Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân
Vấn đề văn bản của truyện ngắn 'Chữ người tử tù'
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 302" data-attributes="member: 7"><p>Thứ ba: về tính cách Huấn Cao</p><p></p><p>Giòng chữ cuối cùng tả thế này: “Huấn Cao lãnh đạm, không chấp, đã chúc mũi gông nặng xuống thềm đá tảng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống đấy đánh thuỳnh một cái”. Chữ người tử tù đã chọn cách diễn đạt khác để thể hiện khí phách của nhân vật này: “ Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Mặc dù sắc thái ý nghĩa của hai chữ “lãnh đạm” và “lạnh lùng” khác nhau, nhưng việc Nguyễn Tuân dùng từ “lạnh lùng” để diễn tả thái độ của Huấn Cao chưa chắc đã hay hơn từ “lãnh đạm”. Bởi vì chữ “lạnh lùng” thường dùng để chỉ ai đó thiếu tình cảm trong quan hệ tiếp xúc với người, hoặc việc. Nhưng từ “lãnh đạm” thì thiên về ý nghĩa chỉ người nào đó “tỏ ra không muốn quan tâm, không thân mật, không ân cần, hoặc không có biểu hiện tình cảm nào cả”.</p><p></p><p>Huấn Cao trong Giòng chữ cuối cùng ăn nói rất đời thường: “Ông Huấn vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như mình có quyền hưởng những thứ thực phẩm đó… Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng quấy rầy ta nữa”. Huấn Cao trong Chữ người tử tù có khẩu khí ngang tàng hơn: “Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm… Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng đặt chân vào đây nữa”.</p><p></p><p>Huấn Cao trong Giòng chữ cuối cùng chủ động, quyết đoán: “nghe xong, mỉm cười”. Huấn Cao trong Chữ người tử tù thì thận trọng, và điềm đạm: “ Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”. </p><p></p><p>Huấn Cao ở Giòng chữ cuối cùng nói năng có đôi phần chân phác: “Ta cảm cái tấm lòng thành kính của các ngươi. Nhưng Huấn Cao ở Chữ người tử tù thì thích nói chữ: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi”.</p><p></p><p>Thứ tư: về thái độ của người kể chuyện</p><p></p><p>Thái độ của người kể chuyện trong văn bản Giòng chữ cuối cùng có đôi chút khác so với thái độ của người kể chuyện ở văn bản Chữ người từ tù. Điều này bộc lộ rõ ở cách gọi tên nhân vật. Ví dụ, thay vì gọi Huấn Cao bằng “tên tù”, người kể ở Chữ người tử tù gọi bằng “người tù”. </p><p></p><p>Thứ năm: về thái độ của nhân vật đám đông</p><p></p><p>Giòng chữ cuối cùng kể: “Mấy tên lính, khi nói chữ “để tâm” có ý nhắc viên quan coi ngục nên tàn nhẫn đi, chứ còn đợi gì nữa. Hình như kẻ dưới lại còn giục người trên mau mau làm điều ác. Ngục quan chỉ điềm đạm…Bọn lính thất vọng. Sáu tên tử tù hơi ngạc nhiên về thái độ quản ngục”. Chữ người tử tù sửa thành: “Mấy tên lính, khi nói đến tiếng “để tâm” có ý nhắc viên quan coi ngục còn chờ đợi gì mà không giở những mánh khoé hành hạ thường lệ ra. Ngục quan ung dung… Bọn lính dãn cả ra, nhìn nhau và không hiểu. Sáu tên tử tù cứ ngạc nhiên về thái độ quản ngục”.</p><p></p><p>4. Về kết truyện </p><p></p><p>Kết truyện ở văn bản Giòng chữ cuối cùng vừa khép lại một tuyến sự kiện, vừa mở ra nhiều câu chuyện về lối ứng xử của nhiều nhân vật, chẳng hạn: chuyện Huấn Cao lĩnh án tử hình; chuyện ngục quan đổi chỗ ở để giữ thiên lương lành vững; chuyện thầy thơ lại có nhân cách cứng cỏi, sáng trong nhưng lạc lõng giữa chốn tù ngục. Tôi xem cách kết thúc mở ở Giòng chữ cuối cùng vừa có khả năng thanh lọc tâm hồn, vừa gợi cảm xúc xót thương, tiếc nuối.</p><p></p><p>Cách kết truyện ở văn bản Chữ người tử tù thiên về cuộc gặp gỡ của Huấn Cao, ngục quan và thầy thơ lại. Họ từ chỗ xa cách, dẫn đến nghi ngờ và thường phải dò ý nhau, đã tiến dần đến chỗ hiểu nhau, rồi quý trọng nhau và trở thành tri âm tri kỉ của nhau. Đoạn “Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau” cho ta thấy rõ điều đó. </p><p></p><p>5. Về địa danh và lời đề từ</p><p></p><p>Văn bản Giòng chữ cuối cùng miêu tả trại giam tỉnh Đoài và thuật lời đồn của người dân tỉnh Đoài về Huấn Cao. Trong khi văn bản Chữ người tử tù lại tả “trại giam tỉnh Sơn” và lời đồn của người dân tỉnh này về ông Huấn.</p><p></p><p>Văn bản Giòng chữ cuối cùng có lời đề từ trích dẫn từ Truyện cổ nước Nam: “Ngày xưa, có một tên tử tù viết chữ đại tự rất tốt…”. Lời đề từ ấy kết hợp với những đoạn giai thoại đã tạo nên một không khí huyền thoại ngay từ mở truyện. Thế nhưng khi viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã bỏ lời đề từ đó.</p><p></p><p>Năm phương diện mà chúng tôi xem xét ở trên cùng với nhiều đoạn tác giả đặt bút sửa chữa câu chữ, đã chứng minh được một điều rằng: cụ Nguyễn đã viết lại truyện ngắn Chữ người tử tù. Vậy nên, nếu nói “tác phẩm Chữ người từ tù in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau đó được tuyển in trong tập Vang bóng một thời” [4] thì cần phải thêm chú thích, hoặc giải thích rõ hơn nữa trên tinh thần của văn bản học để tránh những sự ngộ nhận đáng tiếc nào đó.</p><p></p><p>Chúng tôi thấy, Nguyễn Tuân nổi tiếng hay chữ. Song không phải lúc nào hoặc ngay từ khi chấp bút ông đã đặt được những câu hay, từ đắt. Tất nhiên, nếu không trải qua một quá trình lao động chữ nghiêm túc, liên tục và bền bỉ, chắc hẳn Nguyễn Tuân không thể có được một văn bản thú vị đến thế.</p><p></p><p>*****</p><p></p><p>[1] Sách giáo khoa và các sách tham khảo khác chưa có cái nhìn đúng đắn về văn bản Chữ người tử tù. Người ta nhầm tưởng rằng: bản đăng lần đầu tiên trên Tao đàn và các bản in sau đó vẫn giữ nguyên văn. Có thay đổi đi nữa thì cũng chỉ rất nhỏ vặt, ví dụ tác giả đặt lại nhan đề mà tinh thần vẫn cũ hoặc cắt đi đôi câu văn cuối truyện cho ý văn hàm sức hơn, kín đáo hơn. Bằng chứng là: phần Tiểu dẫn ở sách Ngữ văn 11 mới, và sách chỉnh lý hợp nhất năm 2000, cùng lời bàn về xuất xứ tác phẩm Chữ người tử tù ở các bài văn phân tích khác cũng chỉ ghi vẻn vẹn mấy dòng sau: “Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau đó in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù”.</p><p></p><p>[2] Xem: Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên). Tạp chí Tao đàn 1939- Sưu tập trọn bộ tạp chí văn học của nhà xuất bản Tân Dân. Nxb Văn học. Nhân đây cũng thêm lưu ý, Nguyễn Tuân viết Giòng chữ cuối cùng chứ không phải Dòng chữ cuối cùng. Trường hợp của Thạch Lam cũng vậy. Thạch Lam viết Theo giòng, nhưng hậu thế cứ sửa thành “Theo dòng”. Có lẽ người biên soạn nghĩ các cụ ta ngày xưa viết chưa đúng chính tả chăng?</p><p></p><p>[3] Xem Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 1. Nxb Văn học, Hà Nội, 1982</p><p></p><p>[4] Xem thêm Ngữ văn 11, tập 1. Nxb Giáo dục, 2007</p><p></p><p><strong>Theo Evăn</strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 302, member: 7"] Thứ ba: về tính cách Huấn Cao Giòng chữ cuối cùng tả thế này: “Huấn Cao lãnh đạm, không chấp, đã chúc mũi gông nặng xuống thềm đá tảng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống đấy đánh thuỳnh một cái”. Chữ người tử tù đã chọn cách diễn đạt khác để thể hiện khí phách của nhân vật này: “ Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Mặc dù sắc thái ý nghĩa của hai chữ “lãnh đạm” và “lạnh lùng” khác nhau, nhưng việc Nguyễn Tuân dùng từ “lạnh lùng” để diễn tả thái độ của Huấn Cao chưa chắc đã hay hơn từ “lãnh đạm”. Bởi vì chữ “lạnh lùng” thường dùng để chỉ ai đó thiếu tình cảm trong quan hệ tiếp xúc với người, hoặc việc. Nhưng từ “lãnh đạm” thì thiên về ý nghĩa chỉ người nào đó “tỏ ra không muốn quan tâm, không thân mật, không ân cần, hoặc không có biểu hiện tình cảm nào cả”. Huấn Cao trong Giòng chữ cuối cùng ăn nói rất đời thường: “Ông Huấn vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như mình có quyền hưởng những thứ thực phẩm đó… Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng quấy rầy ta nữa”. Huấn Cao trong Chữ người tử tù có khẩu khí ngang tàng hơn: “Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm… Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng đặt chân vào đây nữa”. Huấn Cao trong Giòng chữ cuối cùng chủ động, quyết đoán: “nghe xong, mỉm cười”. Huấn Cao trong Chữ người tử tù thì thận trọng, và điềm đạm: “ Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”. Huấn Cao ở Giòng chữ cuối cùng nói năng có đôi phần chân phác: “Ta cảm cái tấm lòng thành kính của các ngươi. Nhưng Huấn Cao ở Chữ người tử tù thì thích nói chữ: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi”. Thứ tư: về thái độ của người kể chuyện Thái độ của người kể chuyện trong văn bản Giòng chữ cuối cùng có đôi chút khác so với thái độ của người kể chuyện ở văn bản Chữ người từ tù. Điều này bộc lộ rõ ở cách gọi tên nhân vật. Ví dụ, thay vì gọi Huấn Cao bằng “tên tù”, người kể ở Chữ người tử tù gọi bằng “người tù”. Thứ năm: về thái độ của nhân vật đám đông Giòng chữ cuối cùng kể: “Mấy tên lính, khi nói chữ “để tâm” có ý nhắc viên quan coi ngục nên tàn nhẫn đi, chứ còn đợi gì nữa. Hình như kẻ dưới lại còn giục người trên mau mau làm điều ác. Ngục quan chỉ điềm đạm…Bọn lính thất vọng. Sáu tên tử tù hơi ngạc nhiên về thái độ quản ngục”. Chữ người tử tù sửa thành: “Mấy tên lính, khi nói đến tiếng “để tâm” có ý nhắc viên quan coi ngục còn chờ đợi gì mà không giở những mánh khoé hành hạ thường lệ ra. Ngục quan ung dung… Bọn lính dãn cả ra, nhìn nhau và không hiểu. Sáu tên tử tù cứ ngạc nhiên về thái độ quản ngục”. 4. Về kết truyện Kết truyện ở văn bản Giòng chữ cuối cùng vừa khép lại một tuyến sự kiện, vừa mở ra nhiều câu chuyện về lối ứng xử của nhiều nhân vật, chẳng hạn: chuyện Huấn Cao lĩnh án tử hình; chuyện ngục quan đổi chỗ ở để giữ thiên lương lành vững; chuyện thầy thơ lại có nhân cách cứng cỏi, sáng trong nhưng lạc lõng giữa chốn tù ngục. Tôi xem cách kết thúc mở ở Giòng chữ cuối cùng vừa có khả năng thanh lọc tâm hồn, vừa gợi cảm xúc xót thương, tiếc nuối. Cách kết truyện ở văn bản Chữ người tử tù thiên về cuộc gặp gỡ của Huấn Cao, ngục quan và thầy thơ lại. Họ từ chỗ xa cách, dẫn đến nghi ngờ và thường phải dò ý nhau, đã tiến dần đến chỗ hiểu nhau, rồi quý trọng nhau và trở thành tri âm tri kỉ của nhau. Đoạn “Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau” cho ta thấy rõ điều đó. 5. Về địa danh và lời đề từ Văn bản Giòng chữ cuối cùng miêu tả trại giam tỉnh Đoài và thuật lời đồn của người dân tỉnh Đoài về Huấn Cao. Trong khi văn bản Chữ người tử tù lại tả “trại giam tỉnh Sơn” và lời đồn của người dân tỉnh này về ông Huấn. Văn bản Giòng chữ cuối cùng có lời đề từ trích dẫn từ Truyện cổ nước Nam: “Ngày xưa, có một tên tử tù viết chữ đại tự rất tốt…”. Lời đề từ ấy kết hợp với những đoạn giai thoại đã tạo nên một không khí huyền thoại ngay từ mở truyện. Thế nhưng khi viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã bỏ lời đề từ đó. Năm phương diện mà chúng tôi xem xét ở trên cùng với nhiều đoạn tác giả đặt bút sửa chữa câu chữ, đã chứng minh được một điều rằng: cụ Nguyễn đã viết lại truyện ngắn Chữ người tử tù. Vậy nên, nếu nói “tác phẩm Chữ người từ tù in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau đó được tuyển in trong tập Vang bóng một thời” [4] thì cần phải thêm chú thích, hoặc giải thích rõ hơn nữa trên tinh thần của văn bản học để tránh những sự ngộ nhận đáng tiếc nào đó. Chúng tôi thấy, Nguyễn Tuân nổi tiếng hay chữ. Song không phải lúc nào hoặc ngay từ khi chấp bút ông đã đặt được những câu hay, từ đắt. Tất nhiên, nếu không trải qua một quá trình lao động chữ nghiêm túc, liên tục và bền bỉ, chắc hẳn Nguyễn Tuân không thể có được một văn bản thú vị đến thế. ***** [1] Sách giáo khoa và các sách tham khảo khác chưa có cái nhìn đúng đắn về văn bản Chữ người tử tù. Người ta nhầm tưởng rằng: bản đăng lần đầu tiên trên Tao đàn và các bản in sau đó vẫn giữ nguyên văn. Có thay đổi đi nữa thì cũng chỉ rất nhỏ vặt, ví dụ tác giả đặt lại nhan đề mà tinh thần vẫn cũ hoặc cắt đi đôi câu văn cuối truyện cho ý văn hàm sức hơn, kín đáo hơn. Bằng chứng là: phần Tiểu dẫn ở sách Ngữ văn 11 mới, và sách chỉnh lý hợp nhất năm 2000, cùng lời bàn về xuất xứ tác phẩm Chữ người tử tù ở các bài văn phân tích khác cũng chỉ ghi vẻn vẹn mấy dòng sau: “Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau đó in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù”. [2] Xem: Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên). Tạp chí Tao đàn 1939- Sưu tập trọn bộ tạp chí văn học của nhà xuất bản Tân Dân. Nxb Văn học. Nhân đây cũng thêm lưu ý, Nguyễn Tuân viết Giòng chữ cuối cùng chứ không phải Dòng chữ cuối cùng. Trường hợp của Thạch Lam cũng vậy. Thạch Lam viết Theo giòng, nhưng hậu thế cứ sửa thành “Theo dòng”. Có lẽ người biên soạn nghĩ các cụ ta ngày xưa viết chưa đúng chính tả chăng? [3] Xem Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 1. Nxb Văn học, Hà Nội, 1982 [4] Xem thêm Ngữ văn 11, tập 1. Nxb Giáo dục, 2007 [B]Theo Evăn[/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân
Vấn đề văn bản của truyện ngắn 'Chữ người tử tù'
Top