Đục thể thủy tinh, nguyên nhân và cách phòng tránh

Đục thể thuỷ tinh là tình trạng mờ đục của thể thuỷ tinh do các nguyên nhân khác nhau gây ra.
Đây là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mù loà ở các nước đang phát triển. Tuy nhiêu nếu được phẫu thuật thay thuỷ tinh thể nhân tạo bệnh nhân vẫn có khả năng phục hồi được thị lực.

Các nguyên nhân gây đục thể thủy tinh

Có nhiều nguyên nhân gây đục thể thuỷ tinh:

Đục thể thuỷ tinh bẩm sinh, đục thể thuỷ tinh ở trẻ em
Đục thể thuỷ tinh bẩm sinh là đục thể thuỷ tinh có ngay từ khi trẻ mới sinh.
Đục thể thuỷ tinh xuất hiện trong năm đầu tiên của cuộc đời được gọi là đục thể thuỷ tinh ở trẻ em.
Nguyên nhân gây đục thể thuỷ tinh bẩm sinh có thể do di truyền hoặc do bệnh của phôi trong thời kỳ mang thai.

Các hình thái của đục thể thuỷ tinh bẩm sinh:
Đục cực: đục cực thể thuỷ tinh là đục ở lớp vỏ dưới bao và ở lớp bao của cực trước và cực sau thể thuỷ tinh.
Đục đường khớp: đục đường khớp hoặc đục hình sao là đục ở đường khớp chữ Y của nhân bào thai rất ít ảnh hưởng đến thị lực.
Đục nhân: đục nhân là đục của nhân phôi hoặc cả nhân phôi và nhân bào thai.
Đục bao: đục bao là vết đục nhỏ ở biểu mô và bao trước thể thuỷ tinh mà không ảnh hưởng đến lớp vỏ .

Đục nhân phôi thể thuỷ tinh


Hình: Đục nhân phôi thể thuỷ tinh

Đục lớp hoặc đục vùng: là loại đục thể thuỷ tinh bẩm sinh thường gặp nhất. Lớp đục bao bọc một trung tâm còn trong, lớp đục nàylại được bao quanh bởi một lớp vỏ trong suốt.
Đục thể thuỷ tinh hoàn toàn: là đục toàn bộ các sợi thể thuỷ tinh làm mất hoàn toàn ánh hồng của đồng tử.
Đục dạng màng: xảy ra khi các protêin của thể thuỷ tinh bị tiêu đi làm cho bao trước và bao sau hợp lại thành một màng trắng đặc.
Đục thể thuỷ tinh bẩm sinh có thể kèm theo lác, rung giật nhãn cầu và một số biểu hiện của bệnh toàn thân như dị dạng của sọ, hệ thống xương, rối loạn phát triển trí tuệ.

Đục thể thuỷ tinh do tuổi già

Đục thể thuỷ tinh do tuổi già là nguyên nhân hàng đầu gây giảm thị lực ở người cao tuổi. Ở Mỹ tỷ lệ đục thể thuỷ tinh là 50% ở nhóm người tuổi từ 65 đến 74, tăng 70% ở những người trên 70. Ở Việt Nam (theo điều tra của ngành Mắt năm 2002) tỷ lệ đục thể thuỷ tinh là ở người trên 50 tuổi là 71,3%.

Bệnh sinh của đục thể thuỷ tinh tuổi già do nhiều yếu tố và chưa được hiểu biết rõ ràng. Nguyên nhân gây đục thể thủy tinh tuổi già là do rối loạn quá trình dị hóa glucose trong thể thủy tinh làm rối loạn quá trình tổng hợp protêin của thể thủy tinh.

Đục thể thuỷ tinh do tuổi già có 3 hình thái:

Đục nhân thể thuỷ tinh: ở người già nhân thể thuỷ tinh xơ cứng và có mầu vàng. Sự xơ cứng và chuyển màu vàng quá mức gọi là đục nhân thể thuỷ tinh và gây ra đục ở vùng trung tâm. Đục nhân thể thuỷ tinh thường tiến triển chậm. Ở giai đoạn sớm sự xơ cứng dần của nhân gây tăng chiết suất thể thuỷ tinh làm cho khúc xạ của mắt chuyển sang cận thị. Những trường hợp đục tiến triển rất nhiều nhân thể thuỷ tinh đục hẳn và biến thành mầu nâu gọi là đục thể thuỷ tinh nhân nâu.

Đục vỏ thể thuỷ tinh: Đục vỏ thể thuỷ tinh (còn gọi là đục hình chêm) luôn luôn ở hai mắt và thường không cân xứng. Các đục hình chêm này có thể to ra và nhập vào nhau để tạo ra các vùng đục vỏ lớn hơn. Khi toàn bộ vỏ từ bao tới nhân trở thành đục trắng gọi là đục thể thuỷ tinh chín. Khi chất vỏ thể thuỷ tinh thoái hoá dò qua bao thể thuỷ tinh để lại lớp bao nhăn nheo và co lại gọi là đục thể thuỷ tinh quá chín. Khi lớp vỏ hoá lỏng làm cho nhân có thể di động tự do bên trong túi bao gọi là đục thể thuỷ tinh Morgagni.

Đục thể thuỷ tinh quá chín Morgagni


Hình: Đục thể thuỷ tinh quá chín Morgagni

Đục thể thuỷ tinh dưới bao sau: đục thể thuỷ tinh dưới bao sau khu trú ở lớp vỏ sau và thường nằm ở trục. Đục thể thuỷ tinh dưới bao sau chủ yếu do tuổi già, còn có thể là hậu quả của chấn thương, dùng thuốc corticosteroid và bức xạ ion hoá.

Đục thể thuỷ tinh do chấn thương

Đục thể thuỷ tinh sau chấn thương có thể do tổn thương cơ học, tác động vật lý và tác động thẩm thấu.

Đục thể thuỷ tinh sau chấn thương đụng dập

Chấn thương đụng dập có thể gây đục thể thuỷ tinh rất sớm hoặc là một di chứng muộn. Đục thể thuỷ tinh do đụng dập có thể chỉ ở một vùng hoặc toàn bộ thể thuỷ tinh. Biểu hiện đầu tiên thường là một vết đục có hình sao hoặc hình hoa hồng của bao sau thường nằm ở trục. Đục hình hoa hồng này có thể tiến triển thành đục toàn bộ thể thuỷ tinh.

Chấn thương đụng dập có thể gây rách bao làm cho thủy dịch ngám vào bên trong, các sợi thể thủy tinh ngấm nước gây đục thể thủy tinh rất nhanh.
Chấn thương đụng dập mạnh có thể lầm đứt một phần hoặc toàn bộ các dây Zinn dẫn đến lệch hoặc sa thể thủy tinh.

Đục thể thuỷ tinh sau chấn thương xuyên

Chấn thương xuyên thể thuỷ tinh thường gây đục vỏ thể thuỷ tinh ở vị trí bị rách, thường tiến triển dần dần đến đục hoàn toàn. Đôi khi vết thương nhỏ trên bao trước có thể tự lành để lại vùng đục nhỏ ổn định.
Khi bao thể thuỷ tinh rách rộng những mảng chất thể thuỷ tinh phòi qua vết rách của bao nằm trong tiền phòng. Thông thường những chất men của thuỷ dịch có thể làm đục và tiêu đi các mảng thể thuỷ tinh.
Đục thể thuỷ tinh do bức xạ

Bức xạ ion hoá: Thể thuỷ tinh rất nhạy cảm với bức xạ ion hoá. Bức xạ ion hoá trong khoảng tia X (bước sóng 0,001-10 nm) có thể gây đục thể thuỷ tinh ở một số người với liều thấp.
Bức xạ hồng ngoại: Đục thể thuỷ tinh ở thợ thổi thuỷ tinh.
Bức xạ tử ngoại
Bức xạ sóng ngắn.

Đục thể thuỷ tinh do hoá chất

Bỏng mắt do kiềm thường dẫn đến đục thể thuỷ tinh. Bỏng mắt do axít ít khả năng gây đục thể thuỷ tinh.

Đục thể thuỷ tinh bệnh lý

Bệnh đái tháo đường: Đục thể thuỷ tinh là một nguyên nhân thường gặp gây tổn hại thị lực ở những bệnh nhân đái tháo đuường. Thường gặp hai loại đục thể thuỷ tinh do đái tháo đường:
Đục thể thuỷ tinh do đái tháo đường thực sự (hoặc đục dạng bông tuyết) gặp ở người trẻ bị đái tháo đường không điều chỉnh.
Đục thể thuỷ tinh tuổi già ở những bệnh nhân đái tháo đường: Đục thể thuỷ tinh thường gặp ở lứa tuổi trẻ hơn so với những bệnh nhân không bị đái tháo đường. Về mặt chuyển hoá sự tích luỹ Sorbitol trong thể thuỷ tinh kèm theo những biến đổi Hydrat hoá sau đó và sự tăng Glycosyl hoá protein trong thể thuỷ tinh của đái tháo đường có thể góp phần thúc đẩy tốc độ hình thành đục thể thuỷ tinh do tuổi già ở những bệnh nhân đái tháo đường.
Bệnh giảm canxi huyết (đục thể thuỷ tinh trong bệnh Tetani): bệnh thường ở hai mắt, biểu hiện bằng những chấm đục óng ánh ở vỏ trước và vỏ sau, dưới bao thể thuỷ tinh và thường cách biệt với bao bởi một vùng còn trong.
Đục thể thuỷ tinh sau viêm màng bồ đào.

Đục thể thuỷ tinh sau viêm mống mắt thể mi


Hình: Đục thể thuỷ tinh sau viêm mống mắt thể mi
Đục thể thuỷ tinh thứ phát trên những mắt có tiền sử viêm màng bồ đào. Điển hình nhất là đục thể thuỷ tinh dưới bao sau. Có thể biến đổi ở mặt trước thể thủy tinh kèm theo những chấm sắc tố hoặc những đám dính mống mắt và bao trước thể thủy tinh. Đục thể thuỷ tinh sau viêm màng bồ đào có thể tiến triển đến đục chín.

Đục thể thuỷ tinh do thuốc gây ra.

Nhiều thuốc và hoá chất có thể gây ra đục thể thuỷ tinh.
Corticosteroit: Đục thể thuỷ tinh dưới bao sau có thể xảy ra sau khi dùng lâu dài các thuốc corticosteroit tại mắt và toàn thân.
Một số thuốc có thể gây đục thể thuỷ tinh như
Các Phenothiazin (nhóm thuốc hướng tâm thần).
Amiodazon thuốc chống loạn nhịp tim.
Thuốc kháng cholinesteraza. Thuốc co đồng tử.

Phòng một số nguyên nhân gây đục thể thủy tinh

Đục thể thủy tinh do chấn thương: Cần có đầy đủ các phương tiện bảo hộ lao động.
Đục thể thủy tinh bệnh lý: điều trị & theo dõi những bệnh nhân bị đái tháo đường, viêm màng bồ đào,
Đục thể thủy tinh bẩm sinh: khi mẹ có thai trong 3 tháng đầu cần tránh tiếp xúc với các tác nhân gây dị dạng như tia xạ, hoá chất độc, thuốc trừ sâu, người bị cúm, sốt phát ban.
Đi đường cần đội mũ và đeo kính bảo vệ mắt.

Xem thêm: Bài giảng nhãn khoa
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top