• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân việt nam thời trung đại

Tớ nhớ cậu

New member
Xu
0
[FONT=&amp]
VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT TRONG PHONG TRÀO NÔNG DÂN VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI
[/FONT]​

[FONT=&amp] Nông dân – giai cấp đông đảo và cách mạng nhất đã và đang trở thành nguồn xung lực to lớn đối với công cuộc giành độc lập dân tộc, bảo vệ tổ quốc và sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân mà các nhà sử học ngay từ rất sớm, ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX vấn đề nông dân đã được đề cập thời trên các tạp chí hay in ấn thành sách tham khảo, trong đó nổi lên là phong trào đấu tranh của nông dân trong lịch sử chế độ phong kiến. Trong rất nhiều nghiên cứu về phong trào nông dân, bài thảo luận dưới đây xin được đề cập tới một vấn đề quan trọng trong cuộc đấu tranh ấy: đó chính là vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại.[/FONT]



Trong quá trình nghiên cứu về giai cấp nông dân, C.Mác từng kết luận rằng:“người nông dân không có điều kiện làm ăn sinh sống khi mà tô thuế ngày đêm thúc giục, hành hạ họ…ách tô thuế trở thành nguyên nhân trực tiếp đập vào mắt họ. Vì vậy yêu cầu trực tiếp là phải thoát ngay tình trạng đói nghèo để tiếp tục được sống, được đấu tranh”. Đó là nhận định của một trong những vị lãnh tụ sáng lập ra học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định tầm quan trọng của vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân? Nhận định trên liệu có đúng với vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại? Nghi vấn đó sẽ lần lượt được giải quyết bởi những luận điểm sau đây.



1. Vấn đề ruộng đất là nguyên nhân nhân sâu xa làm bùng nổ phong trào nông dân thời trung đại

Phong trào nông dân là một trong những nội dung quan trọng của lịch sử Việt Nam thời kì trung đại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc nông dân nổi dậy đấu tranh nhưng nguyên nhân chủ yếu, cơ bản, sâu xa dẫn đến phong trào nông dân là do nhu cầu ruộng đất.

Nông dân là lực lượng sản xuất chủ yếu, ruộng đất là tư liệu sản xuất chính trong xã hội phong kiến. Giữa hai thành tố ấy có mối quan hệ hữu cơ gắn bó, vấn đề nông dân không tách rời khỏi vấn đề ruộng đất. Giữa phong trào đấu tranh của nông dân và chế độ phân phối ruộng đất có quan hệ với nhau. Sự thiếu thốn ruộng đất chính là nguyên nhân sâu xa, cơ bản tác động đến nhiều mặt trong đời sống của người nông dân dẫn đến việc bùng nổ các cuộc khởi nghĩa, nông dân nghèo cầm vũ khí đấu tranh quyết liệt đổ máu để giữ lấy mảnh đất nhỏ bé của mình, chống lại sự cướp đoạt của địa chủ, hoặc giành lại những ruộng đất đã mất vào tay địa chủ.

Thời kì trung đại, ruộng đất mà người nông dân cày cấy là ruộng đất công làng xã. Cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến, chế độ sở hữu ruộng đất cũng có nhiều thay đổi. Chính sự suy sụp của ruộng đất công làng xã và sự phát triển mạnh mẽ của ruộng đất tư hữu cùng những tác động của các nhân tố khách quan và chủ quan khác đã đẩy bộ phận nông dân vào tình trạng phiêu tán, đời sống khó khăn, cực khổ và cuối cùng là buộc họ phải nổi dây chống lại nhà nước phong kiến.

Có nhiều nhân tố tác động làm cho chế độ sở hữu tư về ruộng đất ngày càng phát triển, nhưng trong đó có hai nhân tố cơ bản đó là chính sách của nhà nước đối với ruộng đất và hoạt động kiêm tính ruộng đất của địa chủ, cường hào.

1.1. Chính sách của Nhà nước

Các cuộc khởi nghĩa của nông dân là một hiện tượng lịch sử đặc biệt trong lịch sử, khởi nguồn của nó chủ yếu xuất phát từ chính sách ruộng đất do giai cấp cầm quyền thực hiện. Đối với người nông dân thời trung đại, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của họ, sự nổi dậy của phong trào nông dân phần lớn do vấn đề ruộng đất. Và sự phát triển của phong trào nông dân trong một giai đoạn lịch sử như thế nào, tùy thuộc vào chính sách ruộng đất của Nhà nước và tình hình ruộng đất.

Trong xã hội phong kiến Việt Nam, chế độ sở hữu công về ruộng đất là cơ sở tồn tại của nhà nước phong kiến và tồn tại song song với chế độ sở hữu tư của xã hội đương thời. Bên cạnh ruộng công đến thời Trần, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất đã phát triển bước cao hơn sơ với giai đoạn trước. Năm 1253 nhà Trần còn cho bán cả công điền cho nông dân làm ruộng tư nữa “Cứ mỗi diện rộng, cho phép dân được bỏ ra 5 quan tiền, mua làm ruộng tư”. Đặc biệt, nhà Trần khuyến khích công hầu, công chúa khai hoang lập điền trang cho nên chế độ điền trang, thái ấp phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của điền trang đã đẩy mạnh sở hữu ruộng đất lớn của quý tộc Trần, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ cho hình thái kinh tế phong kiến. Nhưng vào cuối thời Trần, đời sống của nông nô, nô tì trong điền trang bị bóc lột triệt để trở nên hết sức khổ cực, nông dân nghèo bị nông nô hóa đã dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt và phong trào nông dân khởi nghĩa cuối thời Trần.

Bước sang thế kỷ XV, là giai đoạn phồn thịnh của chế độ quân chủ phong kiến, là giai đoạn thái bình thịnh trị nhất của chế độ phong kiến. Sau khi Lê Lợi lên nắm chính quyền việc đầu tiên là giải quyết vấn đề ruộng đất. Có thể thấy nét tiêu biểu trong chính sách ruộng đất của nhà Lê là việc ban hành chế độ lộc điền – phép quân điền năm 1477, thời Hồng Đức. Chế độ lộc điền thời Lê thay thế chế độ thái ấp điền trang thời Lý – Trần, nó không tạo điều kiện cho yếu tố cát cứ phát triển. Một số ruộng thế nghiệp của lộc điền có xu hướng trở thành ruộng tư, người được cấp trở thành quan liêu – địa chủ. Lộc điền là chế độ ruộng ban cấp cho công thần, quan lại, quý tộc: ngoài tước hiệu, mỗi người được 500 mẫu. Đến thời Lê Thánh Tông ban hành chế độ lộc điền, quy định mỗi chức tước được cấp một số lượng nhất định.

Về chính sách ‘quân điền” được thực hiện dưới thời Lê Thái Tổ và hoàn thiện dưới thời vua Lê Thánh Tông. Đối tượng được chia ruộng kể từ các quan tam phẩm (nếu chưa có hoặc có ít ruộng lộc điền) được chia 11 phần tới các cô nghi, quả phụ được 3 phần. Người cày ruộng phải nộp tô cho Nhà nước. Đây là chính sách tiến bộ, tích cực của nhà Lê trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất cho nhân dân sản xuất, ai nấy đều có ruộng cày cấy, cuộc sống yên ổn, không có lọan lạc chiến tranh.

Dưới thời trị vì của vị vua đầu nhà Lê, đã ban hành chính sách ruộng đất tiến bộ đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời chăm lo, quản lý tích cực mọi mặt của đất nước đã tạo nên tình hình kinh tế - xã hội ổn định, đời sống nhân dân ấm no. Vì thế, thời kỳ đầu của nhà nước Lê sơ không có một cuộc nổi dậy nào của nhân dân đứng lên chống lại nhà nước. Qua đó thể hiện sự hài hòa, tương khích giữa chính sách ruộng đất và phong trào nông dân.

Bước sang thế kỷ XVI, nhà nước phong kiến của triều Lê không còn thịnh trị như trước, dấu hiệu phong trào nông dân xuất hiện, cho thấy chính sách ruộng đất thời kỳ này tỏ ra mâu thuẫn với nhân dân, nó xuất phát từ chính sách của nhà cầm quyền. Ruộng công lãng xã bị xâm lấn, chính sách quân điền bị phá sản. Năm 1510, Lê Tương Dực còn cho phép các công thần được tìm kiếm những ruộng đất ẩn lậu báo lên triều đình làm ruộng tư. Điều đó tạo điều kiện cho quan lại, cường hào cướp đoạt ruộng đất của dân, gây nên phản ứng mạnh mẽ trong thôn xóm. Sự suy thoái về chính trị, cùng với chính sách của nhà nước đối với nền nông nghiệp trong đó chế độ ruộng đất ngày càng đi vào bế tắc, thêm vào đó là tình trạng chấp chiếm, cướp đoạt ruộng đất của bọn quan lại, cường hào…làm cho nông dân không có ruộng đất để cày cấy, người dân nhiều nơi phải xiêu tán. Điều này dẫn đến sự bùng nổ các cuộc đấu tranh của nông dân chống lại triều đình phong kiến thối nát.

Từ nửa đầu thế kỷ XVIII, sự chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của địa chủ trở thành hiện tượng phổ biến, ruộng tư ngày càng phát triển. Ruộng đất công làng xã phần lớn bị nhà nước cắt xén để ban cấp cho quan lại và quân lính, nên số ruộng đất chia cho nông dân còn lại ngày càng ít. Hàng loạt nông dân bị gạt ra khỏi ruộng đất, hoặc cố bám lấy mảnh ruộng “chết đói” để gắng gượng một cuộc sống hết sức cơ sực. Xuất phát từ lợi ích và sự tồn vong của nhà nước quân chủ, các chúa Trịnh nhiều lần ra lệnh nghiêm cấm việc kiêm tinh ruộng đất của giai cấp địa chủ, nhưng lệnh cấm của nhà nước cũng không mấy hiệu quả. Năm 1740, Trịnh Doanh phải đề ra biện pháp giải quyết vấn đề ruộng đất, có ý muốn phỏng theo chế độ “tỉnh điền” đời Chu (Trung Quốc) để “quân bình giàu nghèo”, “chia đều thuế dịch”…nhưng không thực tế và không thể thực hiện được, nó chứng tỏ tính chất nghiêm trọng của vấn đề ruộng đất và sự bế tắc, bất lực của nhà Lê – Trịnh trong việc giải quyết vấn đề. Ở thế kỷ XVIII, do chế độ bán quan mua tước phổ biến nên nhà nước có lệ người nào nộp tiền thì được làm quan. Do đó, giai cấp địa chủ giàu có đã bỏ tiền của để mua quan tham gia chính quyền. Với chức vụ mới và lợi dụng chức vụ, chúng càng ra sức bóc lột nhân dân, xâm chiếm ruộng đất và ức hiếp nhân dân. Nông dân mất ruộng đất càng bị địa chủ bóc lột nặng nề, nền kinh tế tiểu nông càng bị phá hoại.

Cùng với đó, nhà nước thực hiện chính sách thuế khóa nặng nề và những thủ đoạn bóc lột tàn bạo đối với nông dân. Năm 1741, “vì dụng binh phải tiêu tốn, bổ thêm thuế ruộng công ruộng tư mỗi mầu hai tiền quý”. Họ Trịnh còn đánh thuế cả những ruộng đất không sản xuất được như đồng chua, nước mặn…Thuế khóa nặng nề chồng chất đến nỗi người nông dân cùng khổ quanh năm bòn vét cũng không đủ nộp thuế, dân chúng ngày một cùng quẫn. Từ đó làm cho mâu thuẫn có tính đối kháng trong xã hội phong kiến Đàng Ngoài trở nên quyết liệt.

Cũng giống như ở Đàng Ngoài, từ nửa cuối thế kỷ XVIII, giai cấp thống trị từ vua, chúa, quan lại đua nhau ăn chơi xa xỉ, sa đọa, không quan tâm đến đời sống nhân dân. Từ thế kỷ XVII, tình hình chiếm đoạt ruộng đất và tập trung ruộng đất đã diễn ra phổ biến ở Đàng Trong và sang thế kỷ XVIII, có nhiều thôn xã ruộng công bị xâm chiếm hay cầm bán gần hết “đến nỗi nông dân không có ruộng làm nghề sinh sống”. Chính sách thuế khóa của chính quyền họ Nguyễn rất nặng nề, phức tạp. Những tệ nạn tham ô của quan lại càng làm cho đời sống của nhân dân thêm điêu đứng. Mâu thuẫn chất chứa trong xã hội Đàng Trong ngày càng gay gắt và bùng nổ thành cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu khởi nghĩa Tây Sơn.

Bước sang nửa đầu thế kỷ XIX, ruộng đất công làng xã trong toàn quốc bị thu hẹp rất nhiều, sở hữu tư nhân về ruộng đất chiếm đại bộ phận. Trước thực trạng đó, vương triều Nguyễn đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách về ruộng đất. Năm 1804, vua Gia Long cho ban hành “điền chế quân lệ”. Đến thời vua Minh Mạng, đã cho thực hiện phép quân điền ở Bình Định, bước đầu thu được kết quả, nhưng thực tế ruộng đất nằm trong tay giai cấp địa chủ, người nông dân chỉ được ruộng xấu, khô cằn. Trong khi ruộng đất công làng xã bị thu hẹp vì nạn kiêm tính ruộng đất, triều Nguyễn thi hành chế độ thuế khóa khắt khe nhằm bảo đảm nguồn bóc lột chủ yếu của nhà nước phong kiến. Riêng về ruộng đất, nhà Nguyễn chia cả nước thành những khu vực đánh thuế khác nhau. Thuế ruộng đất ở Đàng Ngoài nặng hơn Đàng Trong hai lần. Những năm mất mùa, người dân không đủ thóc đống thuế, nhà nước thực hiện chính sách “đại nạp”, triều đình có lệnh thu giảm thuế cho dân, thì lại rơi vào túi quan lại thu thuế.

Nhìn chung, nửa đầu thế kỷ XIX, bản thân nhà nước có ý thức kiểm soát sự phát triển của ruộng tư, ổn định xã hội. Qua hàng loạt chính sách như khai hoang, quân điền, kêu gọi địa chủ hiến ruộng đất thay đổi tỉ lệ ruộng đất của đại địa chủ nhưng chỉ chính sách khai hoang phát huy hiệu quả, còn lại không mang lại kết quả như mong muốn của triều Nguyễn. Cho nên, nạn kiêm tính ruộng đất phát triển mạnh mẽ, tham nhũng, chế độ thuế khóa nặng nề…đã dẫn đến nạn dân phiêu tán, ruộng đất bỏ hoang và nạn đói diễn ra. Chính điều này là nguyên nhân sâu xa làm bùng nổ cuộc đấu tranh của nông dân diễn ra sôi nổi ngay từ đầu thời Nguyễn, chi phối mức độ, cường độ khởi nghĩa nông dân nửa đầu thế kỷ XIX.

Tóm lại, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và gắn liền với người nông dân nên những biến động về hình thái sở hữu ruộng đất và chính sách ruộng đất thường là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bùng nổ của khởi nghĩa nông dân. Điều này được thể hiện rất rõ qua các triều đại phong kiến nước ta, khi nhà nước đảm bảo ruộng đất cho người nông dân sản xuất và chăm lo đời sống của họ thì không có cuộc nổi dậy nào của nông dân (thời kỳ đầu nhà Lê sơ) chống lại nhà nước nhưng khi nhà nước suy yếu, chính sách ruộng đất của nhà nước không đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, ngược lại còn ban hành chế độ hà khắc, quan lại cướp đoạt ruộng đất, hà hiếp nhân dân…làm cho đời sống người nông dân cực khổ. Mâu thuẫn trong xã hội phong kiến gay gắt tất yếu dẫn đến sự bùng nổ của phong trào nông dân.

1.2 Hoạt động kiêm tính ruộng đất của địa chủ, quan lại, cường hào

Trong lịch sử trung đại Việt Nam, chế độ sở hữu công về ruộng đất là cơ sở tồn tại của nhà nước phong kiến và tồn tại song song với chế độ sở hữu tư. Nhà nước phong kiến quân chủ chuyên chế tồn tại dựa trên việc thu tô thuế từ ruộng đất công làng xã. Sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất đe dọa đến sự tồn tại của nhà nước phong kiến nhưng các triều đại phong kiến vẫn phải chấp nhận sự tồn tại của nó. Trong lịch sử, ruộng đất tư luôn luôn phát triển và có xu hướng lấn át ruộng công. Và một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của ruộng tư là hoạt động kiêm tính của quan lại, địa chủ, cường hào.

Giai cấp địa chủ phong kiến là một giai cấp cơ bản trong xã hội phong kiến châu Á. Trong suốt thời kì trung đại, vì quyền lợi của mình, giai cấp này luôn tìm cách chiếm đoạt ruộng đất công, biến thành sở hữu tư. Khi ruộng đất tư của địa chủ chưa phát triển thì diện tích công làng xã vẫn còn đủ đảm bảo cho nông dân những khẩu phần thích đáng. Nhưng khi giai cấp địa chủ đã lấn chiếm nghiêm trọng vào ruộng đất công làng xã thì mảnh ruộng khẩu phần dành cho nông dân ngày càng bị thu hẹp, thậm chí, sau khi chia ruộng đất cho các loại quan lại thì không còn ruộng đất chia cho nông dân nữa, tình trạng kiêm tính ruộng đất diễn ra ở mỗi triều đại.

Đặc biệt vào cuối mỗi triều đại, khi chính quyền trung ương suy yếu, các thế lực cát cứ lại nổi dậy, địa chủ lại lợi dụng thế lực của mình thôn tính ruộng đất.

Cuối thế kỉ XIV, địa chủ lợi dụng mất mùa đói kém xâm chiếm ruộng đất của nông dân, mua rẻ ruộng đất, mở rộng điền trang, tăng số người làm, nhiều nhà chùa cũng trở thành chủ đất lớn với nhiều điền nô.

Thế kỉ XV, chế độ phong kiến Việt Nam hoàn toàn được xác lập. Chính sách quân điền được ban hành. Trong bối cảnh ruộng đất công còn nhiều thì chế độ quân điền phát huy tác dụng. Thế nhưng đến cuối thời Lê, thế kỉ XVI, đất nước rơi vào khủng hoảng. Đại Việt sử kí toàn thư chép: “ Từ thời Đoan Khánh ,(tức Lê Uy Mục) nội triều can chính, ngoại thích chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỉ cương rối loạn, nông tang thất nghiệp, phong tục suy đồi, bọn quan lại địa chủ xâm chiếm ruộng đất của dân, cướp đoạt tài sản của dân”. Ruộng đất công làng xã bị lấn chiếm làm cho chính sách quân điền bị phá sản. Năm 1510, Lê Tương Dực còn cho phép các công thần được tìm kiếm những ruộng đất ẩn lậu báo lên triều đình làm ruộng tư. “Chỉ dụ đó khác nào nối giáo cho giặc, tạo điều kiện cho quan lại, hào cường cướp đoạt ruộng đất của dân”. Điều đó làm cho số lượng không nhỏ nông dân bị mất đất phải xiêu tán.

Sang thế kỉ XVII- XVIII, nền kinh tế hàng hóa xuất hiện ở nước ta cùng với sự nảy sinh của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Mặc dù nó chưa đủ điều kiện để tạo ra quan hệ sản xuất mới, làm tan rã quan hệ sản xuất phong kiến nhưng lại thể hiện khả năng và xu thế phát triển của nước ta lúc bấy giờ. Nhưng từ nửa đầu thế kỉ XVIII, cùng vơi sự sa đọa thối nát của chính quyền thống trị, sự bóc lột tàn bạo của địa chủ làm cho nền kinh tế tiểu nông bị phá sản, xô đẩy hàng loạt nông dân ra khỏi làng xã và đồng ruộng.

Thế kỉ XVIII, sự chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ trở thành hiện tượng phổ biến và hết sức nghiêm trọng. Đây là thời kì mà xã hội Đàng Ngoài chứng kiến một sự phát triển mạnh mẽ của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, phần lớn ruộng đất đã nằm trong tay giai cấp địa chủ phong kiến. Bằng nhiều hình thức và thủ đoạn, bọn địa chủ, quan lại, hào cường khắp mọi nơi chấp chiếm ruộng đất tư của nông dân, xâm chiếm ruộng đất công. Trước tình trạng địa chủ chiếm ruộng đất công, năm 1711, chúa Trịnh Cương đã ban hành chững chỉ dụ nhằm hạn chế sự tập trung ruộng đất vào tay địa chủ. Tuy nhiên, bất chấp chỉ lệnh của phủ chúa, giai cấp địa chủ vẫn ra sức chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Đến năm 1728, “ruộng đất rơi hết vào tay hào phú, còn dân nghèo thì không một miếng đất cắm dùi”.

Sang thế kỉ XIX, nạn kiêm tính ruộng đất lại diễn ra nghiêm trọng hơn. Chỉ tới đầu thế kỉ XIX, sở hữu tư nhân về ruộng đất đã chiếm vị trí bao trùm (83% diện tích ruộng đất của cả nước). Trong lịch sử chế độ ruộng đất Việt Nam, chế độ sở hữu tư về ruộng đất luôn bị nhà nước kiểm soát ở mức độ nhất định (chính sách hạn điền của Hồ Quý Ly thế kỉ XV). Vì vậy, vì lợi ích của mình, giai cấp địa chủ đã bằng mọi cách thao túng tổ chức làng xã. Bằng cách này, địa chủ vừa nhân danh làng xã trong mối quan hệ với nhà nước lại vừa nhân danh nhà nước trong mối quan hệ với người nông dân, mà ở mặt nào họ cũng vì lợi ích của mình, lũng đoạn bộ máy quản lí làng xã. Địa chủ biến thành cường hào, hạch sách người nông dân, cậy quyền thế chiếm đoạt ruộng đất tốt.

Về nạn cường hào thế kỉ XIX, Nguyễn Công Trứ viết: “chỗ nào chúng cũng cùng nhau anh chị, chuyên lợi làm giàu, dối cả quan trên để thỏa lòng riêng. Có công điền công thổ thì chúng bày việc thuê mướn làm béo mình, những dân nghèo khổ thì kêu vào đâu được…Thậm chí còn ẩn lậu dinh điền, ruộng đất nghìn mẫu không nộp thuế, chỉ đầy túi bọn hào cường, đinh đến trăm suất không đăng kí, chỉ phục dịch riêng cho bọn hào cường”.

Trong lịch sử trung đại Việt Nam, nạn kiêm tính ruộng đất của địa chủ cường hào đã có tác động mạnh mẽ đến chế độ sở hữu ruộng đất, làm cho ruộng đất công làng xã dần bị thu hẹp, chế độ sở hữu của nhà nước bị đe dọa nghiêm trọng. Chế độ sở hữu tư ngày càng phát triển, ruộng đất công bị thu hẹp dần. Đến đầu thế kỉ XIX, ruộng đất tư đã chiếm một phần đáng kể. Do vậy mà một nguồn thu đáng kể của ngân sách nhà nước từ tô thuế đã bị suy giảm nghiêm trọng, để bù vào ngân sách, triều đình đã thực hiện biện pháp tăng thuế. Về phía người nông dân, do thiếu ruộng phải cày thuê ruộng đất của địa chủ, do đó càng bị lệ thuộc vào địa chủ và bị bóc lột nặng nề hơn. Chính sách quân điền bị phá sản, ruộng đất công làng xã không còn là chỗ dựa kinh tế của người nông dân, cũng không còn là nguồn lợi gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của họ với làng xã một cách bền vững. Cộng thêm chế độ tô thuế vô cùng nặng nề đã làm cho người nông dân bị bần cùng hóa, người nông dân buộc phải rời bỏ làng xã đi phiêu tán khắp nơi. Đời sống của họ vô cùng cực khổ. Mâu thuẫn trong xã hội phong kiến ngày càng gay gắt, phong trào nông dân bùng nổ là điều tất yếu.

Ngoài những yếu tố nêu trên, nhân tố tự nhiên cũng có tác động nhất định đến tình hình ruộng đất. Thiên tai lũ lụt, hạn hán làm cho người nông dân không thể canh tác được ruộng đất, diện tích đất bỏ hoang, diện tích đất không thể trồng cấy được tăng lên rất nhiều.

2. Tác động của tình hình ruộng đất tới đặc điểm của phong trào nông dân qua các thế kỷ nông dân khởi nghĩa

Nguyên nhân sâu sa của tất cả các cuộc khởi nghĩa của nông dân thời trung đại đều bắt nguồn từ vấn đề ruộng đất, mà biểu hiện của nó là tình cảnh người nông dân mất đất, buộc phải lưu tán, bị đẩy vào con đường bần cùng hóa dẫn đến các cuộc đấu tranh vì ruộng đất. Có thể khẳng định rằng tất cả các cuộc khởi nghĩa trong sự xuyên suốt của lịch sử trung đại đều xuất phát từ nguyên do trên. Nhưng ở các thời kỳ khác nhau, trên những khu vực khác nhau lại diễn ra các cuộc khởi nghĩa với những mức độ và đặc điểm khác nhau. Có sự khác nhau đó là do mức độ khác nhau của quá mất ruộng đất của người nông dân qua các thời kỳ. Vậy điều gì tác động đến sự phát triển khác nhau trong tình hình ruộng đất đó?

Tìm hiểu rõ ngọn nghành của vấn đề này sẽ giúp chúng ta có thể khai thác một khía cạnh mới trong khi nghiên cứu vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại, đó là : tình hình ruộng đất với đặc điểm của phong trào nông dân qua các thế kỷ nông dân khởi nghĩa. Tình hình ruộng đất trên được nghiên cứu trên hai khía cạnh tác động đến nó là sự vận động của chế độ phong kiến Việt Nam thời trung đại và sự vận động ở những vùng đất khác nhau qua các thời kỳ đó. Còn đặc điểm của phong trào nông dân được thể hiện trên các khía cạnh như quy mô, số lượng, thành phần tham gia…để cuối cùng đi tới kết luận: tình hình ruộng đất có tác động như thế nào đến đặc điểm của phong trào nông dân qua các thế kỷ khởi nghĩa.

2.1 Trong các thế kỷ XIV và XVI-XVII

Thứ nhất: Nghiên cứu tác động tình hình ruộng đất trong sự vận động của chế độ phong kiến đến đặc điểm của phong trào nông dân.

Một đặc điểm nổi bật của phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại là các cuộc khởi nghĩa thường nổ ra ở cuối mỗi triều đại khi mà các triều đại phong kiến lâm vào cuộc khủng hoảng, suy yếu. Chúng ta có thể kể tới các trường hợp điển hình như các cuộc khởi nghĩa của Thân Duy Mạc, Ngô Văn Tổng (1511), khởi nghĩa của Trân Cảo (1516) diễn ra vào cuối triều Lê; khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu (1735-1751), khởi nghĩa Danh Phương (1740-1751) ở Đàng Ngoài và tiêu biểu nhất là phong trào nông dân Tây Sơn (1771-1792)…

Tuy nhiên đến triều đại nhà Nguyễn cầm quyền vào đầu thế kỷ XIX thì rõ ràng các phong trào nổ ra ngay từ thời trị vì của vua Gia Long và Minh Mạng, những vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn. Như vậy kết luận rằng các cuộc khởi nghĩa chỉ nổ ra theo chu kỳ khủng hoảng của các triều đại là chưa thỏa đáng.

Đặc điểm của phong trào nông dân cần thiết phải đặt trong sự phát triển của cả chế độ phong kiến Việt Nam thời trung đại, tức đặt nó trong sự pháttriển thịnh - suy của chế độ phong kiến với tư cách là một phương thức sản xuất . Để từ đó thấy được mỗi thời kỳ vận động của chế độ phong kiến thì mức độ về sự bần cùng hóa của người nông dân vì ruộng đất diễn ra như thế nào? Từ đó có ảnh hưởng như thế nào tới đặc điểm của phong trào nông dân.

Trong thế kỷ XIV: tình hình ruộng đất trong thời kỳ hình thành của chế độ phong kiến và ảnh hưởng của nó tới đặc điểm của phong trào nông dân trung đại.

Nhà nước phong kiến Việt Nam được hình thành từ thế kỷ thứ X nhưng gần 4 thế kỷ sau đó mới có cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nông dân nổ ra vào năm 1344. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra do sự phát triển của điền trang – thái ấp với hoạt động kiêm tình ruộng đất ngày càng tăng của các vương công, quý tộc… Đầu thế kỷ XIV, nhân những năm đói kém, nông dân bỏ làng đi lưu tán, thiếu đói phải chạy vào các điền trang “làm nô cho các thế gia”. Nhân lực lượng đó, bọn quý tộc Trần càng ra sức khai hoang cướp đất, mở rộng phần sở hữu của mình, người nông dân mất đất, quá trình nông nô hóa của người nông dân ngày càng tăng.Các cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra.

Song Trương Hữu Quýnh trong cuốn sách “ chế độ ruộng đất phong kiến từ thế kỷ XIII – XV” đã nhận xét rằng: “mặc dù có sự khác nhau về mức độ, từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XV, chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất luôn giữ địa vị thống trị. Đương thời nó là cơ sở kinh tế chủ yếu, nguồn bóc lột chủ yếu của nhà nước trung ương và cũng là cái gốc tạo nên sức mạnh và sự bền vững của chính trị nhà nước . Cùng với chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất công ở các thế kỷ này, việc duy trì chế độ chiếm hữu làng xã về ruộng đất công có ý nghĩa đặc biệt quan trọng”. Qua nhận xét trên của tác giả có thì có thể nhận thấy rằng, việc phát triển của các điền trang - thái ấp dẫn tới quá trình nông nô hóa người nông dân, tạo ra “mâu thuẫn chủ yếu trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến Việt Nam là mâu thuẫn giữa chế độ chiếm hữu của quí tộc, công thần và chế độ sở hữu của nông dân” chứ chưa phải là mâu thuẫn của quan hệ giữa toàn thể nông dân với địa chủ phong kiến. Vì trên thực tế lúc này ruộng đất công vẫn chiếm địa vị chủ đạo. Nhà nước trong thời kỳ hình thành vẫn có dư sức mạnh để có thể quản lý ruộng đất công, hay nói cách khác là vẫn đủ sức duy trì quyền sở hữu ruộng đất của làng xã, quyền lợi của người nông dân công xã vẫn được đảm bảo. Ruộng đất tư hữu phát triển nhưng chưa thực sự giữ vài trò quan trọng.Về sau, nhà nước mà tiêu biểu là cải cách của Hồ Quý Ly với các chính sách hạn nô, hạn điền đã ra sức xóa bỏ các điền trang phong kiến, nhằm bảo vệ ruộng đất công làng xã cho người nông dân.

· Chính những đặc điểm trên của tình hình ruộng đất thế kỷ XIV đã quy định đặc điểm trong phong trào nông dân thời kỳ này, trong đó:

Vấn đề ruộng đất đặt ra trong thời kỳ này là thủ tiêu chế độ chiếm hữu của lãnh chúa, thủ tiêu các đại điền trang phong kiến. Phong trào nông dân trong thời kỳ này là thủ tiêu căn bản chế độ đại điền trang, chế độ bóc lột điền nô và nô tì.

Thành phần tham gia chủ yếu là nông dân nghèo, nông nô và nô tì. Trong đó nông nô và nô tì là động lực chủ yếu của phong trào thời kỳ này chứ chưa phải là nông dân công xã, vì mâu thuẫn trên chưa ảnh hưởng đến đại bộ phận nông dân trong các lãng xã (như đã lý giải ở trên vì lúc này yêu cầu của đại bộ phận nông dân công xã về ruộng đất vẫn được đảm bảo).

Số lượng của phong trào cũng bị chi phối bởi đặc điểm trên. Đó là việc trong trong gần 50 năm (1344-1399) mới có 6 cuộc khởi nghĩa nổ ra. Quy mô của phong trào cũng chỉ nổ ra lẻ tẻ ở các địa phương như Thanh Hóa, Hải Dương, Nghệ An.

Như vậy có thể kết luận trong thời kỳ này các cuộc khởi nghĩa của nông dân không nhiều, lẻ tẻ ở các địa phương. Chỉ có thể lý giải được điều này bằng cách thấy được tình hình ruộng đất trong bối cảnh chế độ phong kiến vẫn đang trong thời kỳ hình thành : ở đó nhà nước vẫn còn nắm giữ đại bộ phận ruộng đất công, lấn át ruộng tư, yêu cầu về ruộng đất của người nông dân

vẫn được đảm bảo.



Mặt khác thời kỳ này, các chính sách khai hoang của nhà nước thời kỳ này vẫn phát huy được hiệu quả đối với người nông dân. Trương Hữu Quýnh đã chỉ ra 3 lần khai hoang và tác động của nó đến vấn đề ruộng đất của người nông dân.

Công cuộc khai hoang lần thứ nhất, chế độ sở hữu điền trang được thiết lập, vấn đề lưu vong được giải quyết. Diện tích trồng trọt tăng lên, thu nhập quốc dân nhiều. Đất nước có sức để chống lại các cuộc xâm lược từu bên ngoài.

Công cuộc khai hoang lần thứ hai, đất nước dần được phục hồi. Nhà nước có điều kiện ban hành chính sách quân điền, giải quyết yêu cầu ruộng đất của dân cày và nô tỳ.

Với công cuộc khẩn hoang lần thứ ba, diện tích trồng trọt được mở rộng thêm, số lượng nông dân tự do, tư hữu tăng nhanh, giải quyết được tình trạng thiếu ruộng đất bắt đầu đe dọa.

Trong thế kỷ XVI-XVII: tình hình ruộng đất trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến.

Đến cuối thời Lê nhà nước phong kiến ngày càng suy yếu, bất lực, không đủ sức bảo vê sản xuất, chống lại thiên tai. Vai trò tích cực của nhà nước trong nông nghiệp đã chuyển sang giai đoạn ăn bám, trụy lạc. Từ thời Túc Tông trở đi, triều đình không , chăm lo đến công việc đê điều thủy lợi, phó mặc ruộng đất cho thiên tai hoành hành.

Tất cả thuế khóa, lực dịch ấy cùng với nạn cướp bóc, tham nhũng của bọn thống trị đè nặng lên đầu nhân dân mà chủ yếu là nông dân. Nông dân bị mất ruộng đất lại bị bóc lột nặng nề, lâm vào tình trạng đói khổ, bần cùng. Nạn hạn, lụt, đói kém... lại xảy ra liên tiếp, càng đẩy mạnh thêm tình trạn thống khổ của người nông dân. Lòng bất bình, oán hận của người nông dân dâng cao. Mâu thuẫn cơ bản giữa nông dân với địa chủ phong kiến, giữa toàn dân với bọn thống trị ngày càng lên cao gay gắt bộc lột thành những cuộc bạo động nông dân khắp nơi.

· Điều đó đã tác động tới đặc điểm của các cuộc khởi nghĩa thời kỳ này:

Lực lượng tham gia phong trào thời kỳ này đã mở rộng hơn thời kỳ trước: nông dân công xã chủ yếu là dân nghèo, một bộ phận lực lượng vũ trang là dân binh … trong đó lực lượng đóng vai trò quan trọng, động lực của cuộc khởi nghĩa nông dân là nông dân công xã ( không phải là lượng lực nông nô và nô tì thời kỳ trước vì tới thời kỳ này quyền lợi về ruộng đất của nông dân công xã đã trực tiếp bị ảnh hưởng.

Các cuộc khởi nghĩa nổ ra và lan tỏa ở nhiều địa phương ở Bắc bộ và Bắc trung Bộ như Sơn Tây, Hưng Hóa, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Phòng, Hải Dương…các cuộc khởi nghĩa không còn bó hẹp trong một vùng mà lan rộng ra nhiều địa phương, mang tính rộng lớn hơn phong trào nông dân thế kỷ XIV.

Song cần nhận thấy rằng các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra trong thế kỷ XVI- XVII nhưng chủ yếu trong thế kỷ XVI. Ngay trong thế kỷ XVI thì phong trào nông dân cũng nổ ra mạnh mẽ ở thời điểm đầu và thời điểm cuối. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra từ 1511 đến 1522 nhưng phải tới gần 50 năm sau đó, tức năm 1571 thì phong trào nông dân mới nổ ra. Tại sao như vậy? Tại sao khi mà quan hệ địa chủ- tá điền đã được xác lập ở thế kỷ XV và tới thời kỳ này đã phát triển thành mâu tuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa phong kiến – mâu thuẫn giữa chế độ sở hữu ruộng b đất phong kiến và kinh tế cá thể của nông dân ngày càng gay gắt thì phong trào đấu tranh của nông dân vẫn chỉ dừng lại ở mức độ nhất định.

Phải chăng đó là sự độc đáo của thời kỳ này, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa liệu có liên quan gì tới vấn đề ruộng đất của người nông dân. Thời kỳ này cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa thì cũng là lúc phong trào nông dân nổ ra ít nhất.

Mặt khác sự khủng hoảng của nhà Lê dẫn tới sự bất lực của triều đình trong việc cân bằng ruộng công và ruộng tư chủ yếu xuất phát từ sự yếu kém của các vị vua cuối triều đại chứ chưa phải là sự khủng hoảng của cả một chế độ chính trị. Trên thực tế chính sách quân điền của nhà nước vẫn phát huy tác dụng. Thêm vào đó với những nỗ lực của nhà Mạc, nông nghiệp có sự phục hổi, sản xuất phát triển. Do đó đến thế kỷ XVII, nhu cầu về ruộng đất của người dân vẫn được đảm bảo.

Một điểm đáng lưu ý để giải thích tại sao trong thời kỳ hình thành và phát triển của chế độ phong kiến thì như cầu về ruộng đất của nông dân vẫn được đảm bảo. Đó chính là sự tồn tại của chế độ tư hữu nhỏ của nông dân. Tục chia đều gia tài cho con cái, công cuộc khai hoang thường xuyên và được nhà nước khuyến khích và thực hiện có hiệu quả đã góp phần quan trọng vào việc duy trì hình thức trên. Hình thức sở hữu nhỏ về ruộng đất, do đó đứng vững ngay cả ở giai đoạn phát triển của chế độ sở hữu lớn. Quá trình đó làm chậm quá trình biến đối của người nông dân thành người phụ thuộc phong kiến. Do đó các cuộc khởi nghĩa của nông thời kỳ này vẫn chưa quyết liệt và số lượng chưa thực sự lớn.

Như vậy cần khẳng định rằng chế độ phong kiến trong thời kỳ hình thành, xác lập và phát triển thì quá trình bần cùng hóa của người nông dân về ruộng đât diễn ra chậm chạm hơn, mẫu thuẫn xã hội cũng chưa phát triển đến độ gay gắt, chỉ dừng lại những mâu thuẫn trong một bộ phận người nông dân chứ chưa phải là toàn bộ nông công xã.

Thứ hai: Nghiên cứu vấn đề ruộng đất theo không gian địa lý với đặc điểm của phong trào nông dân

Vấn đề trên được đề cập tới ở đây là việc xem xét trong mối quan hệ đối lập giữa tình hình ruộng đất giữa vùng đất mới khai phá với vùng đất đã được khai phá lâu đời có ảnh hưởng như thế nào tới đặc điểm của phong trào đấu tranh của nông dân thời kỳ này.

Giữa thế kỷ XVI ( năm 1558) , Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ Thuận Hóa, mở đầu cho quá trình “ Nam tiến” của nước Đại Việt. Sau chiến tranh Trịnh – Nguyễn đã hình thành nên sự phân chia Đàng Trong, Đàng Ngoài, trong đó: vùng đất từ song Gianh trở ra Bắc ( Bắc Hà) gọi là vùng đất Đàng Ngoài còn vùng đất từ sông Gianh trở vào (Nam Hà) được gọi là vùng đất Đàng Trong.

Vùng đất Đàng Trong là vùng đất mới được hoang hóa, quá trình mở rộng dện tích đất đai sản xuất ngày càn được đẩy mạnh, do đó tình hình ruộng đất có nhiều điêm khác so với Đàng Ngoài. Số lượng ruộng đất công lớn cùng với sự tồn tại của bộ phận ruộng đất quan đồn điền và quan điền trang. Đồng thời với đó, chúa Nguyễn còn thi hành những chính sách khuyến khích dân tiến hành khai hoang lập ấp, khiến ruộng đất chủ yếu ở Đàng Trong đều là ruộng tư của nhân dân. Do thóc lúc thu hoạch nhiều, sự hình thành vực lúa thóc phía nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định cuộc sống của nhân dân Đàng Trong ở cuối thế kỷ XVII, nửa đầu thế kỷ XVIII. Ruộng đất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long còn ruộng bao la, người nông dân nghèo, mất đất có thể đến đây định cư, khai phá và xây dựng xóm làng mới cho mình cho mình. Vì vậy trong một thơi gian dài mâu thuẫn xã hội có điều kiện tự giải quyết. Cuộc sống tương đối ổn định.

Chính vì vậy những điều kiện trên từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII, tình hình xã hội Đàng Trong tương đối ổn định, không có một cuộc khởi nghĩa nào của nông dân nổ ra.

Đối lập với bức tranh ở Đàng Trong thì ở Đàng Ngoài nhu cầu về ruộng đất xuất hiện sớm hơn; tình hình ruộng đất trải qua nhiều biến động với các chính sách của các triều đại với xu hướng ruộng đất tư hữu ngày càng lấn át ruộng đất công. Cùng với đó quá trình tăng lên về mật độ dân số trong khi quỹ đất công không tăng càng làm cho quá trình bần cùng hóa của nhân dân diễn ra sớm hơn. Do đó, ở Đàng Ngoài, các cuộc khởi nghĩa của nông dân diễn ra sớm hơn so với Đàng Trong.

Như vậy chính sự đối lập về tình hình ruộng đất giữa hai Đàng đã dẫn tới sự khác nhau trong phong trào đấu tranh của nông dân: trong các khi các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra rất sớm ở Đàng Ngoài thì ở Đàng Trong tình hình xã hội vẫn tương đối ổn định, các phong trào đấu tranh chống chính quyền chưa xuất hiện.

( CÒN TIẾP )
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
[FONT=&amp]2.2 Thời kỳ giữa thế kỷ XVIII đến nửa đầu XIX
[/FONT]

[FONT=&amp][/FONT]
[FONT=&amp]Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, không có một thời kì nào mà cuộc biến động xã hội lại nổ ra sâu sắc rộng rãi và triền miên như ở cuối thời trung đại mà cụ thể là từ giữa thế kỉ XVIII đến khoảng nửa đầu thế kỉ XIX. Những cuộc khởi nghĩa nông dân kế tiếp nhau bùng lên từ Bắc đến Nam, phong trào này vừa chấm dứt thì phong trào khác đã cuồn cuộn xông lên, rồi từ phạm vi các địa phương, cuối cùng phong trào đã lan ra toàn quốc, tiến đến lật đổ cả nền thống trị của các tập đoàn phong kiến đương thời. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các phong trào nông dân khởi nghĩa nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là vấn đề về ruộng đất. Thông qua tình hình ruộng đất, ta có thể nắm được phần nào sự thịnh suy của chế độ phong kiến và lí giải được những đặc điểm của phong trào nông dân trung đại qua mỗi giai đoạn.
[/FONT]
[FONT=&amp] Từ giữa thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, chế độ phong kiến nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, đó không còn là sự suy yếu của một triều đại, một dòng họ như ở các thế kỉ trước nữa . Cuộc khủng hoảng ấy diễn ra trên tất cả các lĩnh vực mà một trong những biểu hiện rõ nhất là vấn đề về sở hữu ruộng đất- cơ sỏ tồn tại của chế độ phong kiến. Ở thời kì khủng hoảng nay, Nhà nước phong kiến đã không còn đủ sức để cân bằng giữa việc duy trì diện tích ruộng đất công và kiềm chế sự phát triển của ruộng đất tư .Cùng với sự gia tăng về ruộng đất tư cũng là sự khó khăn của chính quyền phong kiến trong vấn đề thu tô thuế, lao dịch và xung binh lính,cũng là quá trình chiếm đoạt ruộng đất của địa chủ, cường hào, quan lại và đó cũng là sự bần cùng dẫn đến nạn phiêu tán của người nông dân.
[/FONT]
[FONT=&amp] Có thể khái quát qua tình hình sở hữu ruộng đất trong giai đoạn cuối thời trung đại như sau: [/FONT]
[FONT=&amp]Đó là sự bất lực của nhà nước phong kiến trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất công- tư. Mà biểu hiện của nó là tình trạng suy giảm của diện tích ruộng đất công do sự phát triển của ruộng đất tư đã lấn át ruộng đất công.[/FONT]
[FONT=&amp] Nhà nước phong kiến phương Đông nói chung và nhà nước phong kiến Việt Nam nói riêng, đều chủ yếu dựa vào chế độ sở hữu công về ruộng đất mà tồn tại. Ruộng đất công ấy một phần sẽ phong cấp cho quan lại như một hình thức trả lương và phân cấp cho các vương hầu, quý tộc nhằm lấy sự trung thành, một phần dùng để phân phát ruộng đất cho nông dân cày cấy từ đó thu tô thuế và buộc nhân dân lao dịch, xung lính….Vì thế, nhìn chung các chính sách của các nhà nước phong kiến đối với ruộng đất là duy trì ruộng đất công. Tuy nhiên , Nhà nước ấy cũng phải thừa nhận sự tồn tại của ruộng đất tư hữu của địa chủ, quan lại và tìm mọi cách để hạn chế sự phát triển của ruộng tư.
[/FONT]
[FONT=&amp]Cho đến giữa thế kỉ XVIII, ở Đàng Ngoài do những chính sách phong thưởng và ban cấp ruộng đất cho công thần và quan tướng, quân đội của chúa Trịnh như thưởng hậu cho những người đã giúp mình đàn áp phong trào nông dân, chẳng hạn “Phạm Đình Trọng được cấp 12 xã dân lộc, 150 mẫu ruộng thế nghiệp; Đỗ Thế Giai, được cấp 20 xã dân lộc, 240 mẫu thế nghiệp..”; ngoài ra, một số những quan văn cũng được ban thưởng bằng ruộng đất, lại cấp ruộng đất cho vương thích, quý tộc… Việc ban cấp ruộng đất trên đã phần nào tạo điều kiện cho diện tích ruộng tư phát triển, về sau, cùng với hoạt động kiêm tính đất đai của địa chủ, quan lại đã làm cho diện tích ruộng tư được mở rộng. Nó đe dọa trực tiếp đến chính nguồn thu của Nhà nước. Vì vậy, sau này phủ chúa phải ra lệnh rút bớt ruộng lộc và thực hiện những chính sách hạn điền. Tuy nhiên, tình trạng chấp chiếm ruộng đất của cường hào, địa chủ ngày không vì vậy mà giảm đi. Tình hình căng thẳng đến mức, năm 1728, chúa Trịnh Cương đã phải kêu lên “ Ruộng đất rơi hết vào nhà hào phú, còn dân nghèo thì không một miếng đất cắm dùi”. Ngay cả miền thượng du cũng vậy “Bọn quyền thế làm văn khế giả để chiếm ruộng nên dân muốn cày cấy mà không có đất”. Ngô Thời Sĩ trước sự phát triển của ruộng tư cũng viết “ Thần trộm thấy vài năm nay, hạn đói liên miên, quân dân cùng khốn….những nhà hào mục và dân giàu có khi lợi dụng ruộng bỏ hoang của dân diêu tán, phá liền bờ đi mà khai khẩn ruộng tư, ruộng công thì bấy lâu nay không còn vết tích gì, cũng bị họ chuyền tay bán đi. Có khi họ còn ẩn lậu cả ruộng đất công không nộp thuế,cày cấy làm giàu....”
[/FONT]
[FONT=&amp] Ở Đàng Trong, Nếu như từ trước năm 1669, ruộng đất ở vùng Thuận Quảng phần lớn là ruộng đất công thì về sau đặc biệt từ từ giữa thế kỉ XVIII tình hình ruộng đất diễn biến theo chiều hướng “ ruộng công hoặc có người đem bán hoặc cầm cố, bỏ hoang, số còn lại bị bọn nhà giàu xâm chiếm khiến cho người nghèo không có mảnh đất cắm dùi, cho nên người giàu càng giàu, người nghèo lại càng nghèo, thuế thiếu, dân lưu li”. Ở Thuận Hóa, thuế ruộng rất cao, giá thue ruộng công cũng nặng. Ở Gia Định, ruộng đất phì nhiêu nhiều hơn ở Thuận Hóa nhưng ở đây tình hình tập trung vào tay địa chủ đông đảo, người nông dân bị lệ thuộc vào địa chủ và bị bóc lột địa tô nặng nề…
[/FONT]
[FONT=&amp] Đến đầu thế kỉ XIX, cơ cấu ruộng đất Việt Nam vẫn bao gồm hai bộ phận : ruộng đất sở hữu thuộc sở hữu nhà nước và ruộng đất sở hữu thuộc sở hữu tư nhân. Nhưng chế độ tư hữu đã mở rộng đồng thời với sự thu hẹp của chế độ sở hữu công. Ruộng đất sở hữu công của Nhà nước, “khoảng những năm 1820- 1843 còn 580.363 mẫu, chiếm 17,08% tổng diện tích, bao gồm một bộ phận do nhà nước trực tiếp quản lí, còn lại chủ yếu là ruộng đất công của các làng xã.”. Phan Huy Chú nhận xét “ Nước ta duy chỉ có trấn Sơn Nam Hạ là rất nhiều ruộng và đất bãi công….còn các xứ khác thì hạng ruộng công không còn là mấy” hay theo lời Thượng thư bộ Hộ Hà Duy Phiên “ Thừa Thiên, Quảng Trị thì ruộng công nhiều hơn ruộng tư, Quảng Bình thì công tư bằng nhau, còn các hạt khác thì ruộng tư nhiều mà ruộng công ít”. Về ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân, tỉ lệ ruộng tư đầu thế kỉ XIX chiếm khoảng 82,92 %,, khẳng định vị trí bao trùm, chi phối của loại hình sở hữu này trong toàn bộ chế độ ruộng đất. Tuy nhiên, sở hữu tư cũng bao gồm nhiều loại như sở hữu tư của địa chủ, của nông dân tự canh, của các lớp trung gian…[/FONT]
[FONT=&amp] Chính quyền phong kiến ở thời kì này, mặc dù đã ban hành nhiều chính sách, cải cách như cính sách quân điền, hạn chế ruộng lộc diền, cấm mua bán ruộng đất thời Lê Trịnh, cải cách Minh Mạng nhưng ruộng đất tư vấn phát triển và tồn tại.
[/FONT]
[FONT=&amp] Hệ quả của tình trạng trên đó là sự phiêu tán của nông dân:
[/FONT]

[FONT=&amp]Cần phải hiểu, việc buộc phải phiêu tán là một việc làm vô cùng bất đắc dĩ đối với người nông dân Việt Nam vốn gắn mình rất chặt với quê hương, gia tộc tổ tiên và tình làng nghĩa xóm. Tình trạng đó chỉ xảy ra vào những thời điểm gay go nhất trong cuộc sống mỗi cá nhân, mỗi gia đình, trước những áp lực bức bách nhất về kinh tế hoặc chính trị, xã hội. [/FONT]
[FONT=&amp]Trong những thế kỉ XVIII- XIX, những áp lực này thực sự xuất phát từ triều đình phong kiến và bộ máy quan liêu tham nhũng với chính sách thuế khóa, lao dịch, binh dịch nặng nề, thêm vào đó là nạn cướp đoạt, bóc lột của bộ phận cường hào địa phương, rồi thiên tai lũ lụt…. đã khiến cho nông dân phải phiêu tán khắp nơi. Cụ thể, ở giữa thế kỉ XVIII, ở Đàng Ngoài, theo Ngô Thời Sĩ “ Trong số 9668 làng xã ở Đồng bằng Bắc Bộ thì có tới 182 làng xã phiêu tán hoàn toàn, 443 làng xã phiêu tán phần lớn ,373 làng xã phiêu tán nhập vào xã khác, 78 làng xã nghèo túng cùng quẫn không nộp được thuế cho Nhà nước” . Đến nửa đầu thế kỉ XIX, dưới sự cai trị của nhà Nguyễn, tình trạng dân phiêu tán còn trầm trọng hơn nữa, cụ thể như năm Gia Long thứ tư 1806 “ các trấn Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, Hoài Đức, thái Nguyên..dân phiêu tán hơn 370 xã thôn”, năm 1810, riêng bốn trấn ở Đồng bằng Bắc bộ là Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ đã có 358 xã thôn bị phiêu tán”…
[/FONT]
[FONT=&amp] Tình trạng phiêu tán trên của nông dân đã phá vỡ từng mảng nền thống trị của nhà nước phong kiến trung ương ở nông thôn, nó đánh mạnh vào cơ sở thần dân của nhà nước trung ương, là một đòn chí mạng giáng vào cơ sở kinh tế tài chính của tập đoàn phong kiến , nó tạo thêm nguồn bổ sung cho lực lượng nông dân khởi nghĩa, cuối cùng, nó đánh một đòn kinh tế hết sức quyết liệt vào các địa chủ trong làng xã. Vì địa chủ sẽ mất đối tượng bóc lột, ruộng đất phải bỏ hoang vì không có lực lượng sản xuất. Nông dân phiêu tán đi hết cũng là lúc địa chủ phải rời làng ra đi phần vì an ninh trật tự không đảm bảo, phần vì không thể gánh nổi thuế má các loại của chính ruộng đất của mình và cả của làng mà quan trên chiếu sổ bổ xuống theo đơn vị làng, quy trách nhiệm liên đới.
[/FONT]
[FONT=&amp] Có thể thấy, tình hình ruộng đất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế của nhân dân trong xã hội phong kiến. Những mâu thuẫn về kinh tế đã được phản ánh trong chính trị thành mâu thuẫn giữa chính quyền phong kiến, quan liêu phản động với các tầng lớp nhân dân như nông dân, thợ thủ công, thương nhân mà chủ yếu là nông dân. Nông dân thì đòi có ruộng đất và giảm nhẹ bóc lột, thợ thủ công thì yêu cầu được sản xuất và kinh doanh tự do, yêu cầu thủ tiêu đặc quyền kinh tế trong công thương nghiệp. Thông qua đó, ảnh hưởng đến những đặc điểm của phong trào nông dân Việt Nam ở giai đoạn từ giữa thế kỉ XVIII- XIX.
[/FONT]
[FONT=&amp] Thứ nhất, ảnh hưởng đến phạm vi diễn ra cuộc khởi nghĩa : Nếu như ở các thế kỉ XIV, XVI, XVII đầu XVIII trong khi Đàng Ngoài phải liên tục đối mặt với nhũng phong trào nông dân thì ở Đàng Ngoài thì ở Đàng Trong do là vùng đất mới khai phá nên các chúa Nguyễn vẫn giữ được tình trạng ổn định trong thời gian khá dài, Nhưng bắt đầu khoảng từ những năm 30 của thế kỉ XVIII, phong trào nông dân đã lan rộng ra phạm vi của cả nước, không còn là những cuộc khởi nghĩa nông dân lẻ tẻ nữa mà đã có sự liên kết giữa các địa phương thành một phong trào mang tính toàn quốc, tính dân tộc, tiêu biểu trong đó là phong trào nông dân Tây Sơn. Bước sang nửa đầu thế kỉ XIX, phong trào nông dân cũng bùng nổ trên phạm vi cả nước vô cùng mạnh mẽ và ác liệt. Đây quả thực là một thế kỉ nông dân khởi nghĩa
[/FONT]
[FONT=&amp]Thứ hai, ảnh hưởng đến tính quyết liệt của phong trào đấu tranh: Nếu như ở các thế kỉ trước nông dân đấu tranh để bảo vệ quyền sở hữu tập thể với ruộng đất công xã. Thì ở cuối thời trung đại với hiện tượng chủ yếu, phổ biến là sự thu hẹp ruộng đất công làng xã, đất khẩu phần thì bị bọn cường hào địa chủ chiếm thì trên cả nước nhân dân lại vùng lên đấu tranh để chống quan lại, địa chủ cướp ruộng, xô đẩy nông dân vào con đường lưu vong và khi nông dân đi vào con đường siêu tán và lưu vong, bị bóc lột cùng cực thì yêu cầu về ruộng đất ngày càng sâu sắc dẫn đến phong trào đấu tranh rộng khắp và quyết liệt. Khởi nghĩa nông dân và chiến tranh nông dân cuối thời trung đại là hình thức cao nhất để giải quyết mâu thuẫn mang tính chất đối kháng của xã hội phong kiến : Đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và sức sản xuất, giữa giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân. Để giải quyết mâu thuẫn trên thì đặt ra cho phong trào nông dân thời này là phải thủ tiêu chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước, có nghĩa là thủ tiêu chế độ phong cấp đất đai cho quan lại, thủ tiêu chế độ chiếm hữu ruộng đất của quan lại, địa chủ lớn. Đồng thời, về mặt chính trị cũng là thủ tiêu chế độ phong kiến quan liêu nặng nề thối nát. Chính sự khủng hoảng của chế độ phong kiến và tình hình sở hữu ruộng đất ở cuối thời trung đại cùng với những yêu cầu khách quan đã trình bày, đã làm bùng nổ và dẫn đến sự thắng lợi của phong trào nông dân Tây Sơn đã vươn lên lật đổ các tập đoàn phong kiến phản động, chấm dứt thực trạng cát cứ của đất nước và cũng hoàn thành nhiệm vụ về bảo vệ độc lập dân tộc. Về sau, khoảng nửa đầu thế kỉ XIX, phong trào nông dân lại tiếp tục có bước phát triển mà nổ ra mạnh mẽ nhưng không giành được thắng lợi mà nguyên chủ yếu là do, bối cảnh lúc đó, thực dân Pháp mở cuộc chiến tranh xâm lược pháp vi thế những người nông đã chuyển từ mục tiêu giai cấp sang mục tiêu đấu tranh dân tộc.
[/FONT]
3. Có hay không khẩu hiệu ruộng đất trong phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại?

[FONT=&amp] Trước hết cần khẳng định vấn đề ruộng đất là nguyên nhân sâu xa và chủ yếu dẫn đến sự bùng nổ của phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại, mọi cuộc đấu tranh của nông dân đều hướng tới mục tiêu ruộng đất. Giữa phong trào đấu tranh của nông dân và chế độ phân phối ruộng đất có quan hệ mật thiết với nhau. Vì thế, khởi nghĩa nông dân trong xã hội phong kiến đã phản ánh một nguyện vọng chính đáng và vô cùng bức thiết của nông dân - ruộng đất. Tuy nhiên vấn đề ruộng đất được đề ra như thế nào, trực tiếp hay gián tiếp trong các phong trào nông dân là một vấn đề khá phức tạp và đã được nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu. Cho tới nay tất cả các học giả đều khẳng định rằng ruộng đất là một trong những mục tiêu lớn nhất của phong trào nông dân, nhưng hai chữ “ruộng đất” chưa bao giờ xuất hiện trực tiếp trong các khẩu hiệu đấu tranh của nông dân Việt Nam thời trung đại.
[/FONT]
[FONT=&amp] Vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân đã được học giả nghiên cứu và thảo luận cách đây rất nhiều năm như Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Phan Quang,…Mọi học giả đều thừa nhận là chưa hề thấy những khẩu hiệu hoặc cương lĩnh về ruộng đất xuất hiện trong phong trào nông dân dưới chế độ phong kiến Việt Nam, bất cứ ở thời kỳ lịch sử nào, dẫu rằng “ yêu cầu ruộng đất” là một yêu cầu thiết tha biết bao đời nay của nông dân.
[/FONT]
[FONT=&amp] GS, Trương Hữu Quýnh cho rằng: “Trong sử sách chính thống của ta trước đây, chưa thấy có một cuộc khởi nghĩa nông dân nào nêu lên khẩu hiệu về một vấn đề liên quan đến ruộng đất.”. Đúng như vậy, nếu xem xét các phong trào nông dân thì khẩu hiệu về ruộng đất của nông dân chưa được nêu lên cụ thể một cách rõ nét, gãy gọn với đúng nghĩa đen của chữ “khẩu hiệu” – cho đến nay chúng ta chưa phát hiện được những tài liệu thành văn chép về khẩu hiệu ruộng đất của phong trào nông dân thời phong kiến ở nước ta. Một khẩu hiệu ruộng đất cụ thể, rõ nét chưa được đề cập trong các phong trào.
[/FONT]
[FONT=&amp] Tuy nhiên, chúng ta không nên chỉ căn cứ vào việc nông dân chưa đề ra được khẩu hiệu cụ thể về ruộng đất để nói rằng vấn đề khẩu hiệu ruộng đất chưa hề được đặt ra dưới phong trào nông dân, càng không thể nói rằng nông dân Việt Nam không có yêu sách về ruộng đất. Nếu trong thực tế, yêu sách ruộng đất của nông dân chưa được nêu lên một cách cụ thể, cô đọng trong một vài chữ, thậm chí chưa đề cập trực diện đến hai chữ “ruộng đất”, mà khái niệm ruộng đất có khi chỉ lẩn vào trong ý của một câu nói, một đoạn văn, nên coi đó là những mệnh đề có tính khẩu hiệu, phần nào phản ánh yêu sách ruộng đất, hoặc là những khẩu hiệu ruộng đất ở mức độ thấp. Một khi quan hệ sản xuất phong kiến nước ta còn ngự trị gần như tuyệt đối, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa hình thành, khi chế độ sở hữu ruộng đất lớn của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền còn giữ vai trò chi phối mọi chính sách về ruộng đất của các triều đại phong kiến, thì nông dân Việt Nam tuy chưa đề ra được những khẩu hiệu cụ thể hoặc cương lĩnh về ruộng đất như trong phong trào Thái Bình Thiên Quốc nhưng những biểu hiện về yêu sách ruộng đất có tính chất khẩu hiệu thì đã rải rác xuất hiện.
[/FONT]
[FONT=&amp] Như vậy, ruộng đất là vấn đề cấp bách trong phong trào đấu tranh của nông dân nói chung và mục tiêu ruộng đất là một trong những động lực lớn thúc đẩy nông dân đấu tranh nhưng hai chữ “ruộng đất” lại chưa một lần trực tiếp nêu lên trong các khẩu hiệu đấu tranh.
[/FONT]
[FONT=&amp] Cụ thể, chúng ta có thể xem xét khẩu hiệu trong một số phong trào đấu tranh của nông dân Việt Nam thời trung đại để thấy rõ điều này.
[/FONT]
[FONT=&amp] Trước hết, chúng ta xem xét phong trào nông dân Tây Sơn thế kỷ XVIII. Khi đấu tranh nghĩa quân Tây Sơn nêu lên việc “lấy của người giàu chia cho người nghèo”. Có thể thấy rằng đây là một khẩu hiệu đấu tranh thực sự, tuy hai chữ “ruộng đất” chưa được đề cập trực tiếp, song rõ ràng trong nó đã hàm chứa “yếu tố” ruộng đất. Vì của cải của người giàu không đơn thuần chỉ là thóc gạo, tiền bạc,..mà quan trọng nhất vẫn là ruộng đất. Hơn nữa, ruộng đất là tư liệu sản xuất duy nhất của nông dân thời trung đại, vì thế mọi cuộc đấu tranh của họ đều hướng vào việc giành ruộng đất về tay mình. Bởi vậy, chúng ta nên coi khẩu hiệu trên ít nhiều có bao hàm yêu sách ruộng đất của nông dân hoặc là một khẩu hiệu ruộng đất ở mức độ thấp.
[/FONT]
[FONT=&amp] Hay là học giả Nguyễn Đổng Chi khi nghiên cứu “Lê hoàng triều kỷ” đã phát hiện khẩu hiệu của một cuộc khởi nghĩa của nông dân Đàng ngoài thế kỷ XVIII như sau: “Cấm bọn giàu có ruộng đất không được cày, tiền nợ không được hỏi”. Tác giả đã đánh giá rất cao sự kiện trên khi dùng nó để giải thích yêu sách của nông dân. Khẩu hiệu trên không chỉ là một bằng cớ mạnh mẽ nói lên yêu cầu bức thiết về ruộng đất của nông dân mà còn là một bằng cớ về vấn đề khẩu hiệu ruộng đất trong phong trào nông dân.
[/FONT]
[FONT=&amp] Với những dẫn chứng vừa nêu, chúng ta có thể nhận thấy rằng: mặc dù vấn đề chưa một lần được đề ra trực tiếp, rõ ràng trong các khẩu hiệu đấu tranh của nông dân, nhưng nó đã gián tiếp nói đến yêu cầu ruộng đất hay những vấn đề liên quan đến ruộng đất.
[/FONT]
[FONT=&amp] Vậy tại sao phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại không đưa ra yêu sách ruộng đất trực tiếp trong các khẩu hiệu đấu tranh của mình? Do khả năng và điều kiện nghiên cứu có hạn, chúng tôi xin đưa ra một vài lý giải sau:[/FONT]
[FONT=&amp] Thứ nhất[/FONT][FONT=&amp], cũng giống như giai cấp nông dân thời phong kiến của các quốc gia khác trên thế giới, khả năng nhận thức của nông dân Việt Nam nói chung và những người lãnh đạo phong trào nói riêng còn nhiều hạn chế ( do ít được học hành, tính chất cố kết trong cộng đồng làng xã quá lớn) do đó họ chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc đưa vấn đề ruộng đất một cách trực tiếp vào các khẩu hiệu đấu tranh.
[/FONT]
[FONT=&amp] Thứ hai[/FONT][FONT=&amp], đa số nông dân khởi nghĩa đều đi theo lời kêu gọi của những người lãnh đạo chứ chưa thực sự có một quá trình chuẩn bị về tư tưởng, họ tham gia chỉ mang tính nhất thời. Những khẩu hiệu được đề ra thường chỉ do những người lãnh đạo phong trào quyết định, để thu phục nông dân tham gia một cách nhanh nhất thì khẩu hiệu mà họ đưa ra phải đáp ứng ngay những yêu cầu bức thiết nhất lúc bấy giờ như “Lấy của người giàu chia cho người nghèo”, còn ruộng đất là vấn đề sâu xa mang tính lâu dài với trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế của mình nông dân chưa thể nhận thức hết tầm quan trọng của vấn đề này.[/FONT]

4. Những tác động của phong trào nông dân thời trung đại đến chính sách ruộng đất của nhà nước phong kiến

[FONT=&amp]Nông dân và ruộng đất, người sản xuất trực tiếp và tư liệu sản xuất chủ yếu trong cơ cấu kinh tế - xã hội phong kiến có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Chúng ta không thể không quan niệm vấn đề nông dân cắt rời khỏi vấn đề ruộng đất mà giữa phong trào đấu tranh của nông dân và chế độ phân phối ruộng đất có quan hệ với nhau, điều ấy chắc không ai phủ nhận được? Phong trào nông dân nổ ra đã có tác động như thế nào đến chính sách về ruộng đất của các triều đại phong kiến Việt Nam thời trung đại?
[/FONT]
[FONT=&amp]Như chúng ta đã biết, trong lịch sử trung đại, các phong trào nông dân thường xuyên xảy ra vào cuối mỗi triều đại –khi mà nhà nước phong kiến suy yếu, bất lực, không thể giải quyết được những mâu thuẫn của xã hội. Đối với người nông dân ruộng đất là một nhu cầu bức thiết và sống còn, ruộng đất là nguồn sống chủ yếu của nông dân và là nguồn thu chủ yếu của nhà nước. Do đó, ruộng đất có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của người dân đồng thời ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội phong kiến. Khi nhà nước phong kiến không đáp ứng được nhu cầu về ruộng đất cho nông dân, tất yếu mâu thuẫn bùng nổ và một cuộc đấu tranh giai cấp nổ ra là điều không thể tránh khỏi. Trước thực trạng các cuộc khởi nghĩa nông dân diến ra mà nguyên nhân chủ yếu là vấn đề ruộng đất, các nhà nước phong kiến đã có ý thức giải quyết vấn đề này nhằm xoa dịu mâu thuẫn giai cấp, ổn định tình hình chính trị - xã hội của đất nước.
[/FONT]
[FONT=&amp]Vào cuối thòi nhà Trần, khi chế độ điền trang, thái ấp đang lấn át ruộng công, đã khiến tình cảnh người nông nô không chịu nổi sự bóc lột nặng nề của địa chủ buộc phải chạy trốn khỏi các điền trang. Nhiều cuộc nổi dậy của nông nô đã xuất hiện… Trong tình hình đó, năm 1397, theo đề nghị của Hồ Quý Ly, vua Trần xuống chiếu hạn định số ruộng tư. Đại vương, trưởng công chúa không có hạn định, dưới đến thứ dân không được quá 10 mẫu. Người nào nhiều ruộng được phép lấy ruộng chuộc tội, số ruộng thừa ra thì sung công. Để kiểm tra việc thực hiện chủ trương hạn điền, năm 1398, Hồ Quý Ly cho các quan về địa phương làm lại sổ ruộng đất. Ai có ruộng tư phải kê khai rõ số ruộng và cắm thẻ ghi tên của mình trên mảnh ruộng. Sau 5 năm, sổ sách phải làm xong, ruộng nào không có ai nhận thì nhà nước sung công. Sự điều chỉnh chính sách này của Hồ Qúy Ly phần nào đã giải quyết được sự khủng hoảng về vấn đề ruộng đất lúc đó, đẩy điền trang thái ấp nhanh chóng đi đến con đường phá sản.
[/FONT]
[FONT=&amp]Rút ra được những kinh nghiệm từ các triều đại trước, trong đó có kinh nghiệm để giải quyết nhu cầu về ruộng đất cho nông dân, nhằm ổn định và phát triển đất nước, ngay từ khi mới thành lập nhà Lê Sơ đã có nhiều chính sách nhằm thủ tiêu chế độ điền nô và nô tỳ, thủ tiêu chế độ chiếm hữu ruộng đất tư. Với chế độ sở hữu của nhà nước, người nông dân trong thế kỷ XV có được tự do hơn; mức độ bị bóc lột của họ cũng nhẹ hơn thân phận điền nô và nô tỳ ở thế kỉ XIV . Chẳng hạn : người nông dân khi lĩnh ruộng công thì ngoài thuế đinh theo luật pháp quy định, đem nộp cho nhà nước hoặc cho quan lại được phong cấp; họ không bị bóc lột thêm gì khác nữa. Đối với điền nô cày cấy trong các điền trang thời Trần thì không như thế. Chẳng những về thân thể của họ không được tự do mà sự bóc lột của bọn lãnh chúa cũng không có hạn định, không quy định thành luật pháp hẳn hoi. Cho nên, tình cảnh của họ đương nhiên là thua kém tình cảnh người nông dân “tá điền” của nhà nước. Chính vì vậy mà vào thời nhà Trần, ta chỉ nghe thấy nói nhiều đến khởi nghĩa của nô tỳ, điền nô trong các đại điền trang chứ không thấy nói đến những cuộc nông dân khởi nghĩa chống triều đình phong kiến.
[/FONT]
[FONT=&amp]Trong giai đoạn chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra đã khiến vấn đề ruộng đất trở thành bức thiết buộc nhà nước phải đề ra những chính sách tích cực nhằm cải thiện tình hình.[/FONT]
[FONT=&amp]Chính sách của nhà Trịnh – Nguyễn:
[/FONT]

[FONT=&amp]Cuộc khởi nghĩa mở màn cho phong trào nông dân ở thế kỷ XVIII nổ ra vào năm 1737 của nhà sư Nguyễn Dương Hưng chưa chấm dứt thì cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật từ 1738 – 1769 đã đồng thời nổ ra. Trong vòng hơn 40 năm (1737 -1770), phong trào nông dân nổ ra liên tục khắp nơi ở Đàng Ngoài làm cho chính quyền thống trị không kịp trở tay. Trước sức mạnh của phong trào nông dân, nhà Lê – Trịnh một mặt vừa lo đối phó bằng cách điều binh khiển tướng để đàn áp phong trào, mặt khác vừa có những biện pháp kinh tế - xã hội nhằm làm giảm nhẹ những nỗi thống khổ của dân đặc biệt là nông dân. [/FONT]
[FONT=&amp]Những cuộc đàn áp phong trào nông dân thế kỷ XVIII được sử sách ghi lại nhiều và giới nghiên cứu đã đề cập đến. Ở đây, chúng tôi chỉ quan tâm đến những biện pháp kinh tế - xã hội mà chính quyền Lê – Trịnh đã thực thi nhằm ổn định trật tự xã hội, hạn chế sự nổi dậy của nông dân. Những biện pháp đó không phải chờ đến khi phong trào nông dân nổ ra mới thực hiện mà đã được tiến hành ngay từ 30 năm đầu thế kỷ XVIII khi xã hội vẫn còn yên bình. Chẳng han như :
[/FONT]
[FONT=&amp]Trịnh Cương mới lên ngôi chúa được 2 năm vào năm 1711 đã cho bàn định thể lệ quân cấp ruộng công để đem lại quyền lợi, sự công bằng và tiện lợi cho nhân dân. Theo quy định phần ruộng khẩu phần, cứ 6 năm chia lại 1 lần, khi chia ruộng không được làm ảnh hưởng đến thời vụ làm ruộng của dân. Đối tượng được cấp không phân biệt sang hèn, trên từ quan viên dưới đến thứ dân kể cả những người cô quả và phế tật.
[/FONT]
[FONT=&amp]Sau khi định lệ quân cấp ruộng, năm 1716, Trịnh Cương lại cho định phép chia đều thuế khóa và tạp dịch, thay cho phép bình lệ thời trước, chỉ có nhân đinh phải gánh chịu. Còn nay, các công việc hoặc đóng góp gì thì nhân đinh và điền mẫu mỗi bên đều chịu môt phần để cho thuế khóa và lực dịch được đều nhau.
[/FONT]
[FONT=&amp]Năm 1724, Trịnh Cương đã ra lệnh giảm tô thuế ở những nơi cần thiết như Thanh Hóa là đất “thang mộc”, Nghệ An là nơi dân hưởng ứng theo việc nghĩa (theo Lê Trang Tông khởi binh đánh Mạc) và Kinh Kỳ liền sát với xa giá của vua chúa. Ở Thanh Hóa và Nghệ An, tô ruộng được giảm một nửa, thuế thân dung được miễn trừ. Tại những vùng xa xôi như trấn Cao Bằng trước kia, Trịnh Cương cho giảm nhẹ các thuế phụ như thuế đánh vào đầu trâu, thuế nộp hồng quả, thuế vải thổ…và bỏ bớt các sở tuần ty. Từ đó dân 4 châu của trấn Cao Bằng mới dần được yên ổn.
[/FONT]
[FONT=&amp]Sang đến thời Trịnh Giang là thời kỳ phong trào nông dân nổ ra mãnh liệt nhất. Nhưng ngay những năm đầu trị vì (khoảng chục năm) trước khi phong trào nông dân bùng nổ, Trịnh Giang đã làm được một số việc về an sinh xã hội chứ không phải như quan niệm xưa nay thường lên án Trịnh Giang là người “tối tăm ươn hèn không gánh vác nổi việc nước” hoặc chỉ ăn chơi dâm dục không chú ý đến dân sinh để phong trào nông dân bùng lên mạnh mẽ hoặc chỉ lo đàn áp phong trào và nhấn chìm phong trào trong bể máu.
[/FONT]
[FONT=&amp]Đến thời Trịnh Doanh (1740 – 1767), tuy có bận rộn nhiều trong việc đối phó trực tiếp với các phong trào nông dân đang nổi dậy rầm rộ ở khắp Đàng Ngoài, nhưng Trịnh Doanh vẫn chú ý nhiều tới những biện pháp an dân. Ngay năm đầu lên cầm quyền, Trịnh Doanh đã hạ lệnh trích số thóc đong ở Sơn Nam lấy 10 vạn bát quan phát chẩn cho dân nghèo vùng Hải Dương. Cũng vào năm này, ở vùng Đông Bắc, dân bị đói, triều đình phải phát gạo công nấu cơm, cháo để phát chẩn cho dân. Không những vậy, triều đình còn khuyến khích dân ở những vùng khác vân chuyển thóc gạo đến bán cho dân.[/FONT]
[FONT=&amp]Từ cuối đời Vĩnh Hựu (1735 – 1740), trộm giặc ở các nơi nổi dậy nhất là vùng Hải Dương, dân gian bỏ cả cày cấy, các thứ tích trữ ở làng xóm hầu như hết sạch, dân phiêu tán dắt díu nhau kiếm ăn đầy đường, giá gạo tăng vọt, dân phần nhiều phải ăn rau, ăn củ, chết đói chồng chất lên nhau, dân mười phần nay còn lại không được một… Triều đình phải lấy thóc trong kho ra phát chẩn cho dân ở tứ trấn và Kinh kỳ.
[/FONT]
[FONT=&amp]Năm 1741, do thiên tai đói kém nên vừa lên ngôi, Trịnh Doanh đã hạ chiếu tha tô thuế cho các lộ, triệt bỏ các sở tuần ti trái ngạch, cấm tố cáo xằng, bắt bớ bậy những người trước theo khởi nghĩa nay đã theo lệnh trở về. [/FONT]
[FONT=&amp]Có thể nói, dưới thời Lê – Trịnh, do hậu quả của chiến tranh và sự phát triển của ruộng đất tư hữu về ruộng đất, sự quan tâm của nhà nước tới nông nghiệp không còn đạt được kết quả như ở thế kỷ XV. Lụt lội hạn hán thường xuyên đe dọa, đời sống nhân dân khổ cực. Để duy trì và bảo vệ cuộc sống của mình, nhân dân ta đã phải ra sức lao động, sáng tạo. Công cuộc khẩn hoang ở các vùng ven biển thuộc Sơn Nam, ở các vùng trung du thuộc Cao Bằng, Thái Nguyên được thực hiện khẩn trương. Nhiều làng mới được thành lập, diện tích ruộng đất mở rộng và ngày càng thu hút dân lưu tán. Để khuyến khích việc khai hoang, chúa Trịnh tạm thời miễn thuế cho loại ruộng “ẩn lậu”, cho phép xem ruộng khai hoang là ruộng tư, cấm quan lại không được khám xét, quấy nhiễu. Nhờ đó, nhân dân ra sức chăm lo sản xuất, như nhận xét của các giáo sĩ phương Tây ; “ đất đai màu mỡ và không lúc nào nghỉ sản xuất…nhân dân rất hiểu giá trị của ruộng đất nên không bao giờ bỏ hoang…và như vậy, mỗi năm họ thường làm được 2-3 vụ lúa…”.
[/FONT]
[FONT=&amp]Nhằm vượt qua cảnh khổ ở quê hương, người nông dân rời làng đi phiêu tán,tha phương cầu thực. Từ giữa thế kỷ XVIII, nhà nước Lê – Trịnh bắt đầu chú ý đến tầng lớp nông dân này và đưa họ vào một quy chế riêng về nghĩa vụ và quyền lợi. Trong lúc đó, ở vùng ven biển, các làng mới thành lập trên cơ sở khai hoang, ngày càng gia tăng hoặc mở rộng. Cuộc sống của người nông dân ở đây sung túc và bình đẳng hơn so với các làng cũ. Chế độ tô thuế cũng dễ chịu hơn do ý thức động viên của nhà nước.
[/FONT]
[FONT=&amp]Tuy nhiên trong thực tế, những biện pháp đó của chính quyền Lê Trịnh chỉ có tác dụng phần nào, tình trạng phiêu tán của dân vẫn tiếp diễn và ngày càng trầm trọng. Những việc làm của nhà nước phong kiến không nằm ngoài mục đích là hạn chế sự nổi dậy của các phong trào từ trong nhân dân đang tấn công vào chính quyền thống trị. Nhưng dù sao, những biện pháp mà Lê – Trịnh đã làm trong suốt thời kỳ mà phong trào nông dân nổ ra đến khi bị dập tắt đều là những biện pháp hữu ích góp phần làm ổn định tình hình lúc bấy giờ. Trong hoàn cảnh xã hội hỗn loạn ở thế kỷ XVIII, nếu triều đình Lê – Trịnh không có thêm những biện pháp kinh tế, ruộng đất nêu trên mà chỉ chú trọng tới việc đàn áp phong trào thì tình hình chắc chắn sẽ khác, chính quyền thống trị chưa chắc đã duy trì được như hiện tại. Đó là một trong những tác động của phong trào nông dân đến sự nhận thức của nhà nước Lê – Trịnh về vấn đề ruộng đất trong quá trình cai trị
[/FONT]
[FONT=&amp]- Chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn :
[/FONT]
[FONT=&amp]Triều Nguyễn được biết tới là triều đại với những cuộc khởi nghĩa nông dân rầm rộ, mạnh mẽ, liên tục.Trong nửa thế kỉ XIX, hơn 500 cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra, đe dọa nền thống trị của giai cấp phong kiến Nguyễn. Nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: khởi nghĩa Phan Bá Vành (1821 – 1827), Lê Văn Khôi (1833 – 1835), Nông Văn Vân (1833 – 1835) đã chứng tỏ sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân Việt Nam, khiến triều đình Nguyễn phải dồn hầu như toàn bộ lực lượng để đối phó, đàn áp. Bên cạnh những kế sách về vũ lực, các vua Nguyễn còn đề ra nhiều biện pháp nhằm cải thiện tình hình ruộng đất, theo hướng tích cực.Ví dụ: chính sách khai hoang, doanh điền, quân điền …
[/FONT]
[FONT=&amp]Năm 1828, sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành, Nguyễn Công Trứ lúc đó là Tổng đốc Hải An đề nghị ngay với Minh Mạng cho tổ chức khai hoang, lập làng ở Nam Định và Ninh Bình. Nguyễn Công Trứ được cử làm dinh điền sứ, dựa vào những người có lực ở địa phương để mộ dân nghèo mọi nơi tới khai khẩn. Công cuộc khai hoang đó đã đạt được kết quả tốt ở vùng ven biển Nam Định, Ninh Bình. Ngay năm 1828, đã xuất hiện thêm một huyện Tiền Hải ở Nam Định với 2350 dân đinh, 18970 mẫu ruộng, 2 xã thuộc Nam Trực và 1 Tổng thuộc Giao Thủy. Hết năm 1829, lại có thêm 1 huyện ở Kim Sơn – Ninh Bình gồm 1260 dân đinh với 14600 mẫu ruộng.
[/FONT]
[FONT=&amp]Tuy vậy, thực tế lịch sử cho thấy sau khi Gia Long lên ngôi (1802), quỹ đất công của nhà nước còn lại rất ít, diện tích ruộng đất tư ngày càng tăng mạnh, nhà nước phong kiến nhìn thấy nguy cơ đe dọa với mình song không thể làm gì ngoài việc tăng cường mọi chế độ bóc lột : tô thuế, lao dịch với người nông dân. Chính vì thế, tình trạng nông dân thiếu thuế hoặc không nộp được thuế cũng là một hiện tượng phổ biến phản ánh sự khốn đốn của người nông dân về nạn tô thuế. Chính sử nhà Nguyễn hầu như không năm nào không ghi lại tình hình thiếu thuế trong nhân dân nhất là những năm thiên tai nặng nề. Gia Long buộc phải dùng biện pháp giảm tô thuế trong một vụ hoặc cả năm. Biện pháp miễn giảm tô thuế mà Gia Long đưa ra coi như là một trong những kế sách đối phó với các cuộc đấu tranh của nông dân rõ ràng là một biện pháp bất đắc dĩ của nhà nước phong kiến. Mặt khác, nó đánh dấu những thắng lợi nhất định của phong trào nông dân. Tình trạng tô thuế nặng nề là một trong những nguyên nhân làm nổ ra các cuộc khởi nghĩa, nhưng đó cũng không phải là vấn đề cơ bản nhất. Bởi vậy việc miễn giảm tô thuế không thể dập tắt được những cuộc đấu tranh như ý muốn của Gia Long mặc dầu biện pháp này ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn thu nhập chủ yếu của triều đình, hạn chế được những chi phí và ngày càng lớn về quân sự, xây dựng cung điện, thành quách và cung cấp lương bổng cho cả một bộ máy quan lại cồng kềnh. Thực ra giữa lúc mất mùa, đói kém thì dẫu triều đình có áp dụng những biện pháp khắc nghiệt đến mấy thì nông dân cũng không thể lấy đâu ra thóc lúa để nộp tô thuế.[/FONT]
[FONT=&amp]Như vậy, có thể nói khi các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, nhà nước phong kiến, mặc dù đã có sự điều chỉnh chính sách ruộng đất nhằm xoa dịu mâu thuẫn giai cấp song do điều kiện cụ thể của đất nước, do giai cấp thống trị ích kỉ chỉ muốn bảo vệ quyền lợi dòng họ, giai cấp mình song tình hình ruộng đất vẫn chưa được giải quyết, chính sách giai cấp phong kiến đưa ra thường mang tính chất đối phó, bị động và rất nhỏ giọt. Điều đó, không khiến cho tình hình đất nước (nhất là thế kỉ XIX) được khởi sắc mà trái lại khiến cho phong trào nông dân bùng lên ngày càng mạnh mẽ.
[/FONT]
[FONT=&amp]Trong phong trào nông dân thời trung đại,yêu cầu về ruộng đất của người nông dân là vấn đề xuyên suốt, căn bản nhất cần được giải quyết. Tuy nhiên hiếm có cuộc khởi nghĩa nông dân nào nổ ra lại giành được thắng lợi như phong trào Tây Sơn. Một nhà nước phong kiến tiến bộ được dựng lên dưới sự lãnh đạo của người anh hùng áo vải Quang Trung; với tư cách là người gần gũi với nông dân, hiểu nguyện vọng của nông dân, nhà nước Tây Sơn đã có những chính sách như thế nào đối với vấn đề ruộng đất ?
[/FONT]
[FONT=&amp]Trong cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến vào cuối thế kỷ XVIII, nền kinh tế nước ta bị đình trệ và phá hoại nghiêm trọng. Sự chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ làm cho kinh tế tiểu nông bị uy hiếp, hàng loạt nông dân bị tước đoạt mất hết tư liệu sản xuất, bị lệ thuộc vào vòng bóc lột địa tô nặng nề của địa chủ. Mặt khác, nhà nước phong kiến lại tăng cường tô thuế, phục dịch nặng nề để cung ứng cho nhu cầu xa xỉ của tầng lớp vua chúa và cả một bộ máy quan liêu sâu mọt, thối nát. Kết quả là kinh tế tiểu nông bị phá sản, hàng vạn nông dân bần cùng, mất ruộng đất, lưu vong, phiêu tán. Đồng ruộng bỏ hoang, xóm làng tiêu điều, xơ xác là tình cảnh phổ biến bao trùm nông thôn lúc bấy giờ.
[/FONT]
[FONT=&amp]Sau khi nhà Tây Sơn thành lập, phục hồi nông nghiệp là yêu cầu kinh tế quan trọng nhất của một nhà nước phong kiến tiến bộ vào cuối thế kỷ XVIII. Những yêu cầu đó đã được Quang Trung chú ý giải quyết.
[/FONT]
[FONT=&amp]Trong “chiếu khuyến nông”, Quang Trung ghi rõ : “ít lâu nay, trong nước bị binh lửa, đinh tán điền hoang, số đinh điền so với trước kia mười phần kém đến bốn năm phần. Nay trong nước đã bình định, cần phải phục hồi dân phiêu tán, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, làm cho dân du thủ du thực trở về với ruộng đất.”
[/FONT]
[FONT=&amp]Quang Trung đã đề ra hai biện pháp chủ yếu, liên quan khăng khít với nhau là đưa nông dân phiêu tán trở về sản xuất và thanh toán tình trạng ruộng đất bỏ hoang. Trên cơ sở đó, tất cả những người lang thang, ngụ cư nơi khác nhất thiết đều phải trở về nguyên quán làm ăn. Chỉ trừ trường hợp những người nào đã sinh cơ lập nghiệp ở xã khác được ba đời rồi thì cho nhập tịch ở xã ấy; những xã nào chấp chứa người trốn tránh, vi phạm pháp lệnh trên thì cả xã trưởng sở tại đều bị trừng phạt. Bọn lưu manh, côn đồ, những người trốn tránh lao động vào ẩn nấp trong chùa cũng bắt phải hoàn tục, trở về quê hương làm ăn lượng thiện.
[/FONT]
[FONT=&amp]Cũng trong “chiếu khuyến nông”, Quang Trung giao trách nhiệm cho các quan lại địa phương, gấp rút chấm dứt tình trạng ruộng đất hoang phế. Ruộng đất công đem cấp cho dân trong xã cày cấy, nộp tô cho nhà nước; ruộng đất tư giao cho chủ nhân, khai khẩn sản xuất đầy đủ, nộp thuế cho nhà nước. Các xã trưởng phải lập sổ đinh điền trong đó kê khai rõ số nhân đinh phiêu tán mới trở về, số ruộng đất còn hoang phế và đã khai khẩn nộp lên trên (tháng 9/1789). Nhà nước lại quy định thời hạn chậm nhất các xã phải đảm bảo thanh toán hết ruộng đất bỏ hoang. Quá thời hạn ấy mà không khai khẩn hết thì nếu là ruộng công sẽ thu thuế điền gấp đôi, nếu là ruộng tư sẽ tịch thu làm của công. Đó là những biện pháp phục hồi nông nghiệp rất tích cực. Chính sách ruộng đất của Quang Trung rõ ràng chỉ là những cải cách trong khuôn khổ duy trì chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến. Về cơ bản, kết cấu kinh tế và xã hội của nước ta thời Quang Trung không có nhiều thay đổi lớn so với trước. Như vậy, chính sách cải cách ruộng đất của Quang Trung chỉ giới hạn ở khía cạnh đảm bảo cho người nông dân lao động có điều kiện sản xuất, thanh toán tình trạng ruộng đất bỏ hoang, nhân dân phiêu bạt để phục hồi kinh tế nông nghiệp đang đình đốn nghiêm trọng. Chia ruộng đất công cho nông dân cày cấy, nộp tô không phải là biện pháp cách mạng nhưng trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ đó là chính sách hợp lý – đảm bảo yêu cầu ruộng đất của nông dân.
[/FONT]
[FONT=&amp]Dưới thời Quang Trung, chế độ ban cấp ruộng đất cho quan lại (lộc điền) hầu như bị bãi bỏ, nên ruộng đất công mới tịch thu đều được nhà nước giao về cho các xã chia dân cày cấy. Chính sách đó có tác dụng phục hồi kinh tế tiểu nông, và trên cơ sở đó phục hồi lại kinh tế nông nghiệp. Người nông dân cày cấy ruộng đất công tuy không có quyền sở hữu ruộng đất phải nộp tô cho nhà nước, nhưng ít nhất cũng có điều kiện sản xuất, có điều kiện xây dựng lại nền kinh tế cá thể của mình. Với Quang Trung : “ chính sách của đấng vương giả là vun gốc, cắt ngọn làm sa o cho dân được yên ổn, có ruộng đất cày cấy, để rồi trong nước không có dân lười biếng, ngoài đồng không có ruộng bỏ hoang”. Điều này khác hẳn với chính sách của họ Trịnh trước đây lũng đoạn ruộng đất công của thôn xã để cấp cho quân lính và quan lại.
[/FONT]
[FONT=&amp]Nhờ đó, đến vụ mùa năm 1791, sử cũ chép mùa màng trở lại phong đăng và năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình, đời sống nhân dân ổn định. Trong bài phú “Tụng tây hồ”, Nguyễn Huy Lượng đã nói lên lòng biết ơn của nhân dân đối với Quang Trung: “ tới Mậu Thân (1788) từ rỡ vẻ tường vân sông núi khắp nhờ công đãng địch; qua Canh Tuất (1790) lại tưới cơn thì vũ, cỏ cây đều đội đức chiêm nhu”. Trong trình độ kĩ thuật thấp kém bấy giờ và trong điều kiện kinh tế bị phá hoại nghiêm trọng thì đó là những thành tích to lớn, là kết quả lao động sáng tạo của người nông dân nói chung và vua Quang Trung nói riêng.
[/FONT]
[FONT=&amp]Trong lịch sử trung đại Việt Nam, phong trào nông dân khởi nghĩa đã trở thành một hiện tượng lịch sử, xã hội có ảnh hưởng to lớn đến sư phát triển của dân tộc. Dù chủ yếu thất bại song phong trào đã buộc chính quyền thống trị phải thực hiện một số chính sách, biện páp cải thiện cuộc sống cùng cực của nhân dân, để xoa dịu đấu tranh nhằm cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền. Có rất nhiều bằng chứng nói lên kết quả đó của phong trào nông dân điển hình là một số biện pháp như an dân, phát chẩn cho dân nghèo, tha bỏ một số loại thuế cho dân dưới thời Trịnh Doanh,Trịnh Sâm…hoặc đẩy mạnh công cuộc khai hoang, phục hóa đất đai để chia cho dân sản xuất (doanh điền – Minh Mạng). Đặc biệt vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân Tây Sơn đã thể hiện sự cố gắng, nô lực của Quang Trung trong việc mang lại quyền lợi cho người nông dân. Đó là biểu hiện của một nhà nước phong kiến với nhiều điểm tiến bộ.

Nguồn : diendankienthuc.net[/FONT]
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
[font=&amp]2.2 thời kỳ giữa thế kỷ xviii đến nửa đầu xix
[/font]


[font=&amp]trong lịch sử chế độ phong kiến việt nam, không có một thời kì nào mà cuộc biến động xã hội lại nổ ra sâu sắc rộng rãi và triền miên như ở cuối thời trung đại mà cụ thể là từ giữa thế kỉ xviii đến khoảng nửa đầu thế kỉ xix. Những cuộc khởi nghĩa nông dân kế tiếp nhau bùng lên từ bắc đến nam, phong trào này vừa chấm dứt thì phong trào khác đã cuồn cuộn xông lên, rồi từ phạm vi các địa phương, cuối cùng phong trào đã lan ra toàn quốc, tiến đến lật đổ cả nền thống trị của các tập đoàn phong kiến đương thời. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các phong trào nông dân khởi nghĩa nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là vấn đề về ruộng đất. Thông qua tình hình ruộng đất, ta có thể nắm được phần nào sự thịnh suy của chế độ phong kiến và lí giải được những đặc điểm của phong trào nông dân trung đại qua mỗi giai đoạn.
[/font]
[font=&amp] từ giữa thế kỉ xviii đến nửa đầu thế kỉ xix, chế độ phong kiến nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, đó không còn là sự suy yếu của một triều đại, một dòng họ như ở các thế kỉ trước nữa . Cuộc khủng hoảng ấy diễn ra trên tất cả các lĩnh vực mà một trong những biểu hiện rõ nhất là vấn đề về sở hữu ruộng đất- cơ sỏ tồn tại của chế độ phong kiến. ở thời kì khủng hoảng nay, nhà nước phong kiến đã không còn đủ sức để cân bằng giữa việc duy trì diện tích ruộng đất công và kiềm chế sự phát triển của ruộng đất tư .cùng với sự gia tăng về ruộng đất tư cũng là sự khó khăn của chính quyền phong kiến trong vấn đề thu tô thuế, lao dịch và xung binh lính,cũng là quá trình chiếm đoạt ruộng đất của địa chủ, cường hào, quan lại và đó cũng là sự bần cùng dẫn đến nạn phiêu tán của người nông dân.
[/font]
[font=&amp] có thể khái quát qua tình hình sở hữu ruộng đất trong giai đoạn cuối thời trung đại như sau: [/font]
[font=&amp]đó là sự bất lực của nhà nước phong kiến trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất công- tư. Mà biểu hiện của nó là tình trạng suy giảm của diện tích ruộng đất công do sự phát triển của ruộng đất tư đã lấn át ruộng đất công.[/font]
[font=&amp] nhà nước phong kiến phương đông nói chung và nhà nước phong kiến việt nam nói riêng, đều chủ yếu dựa vào chế độ sở hữu công về ruộng đất mà tồn tại. Ruộng đất công ấy một phần sẽ phong cấp cho quan lại như một hình thức trả lương và phân cấp cho các vương hầu, quý tộc nhằm lấy sự trung thành, một phần dùng để phân phát ruộng đất cho nông dân cày cấy từ đó thu tô thuế và buộc nhân dân lao dịch, xung lính….vì thế, nhìn chung các chính sách của các nhà nước phong kiến đối với ruộng đất là duy trì ruộng đất công. Tuy nhiên , nhà nước ấy cũng phải thừa nhận sự tồn tại của ruộng đất tư hữu của địa chủ, quan lại và tìm mọi cách để hạn chế sự phát triển của ruộng tư.
[/font]
[font=&amp]cho đến giữa thế kỉ xviii, ở đàng ngoài do những chính sách phong thưởng và ban cấp ruộng đất cho công thần và quan tướng, quân đội của chúa trịnh như thưởng hậu cho những người đã giúp mình đàn áp phong trào nông dân, chẳng hạn “phạm đình trọng được cấp 12 xã dân lộc, 150 mẫu ruộng thế nghiệp; đỗ thế giai, được cấp 20 xã dân lộc, 240 mẫu thế nghiệp..”; ngoài ra, một số những quan văn cũng được ban thưởng bằng ruộng đất, lại cấp ruộng đất cho vương thích, quý tộc… việc ban cấp ruộng đất trên đã phần nào tạo điều kiện cho diện tích ruộng tư phát triển, về sau, cùng với hoạt động kiêm tính đất đai của địa chủ, quan lại đã làm cho diện tích ruộng tư được mở rộng. Nó đe dọa trực tiếp đến chính nguồn thu của nhà nước. Vì vậy, sau này phủ chúa phải ra lệnh rút bớt ruộng lộc và thực hiện những chính sách hạn điền. Tuy nhiên, tình trạng chấp chiếm ruộng đất của cường hào, địa chủ ngày không vì vậy mà giảm đi. Tình hình căng thẳng đến mức, năm 1728, chúa trịnh cương đã phải kêu lên “ ruộng đất rơi hết vào nhà hào phú, còn dân nghèo thì không một miếng đất cắm dùi”. Ngay cả miền thượng du cũng vậy “bọn quyền thế làm văn khế giả để chiếm ruộng nên dân muốn cày cấy mà không có đất”. Ngô thời sĩ trước sự phát triển của ruộng tư cũng viết “ thần trộm thấy vài năm nay, hạn đói liên miên, quân dân cùng khốn….những nhà hào mục và dân giàu có khi lợi dụng ruộng bỏ hoang của dân diêu tán, phá liền bờ đi mà khai khẩn ruộng tư, ruộng công thì bấy lâu nay không còn vết tích gì, cũng bị họ chuyền tay bán đi. Có khi họ còn ẩn lậu cả ruộng đất công không nộp thuế,cày cấy làm giàu....”
[/font]
[font=&amp] ở đàng trong, nếu như từ trước năm 1669, ruộng đất ở vùng thuận quảng phần lớn là ruộng đất công thì về sau đặc biệt từ từ giữa thế kỉ xviii tình hình ruộng đất diễn biến theo chiều hướng “ ruộng công hoặc có người đem bán hoặc cầm cố, bỏ hoang, số còn lại bị bọn nhà giàu xâm chiếm khiến cho người nghèo không có mảnh đất cắm dùi, cho nên người giàu càng giàu, người nghèo lại càng nghèo, thuế thiếu, dân lưu li”. ở thuận hóa, thuế ruộng rất cao, giá thue ruộng công cũng nặng. ở gia định, ruộng đất phì nhiêu nhiều hơn ở thuận hóa nhưng ở đây tình hình tập trung vào tay địa chủ đông đảo, người nông dân bị lệ thuộc vào địa chủ và bị bóc lột địa tô nặng nề…
[/font]
[font=&amp] đến đầu thế kỉ xix, cơ cấu ruộng đất việt nam vẫn bao gồm hai bộ phận : Ruộng đất sở hữu thuộc sở hữu nhà nước và ruộng đất sở hữu thuộc sở hữu tư nhân. Nhưng chế độ tư hữu đã mở rộng đồng thời với sự thu hẹp của chế độ sở hữu công. Ruộng đất sở hữu công của nhà nước, “khoảng những năm 1820- 1843 còn 580.363 mẫu, chiếm 17,08% tổng diện tích, bao gồm một bộ phận do nhà nước trực tiếp quản lí, còn lại chủ yếu là ruộng đất công của các làng xã.”. Phan huy chú nhận xét “ nước ta duy chỉ có trấn sơn nam hạ là rất nhiều ruộng và đất bãi công….còn các xứ khác thì hạng ruộng công không còn là mấy” hay theo lời thượng thư bộ hộ hà duy phiên “ thừa thiên, quảng trị thì ruộng công nhiều hơn ruộng tư, quảng bình thì công tư bằng nhau, còn các hạt khác thì ruộng tư nhiều mà ruộng công ít”. Về ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân, tỉ lệ ruộng tư đầu thế kỉ xix chiếm khoảng 82,92 %,, khẳng định vị trí bao trùm, chi phối của loại hình sở hữu này trong toàn bộ chế độ ruộng đất. Tuy nhiên, sở hữu tư cũng bao gồm nhiều loại như sở hữu tư của địa chủ, của nông dân tự canh, của các lớp trung gian…[/font]
[font=&amp] chính quyền phong kiến ở thời kì này, mặc dù đã ban hành nhiều chính sách, cải cách như cính sách quân điền, hạn chế ruộng lộc diền, cấm mua bán ruộng đất thời lê trịnh, cải cách minh mạng nhưng ruộng đất tư vấn phát triển và tồn tại.
[/font]
[font=&amp] hệ quả của tình trạng trên đó là sự phiêu tán của nông dân:
[/font]

[font=&amp]cần phải hiểu, việc buộc phải phiêu tán là một việc làm vô cùng bất đắc dĩ đối với người nông dân việt nam vốn gắn mình rất chặt với quê hương, gia tộc tổ tiên và tình làng nghĩa xóm. Tình trạng đó chỉ xảy ra vào những thời điểm gay go nhất trong cuộc sống mỗi cá nhân, mỗi gia đình, trước những áp lực bức bách nhất về kinh tế hoặc chính trị, xã hội. [/font]
[font=&amp]trong những thế kỉ xviii- xix, những áp lực này thực sự xuất phát từ triều đình phong kiến và bộ máy quan liêu tham nhũng với chính sách thuế khóa, lao dịch, binh dịch nặng nề, thêm vào đó là nạn cướp đoạt, bóc lột của bộ phận cường hào địa phương, rồi thiên tai lũ lụt…. đã khiến cho nông dân phải phiêu tán khắp nơi. Cụ thể, ở giữa thế kỉ xviii, ở đàng ngoài, theo ngô thời sĩ “ trong số 9668 làng xã ở đồng bằng bắc bộ thì có tới 182 làng xã phiêu tán hoàn toàn, 443 làng xã phiêu tán phần lớn ,373 làng xã phiêu tán nhập vào xã khác, 78 làng xã nghèo túng cùng quẫn không nộp được thuế cho nhà nước” . đến nửa đầu thế kỉ xix, dưới sự cai trị của nhà nguyễn, tình trạng dân phiêu tán còn trầm trọng hơn nữa, cụ thể như năm gia long thứ tư 1806 “ các trấn hải dương, kinh bắc, sơn nam thượng, sơn nam hạ, hoài đức, thái nguyên..dân phiêu tán hơn 370 xã thôn”, năm 1810, riêng bốn trấn ở đồng bằng bắc bộ là hải dương, kinh bắc, sơn nam thượng, sơn nam hạ đã có 358 xã thôn bị phiêu tán”…
[/font]
[font=&amp] tình trạng phiêu tán trên của nông dân đã phá vỡ từng mảng nền thống trị của nhà nước phong kiến trung ương ở nông thôn, nó đánh mạnh vào cơ sở thần dân của nhà nước trung ương, là một đòn chí mạng giáng vào cơ sở kinh tế tài chính của tập đoàn phong kiến , nó tạo thêm nguồn bổ sung cho lực lượng nông dân khởi nghĩa, cuối cùng, nó đánh một đòn kinh tế hết sức quyết liệt vào các địa chủ trong làng xã. Vì địa chủ sẽ mất đối tượng bóc lột, ruộng đất phải bỏ hoang vì không có lực lượng sản xuất. Nông dân phiêu tán đi hết cũng là lúc địa chủ phải rời làng ra đi phần vì an ninh trật tự không đảm bảo, phần vì không thể gánh nổi thuế má các loại của chính ruộng đất của mình và cả của làng mà quan trên chiếu sổ bổ xuống theo đơn vị làng, quy trách nhiệm liên đới.
[/font]
[font=&amp] có thể thấy, tình hình ruộng đất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế của nhân dân trong xã hội phong kiến. Những mâu thuẫn về kinh tế đã được phản ánh trong chính trị thành mâu thuẫn giữa chính quyền phong kiến, quan liêu phản động với các tầng lớp nhân dân như nông dân, thợ thủ công, thương nhân mà chủ yếu là nông dân. Nông dân thì đòi có ruộng đất và giảm nhẹ bóc lột, thợ thủ công thì yêu cầu được sản xuất và kinh doanh tự do, yêu cầu thủ tiêu đặc quyền kinh tế trong công thương nghiệp. Thông qua đó, ảnh hưởng đến những đặc điểm của phong trào nông dân việt nam ở giai đoạn từ giữa thế kỉ xviii- xix.
[/font]
[font=&amp] thứ nhất, ảnh hưởng đến phạm vi diễn ra cuộc khởi nghĩa : Nếu như ở các thế kỉ xiv, xvi, xvii đầu xviii trong khi đàng ngoài phải liên tục đối mặt với nhũng phong trào nông dân thì ở đàng ngoài thì ở đàng trong do là vùng đất mới khai phá nên các chúa nguyễn vẫn giữ được tình trạng ổn định trong thời gian khá dài, nhưng bắt đầu khoảng từ những năm 30 của thế kỉ xviii, phong trào nông dân đã lan rộng ra phạm vi của cả nước, không còn là những cuộc khởi nghĩa nông dân lẻ tẻ nữa mà đã có sự liên kết giữa các địa phương thành một phong trào mang tính toàn quốc, tính dân tộc, tiêu biểu trong đó là phong trào nông dân tây sơn. Bước sang nửa đầu thế kỉ xix, phong trào nông dân cũng bùng nổ trên phạm vi cả nước vô cùng mạnh mẽ và ác liệt. đây quả thực là một thế kỉ nông dân khởi nghĩa
[/font]
[font=&amp]thứ hai, ảnh hưởng đến tính quyết liệt của phong trào đấu tranh: Nếu như ở các thế kỉ trước nông dân đấu tranh để bảo vệ quyền sở hữu tập thể với ruộng đất công xã. Thì ở cuối thời trung đại với hiện tượng chủ yếu, phổ biến là sự thu hẹp ruộng đất công làng xã, đất khẩu phần thì bị bọn cường hào địa chủ chiếm thì trên cả nước nhân dân lại vùng lên đấu tranh để chống quan lại, địa chủ cướp ruộng, xô đẩy nông dân vào con đường lưu vong và khi nông dân đi vào con đường siêu tán và lưu vong, bị bóc lột cùng cực thì yêu cầu về ruộng đất ngày càng sâu sắc dẫn đến phong trào đấu tranh rộng khắp và quyết liệt. Khởi nghĩa nông dân và chiến tranh nông dân cuối thời trung đại là hình thức cao nhất để giải quyết mâu thuẫn mang tính chất đối kháng của xã hội phong kiến : đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và sức sản xuất, giữa giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân. để giải quyết mâu thuẫn trên thì đặt ra cho phong trào nông dân thời này là phải thủ tiêu chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước, có nghĩa là thủ tiêu chế độ phong cấp đất đai cho quan lại, thủ tiêu chế độ chiếm hữu ruộng đất của quan lại, địa chủ lớn. đồng thời, về mặt chính trị cũng là thủ tiêu chế độ phong kiến quan liêu nặng nề thối nát. Chính sự khủng hoảng của chế độ phong kiến và tình hình sở hữu ruộng đất ở cuối thời trung đại cùng với những yêu cầu khách quan đã trình bày, đã làm bùng nổ và dẫn đến sự thắng lợi của phong trào nông dân tây sơn đã vươn lên lật đổ các tập đoàn phong kiến phản động, chấm dứt thực trạng cát cứ của đất nước và cũng hoàn thành nhiệm vụ về bảo vệ độc lập dân tộc. Về sau, khoảng nửa đầu thế kỉ xix, phong trào nông dân lại tiếp tục có bước phát triển mà nổ ra mạnh mẽ nhưng không giành được thắng lợi mà nguyên chủ yếu là do, bối cảnh lúc đó, thực dân pháp mở cuộc chiến tranh xâm lược pháp vi thế những người nông đã chuyển từ mục tiêu giai cấp sang mục tiêu đấu tranh dân tộc.
[/font]
3. Có hay không khẩu hiệu ruộng đất trong phong trào nông dân việt nam thời trung đại?

[font=&amp] trước hết cần khẳng định vấn đề ruộng đất là nguyên nhân sâu xa và chủ yếu dẫn đến sự bùng nổ của phong trào nông dân việt nam thời trung đại, mọi cuộc đấu tranh của nông dân đều hướng tới mục tiêu ruộng đất. Giữa phong trào đấu tranh của nông dân và chế độ phân phối ruộng đất có quan hệ mật thiết với nhau. Vì thế, khởi nghĩa nông dân trong xã hội phong kiến đã phản ánh một nguyện vọng chính đáng và vô cùng bức thiết của nông dân - ruộng đất. Tuy nhiên vấn đề ruộng đất được đề ra như thế nào, trực tiếp hay gián tiếp trong các phong trào nông dân là một vấn đề khá phức tạp và đã được nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu. Cho tới nay tất cả các học giả đều khẳng định rằng ruộng đất là một trong những mục tiêu lớn nhất của phong trào nông dân, nhưng hai chữ “ruộng đất” chưa bao giờ xuất hiện trực tiếp trong các khẩu hiệu đấu tranh của nông dân việt nam thời trung đại.
[/font]
[font=&amp] vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân đã được học giả nghiên cứu và thảo luận cách đây rất nhiều năm như trương hữu quýnh, nguyễn phan quang,…mọi học giả đều thừa nhận là chưa hề thấy những khẩu hiệu hoặc cương lĩnh về ruộng đất xuất hiện trong phong trào nông dân dưới chế độ phong kiến việt nam, bất cứ ở thời kỳ lịch sử nào, dẫu rằng “ yêu cầu ruộng đất” là một yêu cầu thiết tha biết bao đời nay của nông dân.
[/font]
[font=&amp] gs, trương hữu quýnh cho rằng: “trong sử sách chính thống của ta trước đây, chưa thấy có một cuộc khởi nghĩa nông dân nào nêu lên khẩu hiệu về một vấn đề liên quan đến ruộng đất.”. đúng như vậy, nếu xem xét các phong trào nông dân thì khẩu hiệu về ruộng đất của nông dân chưa được nêu lên cụ thể một cách rõ nét, gãy gọn với đúng nghĩa đen của chữ “khẩu hiệu” – cho đến nay chúng ta chưa phát hiện được những tài liệu thành văn chép về khẩu hiệu ruộng đất của phong trào nông dân thời phong kiến ở nước ta. Một khẩu hiệu ruộng đất cụ thể, rõ nét chưa được đề cập trong các phong trào.
[/font]
[font=&amp] tuy nhiên, chúng ta không nên chỉ căn cứ vào việc nông dân chưa đề ra được khẩu hiệu cụ thể về ruộng đất để nói rằng vấn đề khẩu hiệu ruộng đất chưa hề được đặt ra dưới phong trào nông dân, càng không thể nói rằng nông dân việt nam không có yêu sách về ruộng đất. Nếu trong thực tế, yêu sách ruộng đất của nông dân chưa được nêu lên một cách cụ thể, cô đọng trong một vài chữ, thậm chí chưa đề cập trực diện đến hai chữ “ruộng đất”, mà khái niệm ruộng đất có khi chỉ lẩn vào trong ý của một câu nói, một đoạn văn, nên coi đó là những mệnh đề có tính khẩu hiệu, phần nào phản ánh yêu sách ruộng đất, hoặc là những khẩu hiệu ruộng đất ở mức độ thấp. Một khi quan hệ sản xuất phong kiến nước ta còn ngự trị gần như tuyệt đối, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa hình thành, khi chế độ sở hữu ruộng đất lớn của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền còn giữ vai trò chi phối mọi chính sách về ruộng đất của các triều đại phong kiến, thì nông dân việt nam tuy chưa đề ra được những khẩu hiệu cụ thể hoặc cương lĩnh về ruộng đất như trong phong trào thái bình thiên quốc nhưng những biểu hiện về yêu sách ruộng đất có tính chất khẩu hiệu thì đã rải rác xuất hiện.
[/font]
[font=&amp] như vậy, ruộng đất là vấn đề cấp bách trong phong trào đấu tranh của nông dân nói chung và mục tiêu ruộng đất là một trong những động lực lớn thúc đẩy nông dân đấu tranh nhưng hai chữ “ruộng đất” lại chưa một lần trực tiếp nêu lên trong các khẩu hiệu đấu tranh.
[/font]
[font=&amp] cụ thể, chúng ta có thể xem xét khẩu hiệu trong một số phong trào đấu tranh của nông dân việt nam thời trung đại để thấy rõ điều này.
[/font]
[font=&amp] trước hết, chúng ta xem xét phong trào nông dân tây sơn thế kỷ xviii. Khi đấu tranh nghĩa quân tây sơn nêu lên việc “lấy của người giàu chia cho người nghèo”. Có thể thấy rằng đây là một khẩu hiệu đấu tranh thực sự, tuy hai chữ “ruộng đất” chưa được đề cập trực tiếp, song rõ ràng trong nó đã hàm chứa “yếu tố” ruộng đất. Vì của cải của người giàu không đơn thuần chỉ là thóc gạo, tiền bạc,..mà quan trọng nhất vẫn là ruộng đất. Hơn nữa, ruộng đất là tư liệu sản xuất duy nhất của nông dân thời trung đại, vì thế mọi cuộc đấu tranh của họ đều hướng vào việc giành ruộng đất về tay mình. Bởi vậy, chúng ta nên coi khẩu hiệu trên ít nhiều có bao hàm yêu sách ruộng đất của nông dân hoặc là một khẩu hiệu ruộng đất ở mức độ thấp.
[/font]
[font=&amp] hay là học giả nguyễn đổng chi khi nghiên cứu “lê hoàng triều kỷ” đã phát hiện khẩu hiệu của một cuộc khởi nghĩa của nông dân đàng ngoài thế kỷ xviii như sau: “cấm bọn giàu có ruộng đất không được cày, tiền nợ không được hỏi”. Tác giả đã đánh giá rất cao sự kiện trên khi dùng nó để giải thích yêu sách của nông dân. Khẩu hiệu trên không chỉ là một bằng cớ mạnh mẽ nói lên yêu cầu bức thiết về ruộng đất của nông dân mà còn là một bằng cớ về vấn đề khẩu hiệu ruộng đất trong phong trào nông dân.
[/font]
[font=&amp] với những dẫn chứng vừa nêu, chúng ta có thể nhận thấy rằng: Mặc dù vấn đề chưa một lần được đề ra trực tiếp, rõ ràng trong các khẩu hiệu đấu tranh của nông dân, nhưng nó đã gián tiếp nói đến yêu cầu ruộng đất hay những vấn đề liên quan đến ruộng đất.
[/font]
[font=&amp] vậy tại sao phong trào nông dân việt nam thời trung đại không đưa ra yêu sách ruộng đất trực tiếp trong các khẩu hiệu đấu tranh của mình? Do khả năng và điều kiện nghiên cứu có hạn, chúng tôi xin đưa ra một vài lý giải sau:[/font]
[font=&amp] thứ nhất[/font][font=&amp], cũng giống như giai cấp nông dân thời phong kiến của các quốc gia khác trên thế giới, khả năng nhận thức của nông dân việt nam nói chung và những người lãnh đạo phong trào nói riêng còn nhiều hạn chế ( do ít được học hành, tính chất cố kết trong cộng đồng làng xã quá lớn) do đó họ chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc đưa vấn đề ruộng đất một cách trực tiếp vào các khẩu hiệu đấu tranh.
[/font]
[font=&amp] thứ hai[/font][font=&amp], đa số nông dân khởi nghĩa đều đi theo lời kêu gọi của những người lãnh đạo chứ chưa thực sự có một quá trình chuẩn bị về tư tưởng, họ tham gia chỉ mang tính nhất thời. Những khẩu hiệu được đề ra thường chỉ do những người lãnh đạo phong trào quyết định, để thu phục nông dân tham gia một cách nhanh nhất thì khẩu hiệu mà họ đưa ra phải đáp ứng ngay những yêu cầu bức thiết nhất lúc bấy giờ như “lấy của người giàu chia cho người nghèo”, còn ruộng đất là vấn đề sâu xa mang tính lâu dài với trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế của mình nông dân chưa thể nhận thức hết tầm quan trọng của vấn đề này.[/font]

4. Những tác động của phong trào nông dân thời trung đại đến chính sách ruộng đất của nhà nước phong kiến

[font=&amp]nông dân và ruộng đất, người sản xuất trực tiếp và tư liệu sản xuất chủ yếu trong cơ cấu kinh tế - xã hội phong kiến có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Chúng ta không thể không quan niệm vấn đề nông dân cắt rời khỏi vấn đề ruộng đất mà giữa phong trào đấu tranh của nông dân và chế độ phân phối ruộng đất có quan hệ với nhau, điều ấy chắc không ai phủ nhận được? Phong trào nông dân nổ ra đã có tác động như thế nào đến chính sách về ruộng đất của các triều đại phong kiến việt nam thời trung đại?
[/font]
[font=&amp]như chúng ta đã biết, trong lịch sử trung đại, các phong trào nông dân thường xuyên xảy ra vào cuối mỗi triều đại –khi mà nhà nước phong kiến suy yếu, bất lực, không thể giải quyết được những mâu thuẫn của xã hội. đối với người nông dân ruộng đất là một nhu cầu bức thiết và sống còn, ruộng đất là nguồn sống chủ yếu của nông dân và là nguồn thu chủ yếu của nhà nước. Do đó, ruộng đất có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của người dân đồng thời ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội phong kiến. Khi nhà nước phong kiến không đáp ứng được nhu cầu về ruộng đất cho nông dân, tất yếu mâu thuẫn bùng nổ và một cuộc đấu tranh giai cấp nổ ra là điều không thể tránh khỏi. Trước thực trạng các cuộc khởi nghĩa nông dân diến ra mà nguyên nhân chủ yếu là vấn đề ruộng đất, các nhà nước phong kiến đã có ý thức giải quyết vấn đề này nhằm xoa dịu mâu thuẫn giai cấp, ổn định tình hình chính trị - xã hội của đất nước.
[/font]
[font=&amp]vào cuối thòi nhà trần, khi chế độ điền trang, thái ấp đang lấn át ruộng công, đã khiến tình cảnh người nông nô không chịu nổi sự bóc lột nặng nề của địa chủ buộc phải chạy trốn khỏi các điền trang. Nhiều cuộc nổi dậy của nông nô đã xuất hiện… trong tình hình đó, năm 1397, theo đề nghị của hồ quý ly, vua trần xuống chiếu hạn định số ruộng tư. đại vương, trưởng công chúa không có hạn định, dưới đến thứ dân không được quá 10 mẫu. Người nào nhiều ruộng được phép lấy ruộng chuộc tội, số ruộng thừa ra thì sung công. để kiểm tra việc thực hiện chủ trương hạn điền, năm 1398, hồ quý ly cho các quan về địa phương làm lại sổ ruộng đất. Ai có ruộng tư phải kê khai rõ số ruộng và cắm thẻ ghi tên của mình trên mảnh ruộng. Sau 5 năm, sổ sách phải làm xong, ruộng nào không có ai nhận thì nhà nước sung công. Sự điều chỉnh chính sách này của hồ qúy ly phần nào đã giải quyết được sự khủng hoảng về vấn đề ruộng đất lúc đó, đẩy điền trang thái ấp nhanh chóng đi đến con đường phá sản.
[/font]
[font=&amp]rút ra được những kinh nghiệm từ các triều đại trước, trong đó có kinh nghiệm để giải quyết nhu cầu về ruộng đất cho nông dân, nhằm ổn định và phát triển đất nước, ngay từ khi mới thành lập nhà lê sơ đã có nhiều chính sách nhằm thủ tiêu chế độ điền nô và nô tỳ, thủ tiêu chế độ chiếm hữu ruộng đất tư. Với chế độ sở hữu của nhà nước, người nông dân trong thế kỷ xv có được tự do hơn; mức độ bị bóc lột của họ cũng nhẹ hơn thân phận điền nô và nô tỳ ở thế kỉ xiv . Chẳng hạn : Người nông dân khi lĩnh ruộng công thì ngoài thuế đinh theo luật pháp quy định, đem nộp cho nhà nước hoặc cho quan lại được phong cấp; họ không bị bóc lột thêm gì khác nữa. đối với điền nô cày cấy trong các điền trang thời trần thì không như thế. Chẳng những về thân thể của họ không được tự do mà sự bóc lột của bọn lãnh chúa cũng không có hạn định, không quy định thành luật pháp hẳn hoi. Cho nên, tình cảnh của họ đương nhiên là thua kém tình cảnh người nông dân “tá điền” của nhà nước. Chính vì vậy mà vào thời nhà trần, ta chỉ nghe thấy nói nhiều đến khởi nghĩa của nô tỳ, điền nô trong các đại điền trang chứ không thấy nói đến những cuộc nông dân khởi nghĩa chống triều đình phong kiến.
[/font]
[font=&amp]trong giai đoạn chế độ phong kiến việt nam khủng hoảng, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra đã khiến vấn đề ruộng đất trở thành bức thiết buộc nhà nước phải đề ra những chính sách tích cực nhằm cải thiện tình hình.[/font]
[font=&amp]chính sách của nhà trịnh – nguyễn:
[/font]

[font=&amp]cuộc khởi nghĩa mở màn cho phong trào nông dân ở thế kỷ xviii nổ ra vào năm 1737 của nhà sư nguyễn dương hưng chưa chấm dứt thì cuộc khởi nghĩa của lê duy mật từ 1738 – 1769 đã đồng thời nổ ra. Trong vòng hơn 40 năm (1737 -1770), phong trào nông dân nổ ra liên tục khắp nơi ở đàng ngoài làm cho chính quyền thống trị không kịp trở tay. Trước sức mạnh của phong trào nông dân, nhà lê – trịnh một mặt vừa lo đối phó bằng cách điều binh khiển tướng để đàn áp phong trào, mặt khác vừa có những biện pháp kinh tế - xã hội nhằm làm giảm nhẹ những nỗi thống khổ của dân đặc biệt là nông dân. [/font]
[font=&amp]những cuộc đàn áp phong trào nông dân thế kỷ xviii được sử sách ghi lại nhiều và giới nghiên cứu đã đề cập đến. ở đây, chúng tôi chỉ quan tâm đến những biện pháp kinh tế - xã hội mà chính quyền lê – trịnh đã thực thi nhằm ổn định trật tự xã hội, hạn chế sự nổi dậy của nông dân. Những biện pháp đó không phải chờ đến khi phong trào nông dân nổ ra mới thực hiện mà đã được tiến hành ngay từ 30 năm đầu thế kỷ xviii khi xã hội vẫn còn yên bình. Chẳng han như :
[/font]
[font=&amp]trịnh cương mới lên ngôi chúa được 2 năm vào năm 1711 đã cho bàn định thể lệ quân cấp ruộng công để đem lại quyền lợi, sự công bằng và tiện lợi cho nhân dân. Theo quy định phần ruộng khẩu phần, cứ 6 năm chia lại 1 lần, khi chia ruộng không được làm ảnh hưởng đến thời vụ làm ruộng của dân. đối tượng được cấp không phân biệt sang hèn, trên từ quan viên dưới đến thứ dân kể cả những người cô quả và phế tật.
[/font]
[font=&amp]sau khi định lệ quân cấp ruộng, năm 1716, trịnh cương lại cho định phép chia đều thuế khóa và tạp dịch, thay cho phép bình lệ thời trước, chỉ có nhân đinh phải gánh chịu. Còn nay, các công việc hoặc đóng góp gì thì nhân đinh và điền mẫu mỗi bên đều chịu môt phần để cho thuế khóa và lực dịch được đều nhau.
[/font]
[font=&amp]năm 1724, trịnh cương đã ra lệnh giảm tô thuế ở những nơi cần thiết như thanh hóa là đất “thang mộc”, nghệ an là nơi dân hưởng ứng theo việc nghĩa (theo lê trang tông khởi binh đánh mạc) và kinh kỳ liền sát với xa giá của vua chúa. ở thanh hóa và nghệ an, tô ruộng được giảm một nửa, thuế thân dung được miễn trừ. Tại những vùng xa xôi như trấn cao bằng trước kia, trịnh cương cho giảm nhẹ các thuế phụ như thuế đánh vào đầu trâu, thuế nộp hồng quả, thuế vải thổ…và bỏ bớt các sở tuần ty. Từ đó dân 4 châu của trấn cao bằng mới dần được yên ổn.
[/font]
[font=&amp]sang đến thời trịnh giang là thời kỳ phong trào nông dân nổ ra mãnh liệt nhất. Nhưng ngay những năm đầu trị vì (khoảng chục năm) trước khi phong trào nông dân bùng nổ, trịnh giang đã làm được một số việc về an sinh xã hội chứ không phải như quan niệm xưa nay thường lên án trịnh giang là người “tối tăm ươn hèn không gánh vác nổi việc nước” hoặc chỉ ăn chơi dâm dục không chú ý đến dân sinh để phong trào nông dân bùng lên mạnh mẽ hoặc chỉ lo đàn áp phong trào và nhấn chìm phong trào trong bể máu.
[/font]
[font=&amp]đến thời trịnh doanh (1740 – 1767), tuy có bận rộn nhiều trong việc đối phó trực tiếp với các phong trào nông dân đang nổi dậy rầm rộ ở khắp đàng ngoài, nhưng trịnh doanh vẫn chú ý nhiều tới những biện pháp an dân. Ngay năm đầu lên cầm quyền, trịnh doanh đã hạ lệnh trích số thóc đong ở sơn nam lấy 10 vạn bát quan phát chẩn cho dân nghèo vùng hải dương. Cũng vào năm này, ở vùng đông bắc, dân bị đói, triều đình phải phát gạo công nấu cơm, cháo để phát chẩn cho dân. Không những vậy, triều đình còn khuyến khích dân ở những vùng khác vân chuyển thóc gạo đến bán cho dân.[/font]
[font=&amp]từ cuối đời vĩnh hựu (1735 – 1740), trộm giặc ở các nơi nổi dậy nhất là vùng hải dương, dân gian bỏ cả cày cấy, các thứ tích trữ ở làng xóm hầu như hết sạch, dân phiêu tán dắt díu nhau kiếm ăn đầy đường, giá gạo tăng vọt, dân phần nhiều phải ăn rau, ăn củ, chết đói chồng chất lên nhau, dân mười phần nay còn lại không được một… triều đình phải lấy thóc trong kho ra phát chẩn cho dân ở tứ trấn và kinh kỳ.
[/font]
[font=&amp]năm 1741, do thiên tai đói kém nên vừa lên ngôi, trịnh doanh đã hạ chiếu tha tô thuế cho các lộ, triệt bỏ các sở tuần ti trái ngạch, cấm tố cáo xằng, bắt bớ bậy những người trước theo khởi nghĩa nay đã theo lệnh trở về. [/font]
[font=&amp]có thể nói, dưới thời lê – trịnh, do hậu quả của chiến tranh và sự phát triển của ruộng đất tư hữu về ruộng đất, sự quan tâm của nhà nước tới nông nghiệp không còn đạt được kết quả như ở thế kỷ xv. Lụt lội hạn hán thường xuyên đe dọa, đời sống nhân dân khổ cực. để duy trì và bảo vệ cuộc sống của mình, nhân dân ta đã phải ra sức lao động, sáng tạo. Công cuộc khẩn hoang ở các vùng ven biển thuộc sơn nam, ở các vùng trung du thuộc cao bằng, thái nguyên được thực hiện khẩn trương. Nhiều làng mới được thành lập, diện tích ruộng đất mở rộng và ngày càng thu hút dân lưu tán. để khuyến khích việc khai hoang, chúa trịnh tạm thời miễn thuế cho loại ruộng “ẩn lậu”, cho phép xem ruộng khai hoang là ruộng tư, cấm quan lại không được khám xét, quấy nhiễu. Nhờ đó, nhân dân ra sức chăm lo sản xuất, như nhận xét của các giáo sĩ phương tây ; “ đất đai màu mỡ và không lúc nào nghỉ sản xuất…nhân dân rất hiểu giá trị của ruộng đất nên không bao giờ bỏ hoang…và như vậy, mỗi năm họ thường làm được 2-3 vụ lúa…”.
[/font]
[font=&amp]nhằm vượt qua cảnh khổ ở quê hương, người nông dân rời làng đi phiêu tán,tha phương cầu thực. Từ giữa thế kỷ xviii, nhà nước lê – trịnh bắt đầu chú ý đến tầng lớp nông dân này và đưa họ vào một quy chế riêng về nghĩa vụ và quyền lợi. Trong lúc đó, ở vùng ven biển, các làng mới thành lập trên cơ sở khai hoang, ngày càng gia tăng hoặc mở rộng. Cuộc sống của người nông dân ở đây sung túc và bình đẳng hơn so với các làng cũ. Chế độ tô thuế cũng dễ chịu hơn do ý thức động viên của nhà nước.
[/font]
[font=&amp]tuy nhiên trong thực tế, những biện pháp đó của chính quyền lê trịnh chỉ có tác dụng phần nào, tình trạng phiêu tán của dân vẫn tiếp diễn và ngày càng trầm trọng. Những việc làm của nhà nước phong kiến không nằm ngoài mục đích là hạn chế sự nổi dậy của các phong trào từ trong nhân dân đang tấn công vào chính quyền thống trị. Nhưng dù sao, những biện pháp mà lê – trịnh đã làm trong suốt thời kỳ mà phong trào nông dân nổ ra đến khi bị dập tắt đều là những biện pháp hữu ích góp phần làm ổn định tình hình lúc bấy giờ. Trong hoàn cảnh xã hội hỗn loạn ở thế kỷ xviii, nếu triều đình lê – trịnh không có thêm những biện pháp kinh tế, ruộng đất nêu trên mà chỉ chú trọng tới việc đàn áp phong trào thì tình hình chắc chắn sẽ khác, chính quyền thống trị chưa chắc đã duy trì được như hiện tại. đó là một trong những tác động của phong trào nông dân đến sự nhận thức của nhà nước lê – trịnh về vấn đề ruộng đất trong quá trình cai trị
[/font]
[font=&amp]- chính sách ruộng đất của nhà nguyễn :
[/font]
[font=&amp]triều nguyễn được biết tới là triều đại với những cuộc khởi nghĩa nông dân rầm rộ, mạnh mẽ, liên tục.trong nửa thế kỉ xix, hơn 500 cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra, đe dọa nền thống trị của giai cấp phong kiến nguyễn. Nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: Khởi nghĩa phan bá vành (1821 – 1827), lê văn khôi (1833 – 1835), nông văn vân (1833 – 1835) đã chứng tỏ sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân việt nam, khiến triều đình nguyễn phải dồn hầu như toàn bộ lực lượng để đối phó, đàn áp. Bên cạnh những kế sách về vũ lực, các vua nguyễn còn đề ra nhiều biện pháp nhằm cải thiện tình hình ruộng đất, theo hướng tích cực.ví dụ: Chính sách khai hoang, doanh điền, quân điền …
[/font]
[font=&amp]năm 1828, sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa của phan bá vành, nguyễn công trứ lúc đó là tổng đốc hải an đề nghị ngay với minh mạng cho tổ chức khai hoang, lập làng ở nam định và ninh bình. Nguyễn công trứ được cử làm dinh điền sứ, dựa vào những người có lực ở địa phương để mộ dân nghèo mọi nơi tới khai khẩn. Công cuộc khai hoang đó đã đạt được kết quả tốt ở vùng ven biển nam định, ninh bình. Ngay năm 1828, đã xuất hiện thêm một huyện tiền hải ở nam định với 2350 dân đinh, 18970 mẫu ruộng, 2 xã thuộc nam trực và 1 tổng thuộc giao thủy. Hết năm 1829, lại có thêm 1 huyện ở kim sơn – ninh bình gồm 1260 dân đinh với 14600 mẫu ruộng.
[/font]
[font=&amp]tuy vậy, thực tế lịch sử cho thấy sau khi gia long lên ngôi (1802), quỹ đất công của nhà nước còn lại rất ít, diện tích ruộng đất tư ngày càng tăng mạnh, nhà nước phong kiến nhìn thấy nguy cơ đe dọa với mình song không thể làm gì ngoài việc tăng cường mọi chế độ bóc lột : Tô thuế, lao dịch với người nông dân. Chính vì thế, tình trạng nông dân thiếu thuế hoặc không nộp được thuế cũng là một hiện tượng phổ biến phản ánh sự khốn đốn của người nông dân về nạn tô thuế. Chính sử nhà nguyễn hầu như không năm nào không ghi lại tình hình thiếu thuế trong nhân dân nhất là những năm thiên tai nặng nề. Gia long buộc phải dùng biện pháp giảm tô thuế trong một vụ hoặc cả năm. Biện pháp miễn giảm tô thuế mà gia long đưa ra coi như là một trong những kế sách đối phó với các cuộc đấu tranh của nông dân rõ ràng là một biện pháp bất đắc dĩ của nhà nước phong kiến. Mặt khác, nó đánh dấu những thắng lợi nhất định của phong trào nông dân. Tình trạng tô thuế nặng nề là một trong những nguyên nhân làm nổ ra các cuộc khởi nghĩa, nhưng đó cũng không phải là vấn đề cơ bản nhất. Bởi vậy việc miễn giảm tô thuế không thể dập tắt được những cuộc đấu tranh như ý muốn của gia long mặc dầu biện pháp này ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn thu nhập chủ yếu của triều đình, hạn chế được những chi phí và ngày càng lớn về quân sự, xây dựng cung điện, thành quách và cung cấp lương bổng cho cả một bộ máy quan lại cồng kềnh. Thực ra giữa lúc mất mùa, đói kém thì dẫu triều đình có áp dụng những biện pháp khắc nghiệt đến mấy thì nông dân cũng không thể lấy đâu ra thóc lúa để nộp tô thuế.[/font]
[font=&amp]như vậy, có thể nói khi các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, nhà nước phong kiến, mặc dù đã có sự điều chỉnh chính sách ruộng đất nhằm xoa dịu mâu thuẫn giai cấp song do điều kiện cụ thể của đất nước, do giai cấp thống trị ích kỉ chỉ muốn bảo vệ quyền lợi dòng họ, giai cấp mình song tình hình ruộng đất vẫn chưa được giải quyết, chính sách giai cấp phong kiến đưa ra thường mang tính chất đối phó, bị động và rất nhỏ giọt. điều đó, không khiến cho tình hình đất nước (nhất là thế kỉ xix) được khởi sắc mà trái lại khiến cho phong trào nông dân bùng lên ngày càng mạnh mẽ.
[/font]
[font=&amp]trong phong trào nông dân thời trung đại,yêu cầu về ruộng đất của người nông dân là vấn đề xuyên suốt, căn bản nhất cần được giải quyết. Tuy nhiên hiếm có cuộc khởi nghĩa nông dân nào nổ ra lại giành được thắng lợi như phong trào tây sơn. Một nhà nước phong kiến tiến bộ được dựng lên dưới sự lãnh đạo của người anh hùng áo vải quang trung; với tư cách là người gần gũi với nông dân, hiểu nguyện vọng của nông dân, nhà nước tây sơn đã có những chính sách như thế nào đối với vấn đề ruộng đất ?
[/font]
[font=&amp]trong cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến vào cuối thế kỷ xviii, nền kinh tế nước ta bị đình trệ và phá hoại nghiêm trọng. Sự chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ làm cho kinh tế tiểu nông bị uy hiếp, hàng loạt nông dân bị tước đoạt mất hết tư liệu sản xuất, bị lệ thuộc vào vòng bóc lột địa tô nặng nề của địa chủ. Mặt khác, nhà nước phong kiến lại tăng cường tô thuế, phục dịch nặng nề để cung ứng cho nhu cầu xa xỉ của tầng lớp vua chúa và cả một bộ máy quan liêu sâu mọt, thối nát. Kết quả là kinh tế tiểu nông bị phá sản, hàng vạn nông dân bần cùng, mất ruộng đất, lưu vong, phiêu tán. đồng ruộng bỏ hoang, xóm làng tiêu điều, xơ xác là tình cảnh phổ biến bao trùm nông thôn lúc bấy giờ.
[/font]
[font=&amp]sau khi nhà tây sơn thành lập, phục hồi nông nghiệp là yêu cầu kinh tế quan trọng nhất của một nhà nước phong kiến tiến bộ vào cuối thế kỷ xviii. Những yêu cầu đó đã được quang trung chú ý giải quyết.
[/font]
[font=&amp]trong “chiếu khuyến nông”, quang trung ghi rõ : “ít lâu nay, trong nước bị binh lửa, đinh tán điền hoang, số đinh điền so với trước kia mười phần kém đến bốn năm phần. Nay trong nước đã bình định, cần phải phục hồi dân phiêu tán, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, làm cho dân du thủ du thực trở về với ruộng đất.”
[/font]
[font=&amp]quang trung đã đề ra hai biện pháp chủ yếu, liên quan khăng khít với nhau là đưa nông dân phiêu tán trở về sản xuất và thanh toán tình trạng ruộng đất bỏ hoang. Trên cơ sở đó, tất cả những người lang thang, ngụ cư nơi khác nhất thiết đều phải trở về nguyên quán làm ăn. Chỉ trừ trường hợp những người nào đã sinh cơ lập nghiệp ở xã khác được ba đời rồi thì cho nhập tịch ở xã ấy; những xã nào chấp chứa người trốn tránh, vi phạm pháp lệnh trên thì cả xã trưởng sở tại đều bị trừng phạt. Bọn lưu manh, côn đồ, những người trốn tránh lao động vào ẩn nấp trong chùa cũng bắt phải hoàn tục, trở về quê hương làm ăn lượng thiện.
[/font]
[font=&amp]cũng trong “chiếu khuyến nông”, quang trung giao trách nhiệm cho các quan lại địa phương, gấp rút chấm dứt tình trạng ruộng đất hoang phế. Ruộng đất công đem cấp cho dân trong xã cày cấy, nộp tô cho nhà nước; ruộng đất tư giao cho chủ nhân, khai khẩn sản xuất đầy đủ, nộp thuế cho nhà nước. Các xã trưởng phải lập sổ đinh điền trong đó kê khai rõ số nhân đinh phiêu tán mới trở về, số ruộng đất còn hoang phế và đã khai khẩn nộp lên trên (tháng 9/1789). Nhà nước lại quy định thời hạn chậm nhất các xã phải đảm bảo thanh toán hết ruộng đất bỏ hoang. Quá thời hạn ấy mà không khai khẩn hết thì nếu là ruộng công sẽ thu thuế điền gấp đôi, nếu là ruộng tư sẽ tịch thu làm của công. đó là những biện pháp phục hồi nông nghiệp rất tích cực. Chính sách ruộng đất của quang trung rõ ràng chỉ là những cải cách trong khuôn khổ duy trì chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến. Về cơ bản, kết cấu kinh tế và xã hội của nước ta thời quang trung không có nhiều thay đổi lớn so với trước. Như vậy, chính sách cải cách ruộng đất của quang trung chỉ giới hạn ở khía cạnh đảm bảo cho người nông dân lao động có điều kiện sản xuất, thanh toán tình trạng ruộng đất bỏ hoang, nhân dân phiêu bạt để phục hồi kinh tế nông nghiệp đang đình đốn nghiêm trọng. Chia ruộng đất công cho nông dân cày cấy, nộp tô không phải là biện pháp cách mạng nhưng trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ đó là chính sách hợp lý – đảm bảo yêu cầu ruộng đất của nông dân.
[/font]
[font=&amp]dưới thời quang trung, chế độ ban cấp ruộng đất cho quan lại (lộc điền) hầu như bị bãi bỏ, nên ruộng đất công mới tịch thu đều được nhà nước giao về cho các xã chia dân cày cấy. Chính sách đó có tác dụng phục hồi kinh tế tiểu nông, và trên cơ sở đó phục hồi lại kinh tế nông nghiệp. Người nông dân cày cấy ruộng đất công tuy không có quyền sở hữu ruộng đất phải nộp tô cho nhà nước, nhưng ít nhất cũng có điều kiện sản xuất, có điều kiện xây dựng lại nền kinh tế cá thể của mình. Với quang trung : “ chính sách của đấng vương giả là vun gốc, cắt ngọn làm sa o cho dân được yên ổn, có ruộng đất cày cấy, để rồi trong nước không có dân lười biếng, ngoài đồng không có ruộng bỏ hoang”. điều này khác hẳn với chính sách của họ trịnh trước đây lũng đoạn ruộng đất công của thôn xã để cấp cho quân lính và quan lại.
[/font]
[font=&amp]nhờ đó, đến vụ mùa năm 1791, sử cũ chép mùa màng trở lại phong đăng và năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình, đời sống nhân dân ổn định. Trong bài phú “tụng tây hồ”, nguyễn huy lượng đã nói lên lòng biết ơn của nhân dân đối với quang trung: “ tới mậu thân (1788) từ rỡ vẻ tường vân sông núi khắp nhờ công đãng địch; qua canh tuất (1790) lại tưới cơn thì vũ, cỏ cây đều đội đức chiêm nhu”. Trong trình độ kĩ thuật thấp kém bấy giờ và trong điều kiện kinh tế bị phá hoại nghiêm trọng thì đó là những thành tích to lớn, là kết quả lao động sáng tạo của người nông dân nói chung và vua quang trung nói riêng.
[/font]
[font=&amp]trong lịch sử trung đại việt nam, phong trào nông dân khởi nghĩa đã trở thành một hiện tượng lịch sử, xã hội có ảnh hưởng to lớn đến sư phát triển của dân tộc. Dù chủ yếu thất bại song phong trào đã buộc chính quyền thống trị phải thực hiện một số chính sách, biện páp cải thiện cuộc sống cùng cực của nhân dân, để xoa dịu đấu tranh nhằm cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền. Có rất nhiều bằng chứng nói lên kết quả đó của phong trào nông dân điển hình là một số biện pháp như an dân, phát chẩn cho dân nghèo, tha bỏ một số loại thuế cho dân dưới thời trịnh doanh,trịnh sâm…hoặc đẩy mạnh công cuộc khai hoang, phục hóa đất đai để chia cho dân sản xuất (doanh điền – minh mạng). đặc biệt vấn đề ruộng đất trong phong trào nông dân tây sơn đã thể hiện sự cố gắng, nô lực của quang trung trong việc mang lại quyền lợi cho người nông dân. đó là biểu hiện của một nhà nước phong kiến với nhiều điểm tiến bộ.

Nguồn : diendankienthuc.net[/font]

theo bạn phong trào nông dân trung đại việt nam có mang màu sắc tôn giáo không? Vì sao?
 
Phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại có xuất hiện các phong trào đấu tranh theo tôn giáo nhưng trong số hàng mấy trăm cuộc khởi nghĩa trong suốt tiến trình chỉ có ba cuộc khởi nghĩa đấu tranh mang màu sắc tôn giáo. Ba trong số hàng trăm cuộc khởi nghĩa là một con số cá biệt. Có thể khẳng định rằng, toàn bộ bức tranh phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại nhìn chung không mang màu sắc tôn giáo, vì những lý do sau:

Thứ nhất: Việt Nam có một đặc trưng là sự dung hòa giữa các tôn giáo, đã từng có thời kỳ "tam giáo đồng nguyên" mà không xảy ra những cuộc chiến tranh tôn giáo lớn giống như chiến tranh nông dân Đức...

Thứ hai: tôn giáo ở Việt Nam có vai trò nhất định trong đời sống chính trị như đạo Phật, đạo Nho nhưng có thể thấy rằng địa vị chính trị của các tôn giáo không giống như các nước phương Tây mà ở đó tôn giáo nắm giữ và chi phối vương quyền, thần quyền cùng với vương quyền quàng ách áp bức lên đời sống nhân dân, dẫn đến các cuộc chiến chống lại tôn giáo. Còn ở Việt Nam các tôn giáo nói chung gần gũi với đời sống nhân dân

Mặt khác cần thấy rằng, ở cuối mỗi triều đại, nhất là khi chế độ phong kiến lâm vào cuộc khủng hoảng, suy yếu, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, đời sống nhân dân khổ cực thì không cần tới các hình thức tôn giáo, nông dân vẫn nổi dậy đấu tranh mạnh mẽ.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại có xuất hiện các phong trào đấu tranh theo tôn giáo nhưng trong số hàng mấy trăm cuộc khởi nghĩa trong suốt tiến trình chỉ có ba cuộc khởi nghĩa đấu tranh mang màu sắc tôn giáo. Ba trong số hàng trăm cuộc khởi nghĩa là một con số cá biệt. Có thể khẳng định rằng nhìn toàn bộ bức tranh phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại không mang màu sắc tôn giáo vì những lý do sau:

Thứ nhất: Việt Nam có một đặc trưng là sự dung hòa giữa các tôn giáo, đã từng có thời kỳ "tam giáo đồng nguyên" mà không xảy ra những cuộc chiến tranh tôn giáo lớn giống như chiến tranh nông dân Đức...

Thứ hai: tôn giáo ở Việt Nam có vai trò nhất định trong đời sống chính trị như đạo Phật, đạo Nho nhưng có thể thấy rằng địa vị chính trị của các tôn giáo không giống như các nước phương Tây mà ở đó tôn giáo nắm giữ và chi phối vương quyền, thần quyền cùng với vương quyền quàng ách áp bức lên đời sống nhân dân, dẫn đến các cuộc chiến chống lại tôn giáo. Còn ở Việt Nam các tôn giáo nói chung gần gũi với đời sống nhân dân

Mặt khác cần thấy rằng, ở cuối mỗi triều đại, nhất là khi chế độ phong kiến lâm vào cuộc khủng hoảng, suy yếu, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, đời sống nhân dân khổ cực thì không cần tới các hình thức tôn giáo, nông dân vẫn nổi dậy đấu tranh mạnh mẽ.

Hay nói 1 cách ngắn gọn, thì Phong trào nông dân việt Nam Không mang màu sắc tôn giáo bởi vì Việt Nam không có mâm thuẫn tôn giáo, Cám ơn câu trả lời của bạn nhé
 
Phong trào "nhìn chung không mang màu sắc tôn giáo" chứ không phải "không mang màu sắc tôn giáo". Trong suốt thời kỳ trung đại có tới hàng trăm cuộc khời nghĩa của nông dân nhưng chỉ tồn tại ba phong trào mang màu sắc tôn giáo, đó là một con số cá biệt chứ không phải điển hình.
 
Phong trào "nhìn chung không mang màu sắc tôn giáo" chứ không phải "không mang màu sắc tôn giáo". Trong suốt thời kỳ trung đại có tới hàng trăm cuộc khời nghĩa của nông dân nhưng chỉ tồn tại ba phong trào mang màu sắc tôn giáo, đó là một con số cá biệt chứ không phải điển hình.

Bạn nói phải, nhưng 3 phong trào đó là gì?
 
Tại sao lại không mang màu sắc tôn giáo , thời kì này có 3 phong trào có mang màu sắc tôn giáo mà?
Đúng có 3 cuộc khởi nghĩa mang màu sắc tôn giáo đó là khởi Nghĩa Của Phạm Sư Ôn, Khởi nghĩa của Trần Cảo, 1 cuộc nữa mình không nhớ. Nhưng nó chỉ mang tính chất cá nhân nó không là su hướng chung của phong trào nông dân Việt Nam trung đại, Với lại màu sắc Tôn giáo của các cuộc khởi nghĩa k mang tính chất quyết liệt.
 
Đúng có 3 cuộc khởi nghĩa mang màu sắc tôn giáo đó là khởi Nghĩa Của Phạm Sư Ôn, Khởi nghĩa của Trần Cảo, 1 cuộc nữa mình không nhớ. Nhưng nó chỉ mang tính chất cá nhân nó không là su hướng chung của phong trào nông dân Việt Nam trung đại, Với lại màu sắc Tôn giáo của các cuộc khởi nghĩa k mang tính chất quyết liệt.

Không quyết liệt nhưng nó có mang màu sắc tôn giáo. nên nhìn chung mình thấy ok hơn đó bạn,
 
Phong trào "nhìn chung không mang màu sắc tôn giáo" chứ không phải "không mang màu sắc tôn giáo". Trong suốt thời kỳ trung đại có tới hàng trăm cuộc khời nghĩa của nông dân nhưng chỉ tồn tại ba phong trào mang màu sắc tôn giáo, đó là một con số cá biệt chứ không phải điển hình.
Tôn giáo không mang màu sắc chủ đạo trong phong trào nông dân Việt Nam thời trung đại
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top