôn giáo nhưng căm ghét giáo hội và giáo hoàng, mong muốn nước Ý được thống nhất. Lúc bấy giờ ở Phirenxê đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa đảng Trắng (phái ủng hộ vua) và đảng Đen (phái ủng hộ giáo hoàng). Đantê tham gia đảng Trắng và năm 1300 được bầu làm một quan chấp chính của Phirenxê. Nhưng mới được hai tháng thì đảng Trắng thất bại, ông bị trục xuất khỏi Phirenxê và phải sống lưu vong ở các thành thị miền Nam Ý cho đến khi chết.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tác phẩm trong thời kỳ đầu của ông là </span><a href="https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-trung-dai-the-ky-v-xvi.109/" target="_blank"><span style="font-size: 18px"><em>Cuộc đời mới</em></span></a><span style="font-size: 18px"><em>.</em> Đây là tác phẩm Đantê viết để tưởng nhớ người bạn gái thời thơ ấu của ông là Bêatơrít (Beatrix). Bêatơrít là một cô gái ngây thơ xinh đẹp mà ngay từ hồi mới 9 tuổi ông đã đem lòng yêu mến, nhưng về sau vì rụt rè, nàng tưởng ông không yêu nên đi lấy chồng và chẳng may chết sớm. Ông hết sức ân hận và thương xót nên viết tác phẩm này.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tác phẩm lớn nhất của Đantê là <em>Thần khúc</em> (La Divine comédie). Tác phẩm này ông đã viết trong suốt 20 năm sống lưu vong và cho đến khi chết cũng chưa hoàn thành trọn vẹn. Toàn bộ tập thơ gồm 100 chương, ngoài chương lời tựa, nội dung chính chia làm ba phần là địa ngục, tĩnh giới (nơi rửa tội) và thiên đường, mỗi phần gồm 33 chương.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nội dung tác phẩm kể về một giấc mộng trong đó tác giả được nhà thơ nổi tiếng của La Mã cổ đại là Viếcgiliut dẫn đi xem địa ngục và tĩnh giới, tiếp đó được Bêatơrít dẫn đi xem thiên đường. Về hình thức “Thần khúc” giống như một tập trường ca kiểu cũ, trong đó dùng địa ngục và thiên đường làm bối cảnh và sử dụng nhiều điển tích thần học nhưng nội dung tư tưởng thì hoàn toàn mới.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài Đantê còn có nhà thơ trữ tình Pêtơraca (1304-1374). Thi phẩm của ông là tập thơ ca ngợi tình yêu tặng nàng Lôra, người mà ông yêu suốt đời và trở thành bất tử trong thơ của ông. Tập thơ này được coi là mẫu mực của thơ trữ tình Ý.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">-</span><a href="https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/" target="_blank"><span style="font-size: 18px"> Tiểu thuyết</span></a><span style="font-size: 18px">:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về lĩnh vực này trước hết phải kể đến Bôcaxiô (1313-1375), nhà văn Ý được đặt ngang hàng với hai nhà thơ Đantê và Pêtơraca và được gọi chung là “Ba tác giả lỗi lạc”. Tác phẩm nổi tiếng của ông là tập truyện ngắn <em>Mười ngày</em> (Decameron).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tác phẩm này gồm 100 câu chuyện do 3 chàng kỵ sĩ trẻ và 7 cô gái kể cho nhau nghe để đỡ buồn trong mười ngày về sống tại một ngôi nhà ở nông thôn để tránh nạn dịch hạch xảy ra ở Phirenxê năm 1348. Bằng lối văn châm biếm dí dỏm, các câu chuyện ấy hoặc là kể lại những truyện trong thần thoại và truyền thuyết, hoặc là những câu chuyện của phương Đông, nhưng nhiều nhất là những câu chuyện khai thác trong xã hội đương thời trong đó đề cập đến nhiều đối tượng như lái buôn, tu sĩ, giáo sĩ, quý tộc... “Mười ngày” của Bôcaxiô là một tác phẩm có tính chất vạch thời đại trong lịch sử văn học châu Âu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau khi </span><a href="https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">phong trào Văn hóa phục hưng lan rộng </span></a><span style="font-size: 18px">sang các nước Tây Âu khác, ở Pháp và Tây Ban Nha đã xuất hiện hai nhà văn nổi tiếng, đó là Rabơle và Xécvăngtét.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Rabơle</em> (Francois Rabelais 1494-1553) lúc còn nhỏ đi tu, sau ra khỏi tu viện học ngành y và khoa học tự nhiên, đã từng làm thầy thuốc. Ông còn tinh thông về các mặt văn học, triết học, pháp luật, thực vật học, kiến trúc. Tác phẩm chủ yếu của ông là tiểu thuyết trào phúng <em>Gácgăngchuya và Păngtagruyen</em> nội dung như sau:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Gácgăngchuya là một người khổng lồ. Vừa mới lọt lòng mẹ đã đòi “Uống”. Người ta phải lấy sữa của 170.913 con bò cho uống mới đủ. Con của Gácgăngchuya là Păngtagruyen cũng là một người khổng lồ. Anh có một người bạn tên là Panuyếcgiơ. Sau khi đôi bạn này đi đánh thắng giặc ngoại xâm trở về Panuyếcgiơ có một băn khoăn là có nên lấy vợ hay không. Không ai giải đáp được thắc mắc đó, hai người phải đi đến xứ Cate (Trung Quốc) để hỏi lọ nước thần.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Chính trong cuộc hành trình ấy họ đã đặt chân tới nhiều xứ sở kỳ lạ như đến hòn đảo của những người chuyên giơ lưng chịu đấm để đòi tiền bồi thường, đến hòn đảo của các loài chim chỉ biết hót và ăn cho béo, lại đến hòn đảo của loài mèo xồm chuyên môn ăn hối lộ... Cuối cùng họ đã đến được ngôi đền “Lọ nước thần” và được nghe phán mỗi một tiếng “Uống!”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về bề ngoài, tác phẩm này có vẻ hoang đường, nhưng nội dung lại nói về những người thực, việc thực trong xã hội lúc bấy giờ, đó là giáo hoàng, giáo sĩ, vua, quan, là cuộc sống lười biếng ăn bám, là những việc làm xấu xa đầy rẫy trong cuộc sống hàng ngày... vì vậy đây là một tác phẩm hiện thực phê phán rất có giá trị.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Xécvăngtét</em> (Miguel de Cervantes 1547-1616) là một nhà văn lớn và là kẻ đặt nền móng cho nền văn học mới ở Tây Ban Nha. Xécvantét xuất thân từ một gia đình quý tộc sa sút, thời trẻ tính thích mạo hiểm, đã tham gia đánh quân Thổ Nhĩ Kỳ ở trận Lêpăngtơ ở Hy Lạp (năm 1571). Vì bị thương, ông bị bọn giặc biển bắt làm tù binh. Sau 5 năm ông trốn thoát được về quê hương, nhưng từ đó ông ngày càng nghèo túng, phải ra làm một chức quan nhỏ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, đồng thời cũng là một kiệt tác của nền văn học thế giới là Đông Kisốt (Don Quichotte). Nội dung như sau:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ông Kixana là một quý tộc nhỏ sa sút, người cao gầy, 50 tuổi vẫn chưa có vợ. Thế nhưng vì chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết, ông quyết định mình phải trở thành một hiệp sĩ đi ngao du khắp thiên hạ để dẹp mọi chuyện bất bình.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Để chuẩn bị lên đường, Kixana tự đặt cho mình một cái tên quý tộc thật kêu là Đông Kisốt xứ Măngsơ, lại dụ dỗ được Xăngsô, một nông dân chất phác làm giám mã cho mình.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Hơn nữa, để cho đầy đủ tiêu chuẩn của một kỵ sĩ, ông tôn thờ một cô thôn nữ làng bên mà ông chưa quen biết làm “bà chúa của lòng mình” và gọi nàng bằng một cái tên duyên dáng - nàng Đunxinê xứ Tôbôxô.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Với bộ trang phục kỵ sĩ do tổ tiên để lại, Đông Kisốt cưỡi một con ngựa gầy cùng với Xăngsô béo lùn cưỡi một con lừa thấp lè tè bắt đầu bước vào con đường giang hồ. Từ đó Đông Kisốt có nhiều hành động vừa buồn cười, vừa đáng thương, như chiến đấu với cối xay gió vì tưởng đó là ma quỷ khổng lồ, đánh đàn cừu đang gặm cỏ vì tưởng đó là đoàn quân tà giáo..., và tất nhiên Đông Kisốt đều phải trả giá. Cuối cùng vì đấu kiếm thua hiệp sĩ Vừng Trăng, và theo lời cam kết ban đầu, Đông Kisốt buộc phải trở về quê cũ, chấm dứt cuộc đời giang hồ với những việc làm điên rồ của mình.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong tác phẩm này, Đông Kisốt được miêu tả thành một người có phẩm chất cao quý, là kẻ bảo vệ tự do và chính nghĩa. Người nông dân Xăngsô cũng được khắc họa thành một người tuy có vẻ ngây ngô nhưng lại thông minh lanh lợi, chí công vô tư. Xây dựng một người nông dân thành một trong hai nhân vật chính của tác phẩm và gán cho nhân vật ấy những phẩm chất tốt đẹp như vậy, đó là điều rất hiếm lúc bấy giờ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>- <em>Kịch:</em></strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tác giả tiêu biểu của nghệ thuật kịch thời Phục hưng, đồng thời là người tiêu biểu cho nền văn hóa Anh thời kỳ này là Sếchxpia (William Shakespeare, 1564-1616). Trước Sếchxpia việc diễn kịch trong dân gian ở nước Anh đã rất thịnh hành. Từ năm 1580 về sau, nghệ thuật kịch nói của Anh càng phát triển. Lúc bấy giờ, ở Luân Đôn chỉ có 20 vạn người mà có đến 8 rạp kịch.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Kế thừa truyền thống của đất nước và tinh hoa của kịch Hy Lạp và La Mã cổ đại,</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sếchxpia đã đưa nghệ thuật kịch lên tuyệt đỉnh. Trong 20 năm hoạt động sáng tác (15921612), Sếchxpia đã để lại 36 vở kịch gồm hài kịch (như các vở <em>Đêm thứ mười hai, Theo đuổi tình yêu vô hiệu, Người lái buôn thành Vênêxia),</em> bi kịch (như các vở <em>Rômêô và Giuliét, Hămlét, Ôtenlô, Vua Lia, Mácbét...)</em>, kịch lịch sử như <em>Risớt II, Risớt III, Henri IV...</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong các tác phẩm của mình, Sếchxpia đã đưa lên sân khấu các nhân vật thuộc tất cả các tầng lớp trong xã hội từ vua quan, tướng lĩnh, giáo sĩ, thương nhân cho đến con sen, thằng nhỏ... và đã đề cập đến nhiều mặt, nhiều mâu thuẫn phức tạp trong cuộc sống xã hội vào giai đoạn chế độ phong kiến đang suy tàn và chủ nghĩa tư bản bắt đầu xuất hiện.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>b) Nghệ thuật</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Cũng như văn học, Ý mà trước hết là Phirenxê là nơi xuất phát đầu tiên của nền nghệ thuật thời Phục hưng. Trong hai thế kỷ XIV và XV, nền nghệ thuật ở đây gắn liền với tên tuổi của các họa sĩ và nhà điêu khắc nổi tiếng như Giốttô (1266-1337), Maxasiô (1401-1428), Đônatenlô (1386-1466), Vêrôsiô (14351488), Bốttixenli (1444-1510) v.v... <em>Giốttô</em> là người mở đầu cho xu hướng hiện thực chủ nghĩa trong hội họa, không những vì các nhân vật trong tranh sinh động mà còn vì họa pháp lập thể do ông thể hiện.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Maxasiô,</em> mặc dầu chết yểu (27 tuổi), là người đã phát triển chủ nghĩa hiện thực trong hội họa thêm một bước, đồng thời là người phát hiện ra quy luật viễn cận. Tác phẩm tiêu biểu của ông là <em>Ađam và Evơ bị đuổi khỏi thiên đường.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">[ATTACH=full]2863[/ATTACH]</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bốttixenli được gọi là “nhà thơ họa sĩ”. Các tác phẩm <em>Sự ra đời của thần Vênút, Mùa xuân...</em> của ông mang đầy chất thơ nhờ nhân vật xinh đẹp, dịu dàng, màu sắc hài hòa...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đặc điểm chung của nghệ thuật hội họa thời kỳ này là tuy đề tài vẫn khai thác trong kinh thánh hoặc thần thoại, nhưng nội dung thì hoàn toàn hiện thực.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sang đầu thế kỷ XVI, nền nghệ thuật thời Phục hưng đạt đến đỉnh cao của nó. Những thành tựu tuyệt vời về hội họa và điêu khắc gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà danh họa mà trong đó nổi tiếng nhất là Lêônácđô đơ Vanhxi, Mikenlăngiơ và Raphaen.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/" target="_blank"><span style="font-size: 18px"><em>Lêônácđô đơ Vanhxi</em> (1452-1519)</span></a><span style="font-size: 18px"> sinh ở thành phố Vinxi gần Phirenxê, xuất thân trong một gia đình trung lưu. Ông không những là một họa sĩ lớn mà còn là một người có kiến thức uyên bác về toán học, vật lý học, thiên văn học, địa lý học, giải phẫu học, triết học, âm nhạc, điêu khắc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đặc điểm nghệ thuật hội họa của Lêônácđô đơ Vanhxi là thiên về mô tả tính cách và hoạt động nội tâm của nhân vật. Những tác phẩm tiêu biểu của ông là <em>Bữa tiệc cuối cùng, Đức mẹ đồng trinh trong hang đá, Nàng Giôcông.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bức tranh “Bữa tiệc cuối cùng”, dựa vào câu chuyện trong bữa tiệc chia tay nhau, Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ của mình rằng: “Trong các ngươi sẽ có một kẻ phản bội ta”. Bức tranh đã thể hiện được nội tâm của các nhân vật dự tiệc khi nghe câu nói đó: người thì ngạc nhiên, người thì tức giận, người thì buồn bã, người thì biểu thị sự ngay thẳng trung thực của mình... Đây là một bức tranh rất hoàn hảo về mô tả nhân vật, bố cục và màu sắc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">“Nàng Giôcông” (Joconde) là bức vẽ một phụ nữ thị dân Phirenxê tên là Môna Lida. Trong tác phẩm này Vanhxi đã vẽ lên được cái vẻ đẹp đầy sức sống của một người đàn bà trẻ, trong đó đặc biệt nhất là cái mỉm cười kín đáo thể hiện sự sâu sắc của nội tâm.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">[ATTACH=full]2864[/ATTACH]</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mikenlăngiơ (1475-1564) sinh ở Tôxcan (Ý), là một họa sĩ, một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời là một kiến trúc sư và là một thi sĩ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về hội họa, tác phẩm tiêu biểu của ông là <em>Sáng tạo thế giới</em> và <em>Cuộc phán xét cuối cùng.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bức tranh “Sáng tạo thế giới” vẽ trên trần nhà thờ Xixtin ở La Mã, trong đó có 343 nhân vật mà mỗi người đều lớn gấp mấy người thật và người nào cũng tỏ ra có một sức lực vô tận, do đó đã làm tăng thêm sự hùng vĩ của nhà thờ. Để vẽ bức tranh lớn này, Mikenlăngiơ đã phải nằm ngửa trên giàn giáo lao động suốt 4 năm trời (15081512).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Còn bức tranh “Cuộc phán xét cuối cùng” thì vẽ trên tường nhà thờ Xixtin. Trong bức bích họa này, tác giả đã vẽ nhiều người chui từ trong mộ ra để nghe xét xử, họ tỏ ra rất đau khổ, quằn quại nhưng không biết làm thế nào. Ngay chúa Giêsu đứng trên trời cao cũng mất đi cái vẻ trang nghiêm vốn có mà tỏ ra đang vô cùng thương xót chúng sinh.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về điêu khắc, các bức tượng <em>Đavít, Môidơ, Đêm, Người nô lệ bị trói</em> v.v... là những tác phẩm tương đối tiêu biểu, đặc biệt, tượng Đavít<a href="https://vi.kipkis.com/V%C4%83n_h%C3%B3a_T%C3%A2y_%C3%82u_th%E1%BB%9Di_ph%E1%BB%A5c_h%C6%B0ng#cite_note-1" target="_blank">[1]</a> tạc bằng đá cẩm thạch, cao 5,30m. Khác với thần thoại trong kinh thánh, Mikenlăngiơ không thể hiện Đavít thành một thiếu niên mà thành một lực sĩ đầy sức mạnh. Vì vậy năm 1504, tượng này được dựng tại một quảng trường ở Phirenxê để thể hiện tinh thần của kẻ thống trị phải anh dũng bảo vệ thành phố.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về kiến trúc, ông là người thiết kế đầu tiên nhà thờ Xanh Pie ở La Mã. Tuy công trình kiến trúc nổi tiếng này mãi đến năm 1626, tức là sau khi ông chết 62 năm, mới được hoàn thành, nhưng mái tròn của nhà thờ do ông thiết kế khác hẳn với mái nhọn kiểu Gôtích truyền thống.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">[ATTACH=full]2865[/ATTACH]</span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Raphaen</em> (1483-1520) cũng là một họa sĩ thiên tài của Ý. Tuy ông chết tương đối sớm (37 tuổi) nhưng ông đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như <em>Cô gái làm vườn xinh đẹp,</em> các bức tranh vẽ về thánh mẫu... Ông là một họa sĩ có sở trường về vẽ chân dung, đặc biệt là thể hiện được một cách sống động vẻ đẹp tươi tắn của các cô gái, vẻ hiền hậu dịu dàng của người mẹ và nét ngây thơ đáng yêu của các em bé.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài Ý, từ thế kỷ XVI về sau, các nước Phlăngđrơ, Hà Lan, Đức, Pháp... cũng có nhiều họa sĩ nổi tiếng như <em>Mátxít</em> (Quentin Matsys) người Phlăngđrơ, <em>Lucát đơ Lâyđơ</em> người Hà Lan, <em>Anbrết Đuyrê</em> (Albrecht Diirer) người Đức, <em>Lơ Nanh</em> người Pháp v.v... Đề tài của các tác phẩm của họ thường là những cảnh đẹp trong thiên nhiên, những hoạt động trong đời sống hàng ngày của những con người bình thường mà bức tranh <em>“Bữa ăn của những người nông dân”</em> của Lơ Nanh là một ví dụ tiêu biểu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>c) Khoa học tự nhiên và triết học.</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thời Phục hưng, các ngành khoa học tự nhiên và triết học cũng có những thành tựu lớn lao, trong đó đặc biệt quan trọng là về thiên văn học.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhà bác học lớn mở đầu cho một bước nhảy vọt về khoa học tự nhiên thời Phục hưng là <em>Nicôla Côpécních</em> (1473-1543). Ông vốn là một giáo sĩ người Ba Lan, nhưng qua nhiều năm nghiên cứu, ông đã nêu ra một thuyết về vũ trụ chống lại thuyết của nhà thiên văn học cổ đại Ptôlêmê đã ngự trị ở châu Âu suốt 14 thế kỷ. Plôtêmê cho rằng quả đất đứng yên ở trung tâm vũ trụ, mặt trời và các hành tinh quay xung quanh trái đất. Trái lại, Côpécních cho rằng trung tâm của vũ trụ không phải là trái đất mà là mặt trời, không phải mặt trời quay xung quanh trái đất mà trái đất tự quay xung quanh nó và quay xung quanh mặt trời; thể tích của quả đất nhỏ hơn thể tích của mặt trời rất nhiều. Phát hiện mới ấy của ông được trình bày trong tác phẩm <em>Bàn về sự vận hành của các thiên thể.</em> Tác phẩm này ông hoàn thành vào khoảng năm 1536, nhưng vì sợ bị giáo hội kết tội dị đoan nên mãi đến trước khi chết mấy hôm ông mới công bố (1543).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Người tích cực hưởng ứng học thuyết của Côpécních là nhà thiên văn học và là nhà triết học Ý Gioócđanô Brunô (15481600). Ông cũng vốn là một giáo sĩ, nhưng trong khi giáo hội cấm lưu hành tác phẩm của Côpécních thì ông lại phát triển thêm một bước cho rằng vũ trụ là vô tận, mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là trung tâm của Thái dương hệ chúng ta, ngoài ra còn có rất nhiều thái dương hệ khác. Ông còn chứng minh rằng vật chất luôn luôn vận động, luôn luôn biến đổi và tồn tại vĩnh viễn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Một nhà thiên văn học Ý khác là <em>Galilê</em> (1564-1642) tiếp tục phát triển quan điểm của Côpécních và Brunô. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng phóng to gấp 30 lần để quan sát bầu trời. Ông đã chứng minh rằng mặt trăng cũng là một hành tinh giống như quả đất, bề mặt của nó cũng có núi non gồ ghề chứ không phải nhẵn bóng. Ông còn phát hiện được thiên hà là do vô số vì sao tạo thành, giải thích được cấu tạo của sao chổi. Ông cũng là người mở đầu cho ngành khoa học thực nghiệm, phát hiện ra các định luật rơi thẳng đứng và dao động của các vật thể.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">[ATTACH=full]2866[/ATTACH]</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đồng thời với Galilê, nhà thiên văn học Đức Kêplơ (Kepler, 1571-1630) đã phát minh ra ba quy luật quan trọng về sự vận hành của các hành tinh xung quanh mặt trời.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài ra, các lĩnh vực khác như vật lý học, toán học, y học v.v... cũng có nhiều thành tựu quan trọng gắn liền với tên tuổi nhiều nhà bác học nổi tiếng. Những phát minh khoa học tương đối tiêu biểu trong số đó là hình học giải tích của nhà toán học Pháp Đêcáctơ (1596-1650), áp lực của chất lỏng của nhà vật lý học Ý Tôrixeli (1608-1647), thuật giải phẫu của nhà y học Nêđéclan Vêdalơ (Vésale, 1514-1564), sự tuần hoàn của máu của nhà y học Anh Havi (Harvey, 1578-1657) v.v...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, về lĩnh vực triết học cũng có một bước tiến quan trọng. Người mở đầu cho trường phái triết học duy vật thời phục hưng là Phranxít Bâycơn (Francis Bacon 1561-1626) nhà triết học người Anh. Ông rất đề cao nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại Đêmôcrít, trái lại kịch liệt phê phán chủ nghĩa duy tâm của Xôcrát và Platông, công kích triết học kinh viện chỉ thích sùng bái quyền uy và tín ngưỡng ngẫu tượng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài ra còn có nhiều học giả nhờ giỏi cổ văn đã tập trung sức lực vào công việc khảo cứu mà trong đó tiêu biểu nhất là Vala (1407-1457) người Ý. Ông đã chứng minh được rằng <em>“Bức thư trao tặng của hoàng đế Cônxtăngtinút”</em> là một văn kiện giả do tòa thánh La Mã ngụy tạo ra từ thế kỷ IX. Nội dung của bức thư đó nói rằng khi dời đô sang Côngxtăngtinôplơ, hoàng đế Cônxtăngtinút đã nhường quyền thống trị Tây Âu cho tòa thánh La Mã. Nhưng Vala đã chỉ ra rằng xét về mặt lịch sử, việc đó không thấy ghi chép ở bất cứ một tài liệu nào và về mặt ngôn ngữ thì trong bức thư có nhiều từ gốc Giécmanh mà thời Cônxtăngtinút chưa có.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tóm lại, sau gần 1000 năm chìm lắng, đến </span><a href="https://vnkienthuc.com/threads/chien-tranh-tren-the-gioi-va-su-pha-hoai-khung-khiep-cua-chien-tranh.79173/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">thời Phục hưng</span></a><span style="font-size: 18px">, nền văn học Tây Âu đã có một bước tiến lớn lao và đã để lại nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật bất hủ và những thành tựu khoa học lỗi lạc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">(Còn Tiếp)</span></strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"><span style="color: rgb(65, 168, 95)"></span></span></p><p><span style="font-size: 18px"><span style="color: rgb(65, 168, 95)"><strong>Nguồn :</strong> Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục </span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 179925, member: 288054"] [SIZE=5][B]2. Những thành tựu chính[/B] Là một bước nhảy vọt về văn hóa, [/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-trung-dai-the-ky-v-xvi.109/'][SIZE=5]phong trào Văn hóa phục hưng[/SIZE][/URL][SIZE=5] đã đạt được những thành tựu rực rỡ về mọi mặt, đặc biệt là về văn học nghệ thuật. [B]a) Văn học[/B] Nền Văn học thời Phục hưng về cả ba thể loại thơ, tiểu thuyết và kịch đều có những tác phẩm có giá trị gắn liền với tên tuổi nhiều tác giả nổi tiếng. [B]- [I]Thơ:[/I][/B] Nhà thơ nổi tiếng nhất đồng thời là người mở đầu cho phong trào Văn hóa phục hưng là [I]Đantê[/I](1265-1321). Đantê xuất thân trong một gia đình kỵ sĩ suy tàn ở Phirenxê, cha ông là một luật sư. Đantê không chống tôn giáo nhưng căm ghét giáo hội và giáo hoàng, mong muốn nước Ý được thống nhất. Lúc bấy giờ ở Phirenxê đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa đảng Trắng (phái ủng hộ vua) và đảng Đen (phái ủng hộ giáo hoàng). Đantê tham gia đảng Trắng và năm 1300 được bầu làm một quan chấp chính của Phirenxê. Nhưng mới được hai tháng thì đảng Trắng thất bại, ông bị trục xuất khỏi Phirenxê và phải sống lưu vong ở các thành thị miền Nam Ý cho đến khi chết. Tác phẩm trong thời kỳ đầu của ông là [/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-trung-dai-the-ky-v-xvi.109/'][SIZE=5][I]Cuộc đời mới[/I][/SIZE][/URL][SIZE=5][I].[/I] Đây là tác phẩm Đantê viết để tưởng nhớ người bạn gái thời thơ ấu của ông là Bêatơrít (Beatrix). Bêatơrít là một cô gái ngây thơ xinh đẹp mà ngay từ hồi mới 9 tuổi ông đã đem lòng yêu mến, nhưng về sau vì rụt rè, nàng tưởng ông không yêu nên đi lấy chồng và chẳng may chết sớm. Ông hết sức ân hận và thương xót nên viết tác phẩm này. Tác phẩm lớn nhất của Đantê là [I]Thần khúc[/I] (La Divine comédie). Tác phẩm này ông đã viết trong suốt 20 năm sống lưu vong và cho đến khi chết cũng chưa hoàn thành trọn vẹn. Toàn bộ tập thơ gồm 100 chương, ngoài chương lời tựa, nội dung chính chia làm ba phần là địa ngục, tĩnh giới (nơi rửa tội) và thiên đường, mỗi phần gồm 33 chương. Nội dung tác phẩm kể về một giấc mộng trong đó tác giả được nhà thơ nổi tiếng của La Mã cổ đại là Viếcgiliut dẫn đi xem địa ngục và tĩnh giới, tiếp đó được Bêatơrít dẫn đi xem thiên đường. Về hình thức “Thần khúc” giống như một tập trường ca kiểu cũ, trong đó dùng địa ngục và thiên đường làm bối cảnh và sử dụng nhiều điển tích thần học nhưng nội dung tư tưởng thì hoàn toàn mới. Ngoài Đantê còn có nhà thơ trữ tình Pêtơraca (1304-1374). Thi phẩm của ông là tập thơ ca ngợi tình yêu tặng nàng Lôra, người mà ông yêu suốt đời và trở thành bất tử trong thơ của ông. Tập thơ này được coi là mẫu mực của thơ trữ tình Ý. -[/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/'][SIZE=5] Tiểu thuyết[/SIZE][/URL][SIZE=5]: Về lĩnh vực này trước hết phải kể đến Bôcaxiô (1313-1375), nhà văn Ý được đặt ngang hàng với hai nhà thơ Đantê và Pêtơraca và được gọi chung là “Ba tác giả lỗi lạc”. Tác phẩm nổi tiếng của ông là tập truyện ngắn [I]Mười ngày[/I] (Decameron). Tác phẩm này gồm 100 câu chuyện do 3 chàng kỵ sĩ trẻ và 7 cô gái kể cho nhau nghe để đỡ buồn trong mười ngày về sống tại một ngôi nhà ở nông thôn để tránh nạn dịch hạch xảy ra ở Phirenxê năm 1348. Bằng lối văn châm biếm dí dỏm, các câu chuyện ấy hoặc là kể lại những truyện trong thần thoại và truyền thuyết, hoặc là những câu chuyện của phương Đông, nhưng nhiều nhất là những câu chuyện khai thác trong xã hội đương thời trong đó đề cập đến nhiều đối tượng như lái buôn, tu sĩ, giáo sĩ, quý tộc... “Mười ngày” của Bôcaxiô là một tác phẩm có tính chất vạch thời đại trong lịch sử văn học châu Âu. Sau khi [/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/'][SIZE=5]phong trào Văn hóa phục hưng lan rộng [/SIZE][/URL][SIZE=5]sang các nước Tây Âu khác, ở Pháp và Tây Ban Nha đã xuất hiện hai nhà văn nổi tiếng, đó là Rabơle và Xécvăngtét. [I]Rabơle[/I] (Francois Rabelais 1494-1553) lúc còn nhỏ đi tu, sau ra khỏi tu viện học ngành y và khoa học tự nhiên, đã từng làm thầy thuốc. Ông còn tinh thông về các mặt văn học, triết học, pháp luật, thực vật học, kiến trúc. Tác phẩm chủ yếu của ông là tiểu thuyết trào phúng [I]Gácgăngchuya và Păngtagruyen[/I] nội dung như sau: Gácgăngchuya là một người khổng lồ. Vừa mới lọt lòng mẹ đã đòi “Uống”. Người ta phải lấy sữa của 170.913 con bò cho uống mới đủ. Con của Gácgăngchuya là Păngtagruyen cũng là một người khổng lồ. Anh có một người bạn tên là Panuyếcgiơ. Sau khi đôi bạn này đi đánh thắng giặc ngoại xâm trở về Panuyếcgiơ có một băn khoăn là có nên lấy vợ hay không. Không ai giải đáp được thắc mắc đó, hai người phải đi đến xứ Cate (Trung Quốc) để hỏi lọ nước thần. Chính trong cuộc hành trình ấy họ đã đặt chân tới nhiều xứ sở kỳ lạ như đến hòn đảo của những người chuyên giơ lưng chịu đấm để đòi tiền bồi thường, đến hòn đảo của các loài chim chỉ biết hót và ăn cho béo, lại đến hòn đảo của loài mèo xồm chuyên môn ăn hối lộ... Cuối cùng họ đã đến được ngôi đền “Lọ nước thần” và được nghe phán mỗi một tiếng “Uống!”. Về bề ngoài, tác phẩm này có vẻ hoang đường, nhưng nội dung lại nói về những người thực, việc thực trong xã hội lúc bấy giờ, đó là giáo hoàng, giáo sĩ, vua, quan, là cuộc sống lười biếng ăn bám, là những việc làm xấu xa đầy rẫy trong cuộc sống hàng ngày... vì vậy đây là một tác phẩm hiện thực phê phán rất có giá trị. [I]Xécvăngtét[/I] (Miguel de Cervantes 1547-1616) là một nhà văn lớn và là kẻ đặt nền móng cho nền văn học mới ở Tây Ban Nha. Xécvantét xuất thân từ một gia đình quý tộc sa sút, thời trẻ tính thích mạo hiểm, đã tham gia đánh quân Thổ Nhĩ Kỳ ở trận Lêpăngtơ ở Hy Lạp (năm 1571). Vì bị thương, ông bị bọn giặc biển bắt làm tù binh. Sau 5 năm ông trốn thoát được về quê hương, nhưng từ đó ông ngày càng nghèo túng, phải ra làm một chức quan nhỏ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, đồng thời cũng là một kiệt tác của nền văn học thế giới là Đông Kisốt (Don Quichotte). Nội dung như sau: Ông Kixana là một quý tộc nhỏ sa sút, người cao gầy, 50 tuổi vẫn chưa có vợ. Thế nhưng vì chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết, ông quyết định mình phải trở thành một hiệp sĩ đi ngao du khắp thiên hạ để dẹp mọi chuyện bất bình. Để chuẩn bị lên đường, Kixana tự đặt cho mình một cái tên quý tộc thật kêu là Đông Kisốt xứ Măngsơ, lại dụ dỗ được Xăngsô, một nông dân chất phác làm giám mã cho mình. Hơn nữa, để cho đầy đủ tiêu chuẩn của một kỵ sĩ, ông tôn thờ một cô thôn nữ làng bên mà ông chưa quen biết làm “bà chúa của lòng mình” và gọi nàng bằng một cái tên duyên dáng - nàng Đunxinê xứ Tôbôxô. Với bộ trang phục kỵ sĩ do tổ tiên để lại, Đông Kisốt cưỡi một con ngựa gầy cùng với Xăngsô béo lùn cưỡi một con lừa thấp lè tè bắt đầu bước vào con đường giang hồ. Từ đó Đông Kisốt có nhiều hành động vừa buồn cười, vừa đáng thương, như chiến đấu với cối xay gió vì tưởng đó là ma quỷ khổng lồ, đánh đàn cừu đang gặm cỏ vì tưởng đó là đoàn quân tà giáo..., và tất nhiên Đông Kisốt đều phải trả giá. Cuối cùng vì đấu kiếm thua hiệp sĩ Vừng Trăng, và theo lời cam kết ban đầu, Đông Kisốt buộc phải trở về quê cũ, chấm dứt cuộc đời giang hồ với những việc làm điên rồ của mình. Trong tác phẩm này, Đông Kisốt được miêu tả thành một người có phẩm chất cao quý, là kẻ bảo vệ tự do và chính nghĩa. Người nông dân Xăngsô cũng được khắc họa thành một người tuy có vẻ ngây ngô nhưng lại thông minh lanh lợi, chí công vô tư. Xây dựng một người nông dân thành một trong hai nhân vật chính của tác phẩm và gán cho nhân vật ấy những phẩm chất tốt đẹp như vậy, đó là điều rất hiếm lúc bấy giờ. [B]- [I]Kịch:[/I][/B] Tác giả tiêu biểu của nghệ thuật kịch thời Phục hưng, đồng thời là người tiêu biểu cho nền văn hóa Anh thời kỳ này là Sếchxpia (William Shakespeare, 1564-1616). Trước Sếchxpia việc diễn kịch trong dân gian ở nước Anh đã rất thịnh hành. Từ năm 1580 về sau, nghệ thuật kịch nói của Anh càng phát triển. Lúc bấy giờ, ở Luân Đôn chỉ có 20 vạn người mà có đến 8 rạp kịch. Kế thừa truyền thống của đất nước và tinh hoa của kịch Hy Lạp và La Mã cổ đại, Sếchxpia đã đưa nghệ thuật kịch lên tuyệt đỉnh. Trong 20 năm hoạt động sáng tác (15921612), Sếchxpia đã để lại 36 vở kịch gồm hài kịch (như các vở [I]Đêm thứ mười hai, Theo đuổi tình yêu vô hiệu, Người lái buôn thành Vênêxia),[/I] bi kịch (như các vở [I]Rômêô và Giuliét, Hămlét, Ôtenlô, Vua Lia, Mácbét...)[/I], kịch lịch sử như [I]Risớt II, Risớt III, Henri IV...[/I] Trong các tác phẩm của mình, Sếchxpia đã đưa lên sân khấu các nhân vật thuộc tất cả các tầng lớp trong xã hội từ vua quan, tướng lĩnh, giáo sĩ, thương nhân cho đến con sen, thằng nhỏ... và đã đề cập đến nhiều mặt, nhiều mâu thuẫn phức tạp trong cuộc sống xã hội vào giai đoạn chế độ phong kiến đang suy tàn và chủ nghĩa tư bản bắt đầu xuất hiện. [B]b) Nghệ thuật[/B] Cũng như văn học, Ý mà trước hết là Phirenxê là nơi xuất phát đầu tiên của nền nghệ thuật thời Phục hưng. Trong hai thế kỷ XIV và XV, nền nghệ thuật ở đây gắn liền với tên tuổi của các họa sĩ và nhà điêu khắc nổi tiếng như Giốttô (1266-1337), Maxasiô (1401-1428), Đônatenlô (1386-1466), Vêrôsiô (14351488), Bốttixenli (1444-1510) v.v... [I]Giốttô[/I] là người mở đầu cho xu hướng hiện thực chủ nghĩa trong hội họa, không những vì các nhân vật trong tranh sinh động mà còn vì họa pháp lập thể do ông thể hiện. [I]Maxasiô,[/I] mặc dầu chết yểu (27 tuổi), là người đã phát triển chủ nghĩa hiện thực trong hội họa thêm một bước, đồng thời là người phát hiện ra quy luật viễn cận. Tác phẩm tiêu biểu của ông là [I]Ađam và Evơ bị đuổi khỏi thiên đường.[/I] [ATTACH=full]2863._xfImport[/ATTACH] Bốttixenli được gọi là “nhà thơ họa sĩ”. Các tác phẩm [I]Sự ra đời của thần Vênút, Mùa xuân...[/I] của ông mang đầy chất thơ nhờ nhân vật xinh đẹp, dịu dàng, màu sắc hài hòa... Đặc điểm chung của nghệ thuật hội họa thời kỳ này là tuy đề tài vẫn khai thác trong kinh thánh hoặc thần thoại, nhưng nội dung thì hoàn toàn hiện thực. Sang đầu thế kỷ XVI, nền nghệ thuật thời Phục hưng đạt đến đỉnh cao của nó. Những thành tựu tuyệt vời về hội họa và điêu khắc gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà danh họa mà trong đó nổi tiếng nhất là Lêônácđô đơ Vanhxi, Mikenlăngiơ và Raphaen. [/SIZE] [URL='https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/'][SIZE=5][I]Lêônácđô đơ Vanhxi[/I] (1452-1519)[/SIZE][/URL][SIZE=5] sinh ở thành phố Vinxi gần Phirenxê, xuất thân trong một gia đình trung lưu. Ông không những là một họa sĩ lớn mà còn là một người có kiến thức uyên bác về toán học, vật lý học, thiên văn học, địa lý học, giải phẫu học, triết học, âm nhạc, điêu khắc. Đặc điểm nghệ thuật hội họa của Lêônácđô đơ Vanhxi là thiên về mô tả tính cách và hoạt động nội tâm của nhân vật. Những tác phẩm tiêu biểu của ông là [I]Bữa tiệc cuối cùng, Đức mẹ đồng trinh trong hang đá, Nàng Giôcông.[/I] Bức tranh “Bữa tiệc cuối cùng”, dựa vào câu chuyện trong bữa tiệc chia tay nhau, Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ của mình rằng: “Trong các ngươi sẽ có một kẻ phản bội ta”. Bức tranh đã thể hiện được nội tâm của các nhân vật dự tiệc khi nghe câu nói đó: người thì ngạc nhiên, người thì tức giận, người thì buồn bã, người thì biểu thị sự ngay thẳng trung thực của mình... Đây là một bức tranh rất hoàn hảo về mô tả nhân vật, bố cục và màu sắc. “Nàng Giôcông” (Joconde) là bức vẽ một phụ nữ thị dân Phirenxê tên là Môna Lida. Trong tác phẩm này Vanhxi đã vẽ lên được cái vẻ đẹp đầy sức sống của một người đàn bà trẻ, trong đó đặc biệt nhất là cái mỉm cười kín đáo thể hiện sự sâu sắc của nội tâm. [ATTACH=full]2864._xfImport[/ATTACH] Mikenlăngiơ (1475-1564) sinh ở Tôxcan (Ý), là một họa sĩ, một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời là một kiến trúc sư và là một thi sĩ. Về hội họa, tác phẩm tiêu biểu của ông là [I]Sáng tạo thế giới[/I] và [I]Cuộc phán xét cuối cùng.[/I] Bức tranh “Sáng tạo thế giới” vẽ trên trần nhà thờ Xixtin ở La Mã, trong đó có 343 nhân vật mà mỗi người đều lớn gấp mấy người thật và người nào cũng tỏ ra có một sức lực vô tận, do đó đã làm tăng thêm sự hùng vĩ của nhà thờ. Để vẽ bức tranh lớn này, Mikenlăngiơ đã phải nằm ngửa trên giàn giáo lao động suốt 4 năm trời (15081512). Còn bức tranh “Cuộc phán xét cuối cùng” thì vẽ trên tường nhà thờ Xixtin. Trong bức bích họa này, tác giả đã vẽ nhiều người chui từ trong mộ ra để nghe xét xử, họ tỏ ra rất đau khổ, quằn quại nhưng không biết làm thế nào. Ngay chúa Giêsu đứng trên trời cao cũng mất đi cái vẻ trang nghiêm vốn có mà tỏ ra đang vô cùng thương xót chúng sinh. Về điêu khắc, các bức tượng [I]Đavít, Môidơ, Đêm, Người nô lệ bị trói[/I] v.v... là những tác phẩm tương đối tiêu biểu, đặc biệt, tượng Đavít[URL='https://vi.kipkis.com/V%C4%83n_h%C3%B3a_T%C3%A2y_%C3%82u_th%E1%BB%9Di_ph%E1%BB%A5c_h%C6%B0ng#cite_note-1'][1][/URL] tạc bằng đá cẩm thạch, cao 5,30m. Khác với thần thoại trong kinh thánh, Mikenlăngiơ không thể hiện Đavít thành một thiếu niên mà thành một lực sĩ đầy sức mạnh. Vì vậy năm 1504, tượng này được dựng tại một quảng trường ở Phirenxê để thể hiện tinh thần của kẻ thống trị phải anh dũng bảo vệ thành phố. Về kiến trúc, ông là người thiết kế đầu tiên nhà thờ Xanh Pie ở La Mã. Tuy công trình kiến trúc nổi tiếng này mãi đến năm 1626, tức là sau khi ông chết 62 năm, mới được hoàn thành, nhưng mái tròn của nhà thờ do ông thiết kế khác hẳn với mái nhọn kiểu Gôtích truyền thống. [ATTACH=full]2865._xfImport[/ATTACH] [I]Raphaen[/I] (1483-1520) cũng là một họa sĩ thiên tài của Ý. Tuy ông chết tương đối sớm (37 tuổi) nhưng ông đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như [I]Cô gái làm vườn xinh đẹp,[/I] các bức tranh vẽ về thánh mẫu... Ông là một họa sĩ có sở trường về vẽ chân dung, đặc biệt là thể hiện được một cách sống động vẻ đẹp tươi tắn của các cô gái, vẻ hiền hậu dịu dàng của người mẹ và nét ngây thơ đáng yêu của các em bé. Ngoài Ý, từ thế kỷ XVI về sau, các nước Phlăngđrơ, Hà Lan, Đức, Pháp... cũng có nhiều họa sĩ nổi tiếng như [I]Mátxít[/I] (Quentin Matsys) người Phlăngđrơ, [I]Lucát đơ Lâyđơ[/I] người Hà Lan, [I]Anbrết Đuyrê[/I] (Albrecht Diirer) người Đức, [I]Lơ Nanh[/I] người Pháp v.v... Đề tài của các tác phẩm của họ thường là những cảnh đẹp trong thiên nhiên, những hoạt động trong đời sống hàng ngày của những con người bình thường mà bức tranh [I]“Bữa ăn của những người nông dân”[/I] của Lơ Nanh là một ví dụ tiêu biểu. [B]c) Khoa học tự nhiên và triết học.[/B] Thời Phục hưng, các ngành khoa học tự nhiên và triết học cũng có những thành tựu lớn lao, trong đó đặc biệt quan trọng là về thiên văn học. Nhà bác học lớn mở đầu cho một bước nhảy vọt về khoa học tự nhiên thời Phục hưng là [I]Nicôla Côpécních[/I] (1473-1543). Ông vốn là một giáo sĩ người Ba Lan, nhưng qua nhiều năm nghiên cứu, ông đã nêu ra một thuyết về vũ trụ chống lại thuyết của nhà thiên văn học cổ đại Ptôlêmê đã ngự trị ở châu Âu suốt 14 thế kỷ. Plôtêmê cho rằng quả đất đứng yên ở trung tâm vũ trụ, mặt trời và các hành tinh quay xung quanh trái đất. Trái lại, Côpécních cho rằng trung tâm của vũ trụ không phải là trái đất mà là mặt trời, không phải mặt trời quay xung quanh trái đất mà trái đất tự quay xung quanh nó và quay xung quanh mặt trời; thể tích của quả đất nhỏ hơn thể tích của mặt trời rất nhiều. Phát hiện mới ấy của ông được trình bày trong tác phẩm [I]Bàn về sự vận hành của các thiên thể.[/I] Tác phẩm này ông hoàn thành vào khoảng năm 1536, nhưng vì sợ bị giáo hội kết tội dị đoan nên mãi đến trước khi chết mấy hôm ông mới công bố (1543). Người tích cực hưởng ứng học thuyết của Côpécních là nhà thiên văn học và là nhà triết học Ý Gioócđanô Brunô (15481600). Ông cũng vốn là một giáo sĩ, nhưng trong khi giáo hội cấm lưu hành tác phẩm của Côpécních thì ông lại phát triển thêm một bước cho rằng vũ trụ là vô tận, mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là trung tâm của Thái dương hệ chúng ta, ngoài ra còn có rất nhiều thái dương hệ khác. Ông còn chứng minh rằng vật chất luôn luôn vận động, luôn luôn biến đổi và tồn tại vĩnh viễn. Một nhà thiên văn học Ý khác là [I]Galilê[/I] (1564-1642) tiếp tục phát triển quan điểm của Côpécních và Brunô. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng phóng to gấp 30 lần để quan sát bầu trời. Ông đã chứng minh rằng mặt trăng cũng là một hành tinh giống như quả đất, bề mặt của nó cũng có núi non gồ ghề chứ không phải nhẵn bóng. Ông còn phát hiện được thiên hà là do vô số vì sao tạo thành, giải thích được cấu tạo của sao chổi. Ông cũng là người mở đầu cho ngành khoa học thực nghiệm, phát hiện ra các định luật rơi thẳng đứng và dao động của các vật thể. [ATTACH=full]2866._xfImport[/ATTACH] Đồng thời với Galilê, nhà thiên văn học Đức Kêplơ (Kepler, 1571-1630) đã phát minh ra ba quy luật quan trọng về sự vận hành của các hành tinh xung quanh mặt trời. Ngoài ra, các lĩnh vực khác như vật lý học, toán học, y học v.v... cũng có nhiều thành tựu quan trọng gắn liền với tên tuổi nhiều nhà bác học nổi tiếng. Những phát minh khoa học tương đối tiêu biểu trong số đó là hình học giải tích của nhà toán học Pháp Đêcáctơ (1596-1650), áp lực của chất lỏng của nhà vật lý học Ý Tôrixeli (1608-1647), thuật giải phẫu của nhà y học Nêđéclan Vêdalơ (Vésale, 1514-1564), sự tuần hoàn của máu của nhà y học Anh Havi (Harvey, 1578-1657) v.v... Trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, về lĩnh vực triết học cũng có một bước tiến quan trọng. Người mở đầu cho trường phái triết học duy vật thời phục hưng là Phranxít Bâycơn (Francis Bacon 1561-1626) nhà triết học người Anh. Ông rất đề cao nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại Đêmôcrít, trái lại kịch liệt phê phán chủ nghĩa duy tâm của Xôcrát và Platông, công kích triết học kinh viện chỉ thích sùng bái quyền uy và tín ngưỡng ngẫu tượng. Ngoài ra còn có nhiều học giả nhờ giỏi cổ văn đã tập trung sức lực vào công việc khảo cứu mà trong đó tiêu biểu nhất là Vala (1407-1457) người Ý. Ông đã chứng minh được rằng [I]“Bức thư trao tặng của hoàng đế Cônxtăngtinút”[/I] là một văn kiện giả do tòa thánh La Mã ngụy tạo ra từ thế kỷ IX. Nội dung của bức thư đó nói rằng khi dời đô sang Côngxtăngtinôplơ, hoàng đế Cônxtăngtinút đã nhường quyền thống trị Tây Âu cho tòa thánh La Mã. Nhưng Vala đã chỉ ra rằng xét về mặt lịch sử, việc đó không thấy ghi chép ở bất cứ một tài liệu nào và về mặt ngôn ngữ thì trong bức thư có nhiều từ gốc Giécmanh mà thời Cônxtăngtinút chưa có. Tóm lại, sau gần 1000 năm chìm lắng, đến [/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/threads/chien-tranh-tren-the-gioi-va-su-pha-hoai-khung-khiep-cua-chien-tranh.79173/'][SIZE=5]thời Phục hưng[/SIZE][/URL][SIZE=5], nền văn học Tây Âu đã có một bước tiến lớn lao và đã để lại nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật bất hủ và những thành tựu khoa học lỗi lạc. [B][COLOR=rgb(65, 168, 95)](Còn Tiếp)[/COLOR][/B] [COLOR=rgb(65, 168, 95)] [B]Nguồn :[/B] Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục [/COLOR][/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Trung Đại ( Thế kỷ V - XVI )
Văn hóa Tây Âu thời phục hưng
Top