Nguyen Doan Lam Thuy
New member
- Xu
- 0
Vân chữ của nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị
trong thi phẩm Gánh tương tư
(Bài viết kỉ niệm 50 năm ngày mất của nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị 1877-1961)
Người ta khi yêu có thể phút chốc trở thành thi sĩ. Lẽ nào với hồn thơ mẫn cảm khi yêu lại chẳng mượn bút mà gửi lòng. Tương tư vốn là một nguồn cảm hứng để người thơ đa tình viết nên những vần thơ xốn xang được nhiều bạn đọc chia sẻ. Chúng ta từng biết đến “gánh tương tư” trĩu nặng cõi lòng của nhà thơ sông Đà núi Tản, chất chứa bao nỗi băn khoăn.
Quái lạ làm sao cứ nhớ nhau
Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu
Bốn phương mây nước người đôi ngã
Hai chữ tương tư một gánh sầu!
Cùng thời với Tản Đà, nhà thơ miền núi Ngự sông Hương Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877-1961) tuy là vị Thượng thư của triều Nguyễn, nhưng không quan cách; mà lão Vương tôn Thúc Giạ lại có một lối sống rất phóng khoáng, dân dã. Ông “ưng ca, ưng hát, ưng giã gạo hò khoan”, và có lúc cũng trăn trở với “gánh tương tư” thiếu người san sẻ. Nhà thơ đã bộc bạch bệnh trạng của mình trong những vần thơ đậm chất thổ ngữ địa phương Huế.
Trong gánh tương tư những vật gì?
Dây hồng, lá đỏ đó chơ chi
Sao mà bợ ngợ sương không nổi
Lại cứ lần đân chẳng vất đi
San sẻ khôn nhờ cân tạo hóa
Nặng nề thêm mãi mối tình si
Hỡi ai là bạn thương mình đó
Xin hãy xê vai rợt chút ni.
Đọc bài thơ Gánh tương tư của nhà thơ Ưng Bình, tôi tin rằng không phải bạn đọc vùng miền nào cũng dễ dàng thông hiểu tình ý của thi nhân, được gửi gắm vào trong ngôn từ nghệ thuật địa phương như những ẩn số đầy thách đố thú vị. Đó là những từ “bợ ngợ, sương, lần đân” đậm chất thổ ngữ dân gian ở miền Trung lắm gió bỏng mưa chan.
Thực tế ngôn ngữ tiếng Việt có một lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Từ vựng tiếng Việt lại có từ toàn dân, từ địa phương, … có từ cổ bị mai một đi và lại có từ mới được bổ sung thay thế. Vì thế, dù chúng ta là người Việt, đã nghe, học tiếng Việt từ thuở còn nằm nôi qua những lời à ơi ru con vào giấc ngủ của mẹ, nhưng liệu có ai dám quả quyết đã thông hiểu hết mọi từ tiếng Việt? Lưu Quang Vũ từng suy ngẫm về tiếng mẹ đẻ thân thương:
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh
Trở lại với cái Gánh tương tư mà lão Vương tôn Thúc Giạ đa mang, thì đây vốn là một tâm bệnh trừu tượng, mà khi đã lỡ vương vào chữ yêu thì hỏi trên đời có ai không mắc bệnh này. Bởi vậy mà nhà thơ Nguyễn Bính từng tự thú rằng:
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Vấn đề là tình yêu kì diệu mang tính rất riêng tư, nên những ai lỡ vương mang bệnh nan y này, thì chỉ có họ mới thấu rõ ngọn ngành, trạng huống của nó. Ưng Bình đã dùng đôi mắt thông tuệ tinh tế của người thơ xem xét “trong gánh tương tư những vật gì?” để rồi khẳng định “Dây hồng lá đỏ đó chơ chi”. Cụm từ “đó chơ chi” (đó chứ gì nữa) nghe có vẻ rõ ràng, nhưng chính nhà thơ vẫn cứ day dứt, băn khoăn:
Sao mà bợ ngợ sương không nổi
Lại cứ lần đân chẳng vất đi
Câu thơ nghe nôm na những từ thổ ngữ quê mùa như “bợ ngợ”, “lần đân”, nhưng theo thiển ý của người viết, thì đây là những “con mắt thơ” lấp lánh bao ý nghĩa sâu sắc. Bệnh tương tư thì quá quen đối với con người xưa - nay, nhưng với người trong cuộc thì luôn lạ lẫm. Lịch lãm như Ưng Bình mà vẫn “bợ ngợ sương không nổi”. Trong gánh tương tư, theo thi sĩ thì có “dây hồng, lá đỏ” tượng trưng cho mối tơ duyên ngẫu nhiên vương vấn vào lòng mà chưa thể thành tình nồng sắc thắm, để người thơ được cảm nhận niềm hạnh phúc của tình yêu, như người xưa mãn nguyện reo lên:
Đôi ta như thể con tằm
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong
Vị Vương tôn Thúc Giạ lại “bợ ngợ” về mối tình vương mang mà sương (gánh) không nổi. Người xưa nói “bỏ thì thương mà sương thì nặng”, là muốn nói đến việc người có lòng muốn gánh giúp ai việc gì mà lực bất tòng tâm; còn cái nợ duyên tình ai trả thay cho được, căn bệnh tương tư thì càng nan giải hơn. Vì thế mà Kiều mới có thái độ quá mức trân trọng khẩn thiết khi nhờ cô em Thúy Vân “xót tình máu mủ thay lời nước non” nối duyên cùng Kim Trọng:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Còn Thúc Giạ “lại cứ lần đân chẳng vất đi”, biết là “sương không nổi”, mà cứ sân si, trì níu chẳng chịu buông ra cho nhẹ gánh tình trót lỡ đa mang. Nói vậy thôi, chứ ai có thể đoạn tình như hững hờ quên lãng chiếc áo cũ xưa. Tâm hồn là vô biên. Nó như cái ao cũ của nhà thơ Nhật Bản Basho :
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
vang tiếng nước xao
Dưới mặt ao tâm hồn ngỡ là phẳng lặng, đang nén chứa cả một vùng kỉ niệm vui buồn. Trong đó có tình yêu vĩnh viễn ngự trị của người thơ đa tình chung thủy, bất chợt sẽ xao động thành con sóng miên man vỗ vào bờ nhớ, khi có tín hiệu như con ếch nhảy vào gợi thức miền dĩ vãng. Nó chuyển từ trạng thái ý thức sang vô thức như nữ sĩ Xuân Quỳnh tự thú:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
Thúc Giạ chỉ còn biết nhờ trời san sẻ bớt cái gánh tương tư “bợ ngợ” nặng nề “sương không nổi” , nhưng hóa ra nó càng kết đọng sầu nặng thêm theo thời gian.
San sẻ khôn nhờ cân tạo hóa
Nặng nề thêm mãi mối tình si.
Hèn chi mà Tản Đà than thở “Hai chữ tương tư một gánh sầu”. Còn Ưng Bình thì cất tiếng kêu nhờ:
Hỡi ai là bạn thương mình đó
Xin hãy xê vai rợt chút ni.
Thi nhân gợi một từ ai phiếm chỉ mơ hồ, nhưng đây là cách biểu đạt tế nhị mà minh xác. Chỉ có người “bạn thương mình đó” mới có thể “xê vai” cùng thi sĩ rợt bớt “chút ni”- một chút tương tư đủ để làm cho tâm hồn úa héo, tinh thần bất ổn nghiêng chao – giúp cho nhà thơ giải thoát được gánh tương tư đời không kham nổi, để nếm trải men nồng, vị ngọt của tình yêu.
Quả thật, nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã có những kết hợp từ độc đáo sinh động, mang đậm bản sắc Huế. Ông đã gắn những từ chỉ vật thể, những động từ như “sương”, “rợt” với “tương tư” – với tình yêu mơ hồ huyền diệu – giúp bạn đọc hiểu, thông cảm với thi sĩ, với những ai đã lỡ mắc căn bệnh nan giải này. Tình yêu đúng là ái lực mạnh mẽ giúp những người xa lạ gắn kết bên nhau, nó cũng dễ làm đau bao trái tim đòi đoạn, nhưng mà con người “lại cứ lần đân chẳng vất đi”. Đó là triết lí đầy tính nghịch lí về tình yêu được “nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ không trộn lẫn” của xứ Huế là Ưng Bình Thúc Giạ Thị gởi vào trong Gánh tương tư.
Huế, xuân Thân Mão
Th.s Nguyễn Tống
Gv trường Quốc Học-Huế
trong thi phẩm Gánh tương tư
(Bài viết kỉ niệm 50 năm ngày mất của nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị 1877-1961)
Người ta khi yêu có thể phút chốc trở thành thi sĩ. Lẽ nào với hồn thơ mẫn cảm khi yêu lại chẳng mượn bút mà gửi lòng. Tương tư vốn là một nguồn cảm hứng để người thơ đa tình viết nên những vần thơ xốn xang được nhiều bạn đọc chia sẻ. Chúng ta từng biết đến “gánh tương tư” trĩu nặng cõi lòng của nhà thơ sông Đà núi Tản, chất chứa bao nỗi băn khoăn.
Quái lạ làm sao cứ nhớ nhau
Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu
Bốn phương mây nước người đôi ngã
Hai chữ tương tư một gánh sầu!
Cùng thời với Tản Đà, nhà thơ miền núi Ngự sông Hương Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877-1961) tuy là vị Thượng thư của triều Nguyễn, nhưng không quan cách; mà lão Vương tôn Thúc Giạ lại có một lối sống rất phóng khoáng, dân dã. Ông “ưng ca, ưng hát, ưng giã gạo hò khoan”, và có lúc cũng trăn trở với “gánh tương tư” thiếu người san sẻ. Nhà thơ đã bộc bạch bệnh trạng của mình trong những vần thơ đậm chất thổ ngữ địa phương Huế.
Trong gánh tương tư những vật gì?
Dây hồng, lá đỏ đó chơ chi
Sao mà bợ ngợ sương không nổi
Lại cứ lần đân chẳng vất đi
San sẻ khôn nhờ cân tạo hóa
Nặng nề thêm mãi mối tình si
Hỡi ai là bạn thương mình đó
Xin hãy xê vai rợt chút ni.
Đọc bài thơ Gánh tương tư của nhà thơ Ưng Bình, tôi tin rằng không phải bạn đọc vùng miền nào cũng dễ dàng thông hiểu tình ý của thi nhân, được gửi gắm vào trong ngôn từ nghệ thuật địa phương như những ẩn số đầy thách đố thú vị. Đó là những từ “bợ ngợ, sương, lần đân” đậm chất thổ ngữ dân gian ở miền Trung lắm gió bỏng mưa chan.
Thực tế ngôn ngữ tiếng Việt có một lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Từ vựng tiếng Việt lại có từ toàn dân, từ địa phương, … có từ cổ bị mai một đi và lại có từ mới được bổ sung thay thế. Vì thế, dù chúng ta là người Việt, đã nghe, học tiếng Việt từ thuở còn nằm nôi qua những lời à ơi ru con vào giấc ngủ của mẹ, nhưng liệu có ai dám quả quyết đã thông hiểu hết mọi từ tiếng Việt? Lưu Quang Vũ từng suy ngẫm về tiếng mẹ đẻ thân thương:
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh
Trở lại với cái Gánh tương tư mà lão Vương tôn Thúc Giạ đa mang, thì đây vốn là một tâm bệnh trừu tượng, mà khi đã lỡ vương vào chữ yêu thì hỏi trên đời có ai không mắc bệnh này. Bởi vậy mà nhà thơ Nguyễn Bính từng tự thú rằng:
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Vấn đề là tình yêu kì diệu mang tính rất riêng tư, nên những ai lỡ vương mang bệnh nan y này, thì chỉ có họ mới thấu rõ ngọn ngành, trạng huống của nó. Ưng Bình đã dùng đôi mắt thông tuệ tinh tế của người thơ xem xét “trong gánh tương tư những vật gì?” để rồi khẳng định “Dây hồng lá đỏ đó chơ chi”. Cụm từ “đó chơ chi” (đó chứ gì nữa) nghe có vẻ rõ ràng, nhưng chính nhà thơ vẫn cứ day dứt, băn khoăn:
Sao mà bợ ngợ sương không nổi
Lại cứ lần đân chẳng vất đi
Câu thơ nghe nôm na những từ thổ ngữ quê mùa như “bợ ngợ”, “lần đân”, nhưng theo thiển ý của người viết, thì đây là những “con mắt thơ” lấp lánh bao ý nghĩa sâu sắc. Bệnh tương tư thì quá quen đối với con người xưa - nay, nhưng với người trong cuộc thì luôn lạ lẫm. Lịch lãm như Ưng Bình mà vẫn “bợ ngợ sương không nổi”. Trong gánh tương tư, theo thi sĩ thì có “dây hồng, lá đỏ” tượng trưng cho mối tơ duyên ngẫu nhiên vương vấn vào lòng mà chưa thể thành tình nồng sắc thắm, để người thơ được cảm nhận niềm hạnh phúc của tình yêu, như người xưa mãn nguyện reo lên:
Đôi ta như thể con tằm
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong
Vị Vương tôn Thúc Giạ lại “bợ ngợ” về mối tình vương mang mà sương (gánh) không nổi. Người xưa nói “bỏ thì thương mà sương thì nặng”, là muốn nói đến việc người có lòng muốn gánh giúp ai việc gì mà lực bất tòng tâm; còn cái nợ duyên tình ai trả thay cho được, căn bệnh tương tư thì càng nan giải hơn. Vì thế mà Kiều mới có thái độ quá mức trân trọng khẩn thiết khi nhờ cô em Thúy Vân “xót tình máu mủ thay lời nước non” nối duyên cùng Kim Trọng:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Còn Thúc Giạ “lại cứ lần đân chẳng vất đi”, biết là “sương không nổi”, mà cứ sân si, trì níu chẳng chịu buông ra cho nhẹ gánh tình trót lỡ đa mang. Nói vậy thôi, chứ ai có thể đoạn tình như hững hờ quên lãng chiếc áo cũ xưa. Tâm hồn là vô biên. Nó như cái ao cũ của nhà thơ Nhật Bản Basho :
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
vang tiếng nước xao
Dưới mặt ao tâm hồn ngỡ là phẳng lặng, đang nén chứa cả một vùng kỉ niệm vui buồn. Trong đó có tình yêu vĩnh viễn ngự trị của người thơ đa tình chung thủy, bất chợt sẽ xao động thành con sóng miên man vỗ vào bờ nhớ, khi có tín hiệu như con ếch nhảy vào gợi thức miền dĩ vãng. Nó chuyển từ trạng thái ý thức sang vô thức như nữ sĩ Xuân Quỳnh tự thú:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
Thúc Giạ chỉ còn biết nhờ trời san sẻ bớt cái gánh tương tư “bợ ngợ” nặng nề “sương không nổi” , nhưng hóa ra nó càng kết đọng sầu nặng thêm theo thời gian.
San sẻ khôn nhờ cân tạo hóa
Nặng nề thêm mãi mối tình si.
Hèn chi mà Tản Đà than thở “Hai chữ tương tư một gánh sầu”. Còn Ưng Bình thì cất tiếng kêu nhờ:
Hỡi ai là bạn thương mình đó
Xin hãy xê vai rợt chút ni.
Thi nhân gợi một từ ai phiếm chỉ mơ hồ, nhưng đây là cách biểu đạt tế nhị mà minh xác. Chỉ có người “bạn thương mình đó” mới có thể “xê vai” cùng thi sĩ rợt bớt “chút ni”- một chút tương tư đủ để làm cho tâm hồn úa héo, tinh thần bất ổn nghiêng chao – giúp cho nhà thơ giải thoát được gánh tương tư đời không kham nổi, để nếm trải men nồng, vị ngọt của tình yêu.
Quả thật, nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã có những kết hợp từ độc đáo sinh động, mang đậm bản sắc Huế. Ông đã gắn những từ chỉ vật thể, những động từ như “sương”, “rợt” với “tương tư” – với tình yêu mơ hồ huyền diệu – giúp bạn đọc hiểu, thông cảm với thi sĩ, với những ai đã lỡ mắc căn bệnh nan giải này. Tình yêu đúng là ái lực mạnh mẽ giúp những người xa lạ gắn kết bên nhau, nó cũng dễ làm đau bao trái tim đòi đoạn, nhưng mà con người “lại cứ lần đân chẳng vất đi”. Đó là triết lí đầy tính nghịch lí về tình yêu được “nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ không trộn lẫn” của xứ Huế là Ưng Bình Thúc Giạ Thị gởi vào trong Gánh tương tư.
Huế, xuân Thân Mão
Th.s Nguyễn Tống
Gv trường Quốc Học-Huế