Trả lời chủ đề

Có lần  nhà vua xử kiện ở điện Thiên Khánh, chỉ vào công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, bảo với ngục lại:


“Ta yêu dân cũng như yêu con ta. Là cha mẹ của dân, ta rất thương xót vì dân không biết mà mắc vào hình phạt. Từ nay về sau, không cứ gì tội nặng hay tội nhẹ, đều nhất loạt khoan giảm” .


Với tinh nhân ái như vậy, Hình thư của nhà Lý không phải chỉ cốt “giết kẻ vô đạo để có đạo”  mà một yêu cầu không thể  thiếu đối với luật pháp  đó là  không “khắc  nghiệt”, không xử  “oan uổng” và “tiện dụng cho dân” .


Nhân ái của Tống Nho càng hướng lên trên càng “quên” bên dưới. Nhân ái thời Lý - Trần đương nhiên chẳng bao giờ “quên” bên trên, nhưng dẫu sao cũng là nhân ái không đánh mất tính hài hòa xã hội. Hài hòa là biểu hiện quan hệ xã hội, nhân ái là nội dung để thực hiện quan hệ đó. Thời bình “khoan sức cho dân” thì thời chiến mới có sức mạnh tổng hợp “sát Thát”. Tinh thần dân tộc là động lực, là tiền đề hài hòa giải tỏa những xung khắc bên trong. Nếu không thì làm sao mà Trần Hưng Đạo lại chịu tắm cho Trần Quang Khải để cho dân tộc Việt Nam mãi mãi ngẩng cao đầu tự  hào với những chiến công hiển hách:


“Đoạt sáo Chương Dương độ,

Cầm Hồ Hàm Tử quan,

Thái  bình nghi nổ lực.

Vạn  cổ thử giang san”


Như vậy là thời Lý - Trần tuy tiếp thu nho giáo Hán Đường nhưng ít nhất có hai điều không theo. Đó là độc tôn Nho giáo và thiết chế cương thường quá ư chặt chẽ của Hán Nho. Ngược lại, trong quá trình đưa Nho giáo lên hệ tư tưởng chính thống, Nhật Bản và Triều Tiên lại chú ý khai thác điều đó. “Hiến pháp 17 điều” của Thái Tử Thánh Đức (Shotoku  Taishi, 574 - 622), ngoài điều 2 và điều 10 ra, hầu như còn lại đều dựa vào tinh thần cương thường của Nho giáo. Vào thế  kỷ thứ  VII (675), Vương triều Tân La thống nhất đất nước, Nho giáo ở Triều Tiên bắt đầu chiếm vị trí ưu thế. Nếu Quốc Tử giám, trường Đại học Việt Nam, có từ thế kỷ thứ XI (1076) thì ở Triều Tiên đã có từ thế kỷ thứ VII (682). Nếu khoa cử ở Việt Nam có từ thế kỷ XI (1075) thì ở Triều Tiên đã bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII (788) . Tuy về sau“Hoa lang đạo” muốn “hài hòa” triết lý “vô  vi” của Đạo gia, cũng như  tinh thần “tích  thiện” của Phật giáo, nhưng “trung - hiếu”, “cương thường” của Nho giáo vẫn ở vị trí chủ đạo. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý Nhật Bản và Triều Tiên tuy “khép kín” về lĩnh vực chính trị nhưng lại “mở ra” về lĩnh vực học thuật, nhất là Nhật Bản. Điều đó có thể giải thích cho những thành tựu, cho những bước phát triển xã hội về sau này của Nhật Bản và ít nhiều của Hàn Quốc.


Cũng như Nho giáo, Phật giáo ảnh hưởng nhiều nước ở châu Á, nhất là thời Lý - Trần ở Việt Nam. Nếu Suzuki nhận xét rằng văn hóa châu Á đi ra từ dưới những mái chùa, thì điều đó hoàn toàn đúng ỡ thời Lý - Trần, lúc mà đất nước hầu như được che phủ bởi những mái chùa và sư sãi chiếm quá nửa dân số. Tuy nhiên, trọng tâm Phật giáo thời Lý - Trần không phải là “tích thiện”. “Nhập thế”, “xuất thế” là một chủ đề mà Phật giáo không thể không giải quyết. Hình như trên thế giới chưa có nơi  nào Phật giáo lại được thử  thách trong quan hệ giữa “đạo” và “đời” như  Phật giáo thời Lý - Trần. Thực ra “xuất thế” và “nhập thế” không phải chỉ là vấn đề của riêng Phật giáo mà cả Nho và Đạo đều quan tâm. Nhưng những dị biệt của ba giáo lại có xu hướng hài hòa trước vấn đề trọng đại vào bậc nhất của dân tộc, đó là vấn đề dựng nước và giữ nước. Lịch sử Việt Nam chẳng bao giờ quên cống hiến của Phật giáo thời Lý Trần đối với vấn đề này. Khai sinh ra cả hai triều đại Lý và Trần lẽ nào lại không có công lao của Phật giáo? Chẳng phải Lý Công Uẩn đã lớn lên từ nhà chùa và có lẽ nếu không có quốc sư Vạn Hạnh thì e rằng cũng chẳng có nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Nếu không có quốc sư Phù Vân núi Yên Tử  hết lòng khuyên can vua Trần Thái Tông “Phật tại tâm chứ không phải tại tâm” thì Trần Thủ Độ cũng khó lòng chèo chống cho cơ đồ nhà Trần. Hình như đó cũng là một trong những lý do để sử sách đặc sệt ý thức hệ Tống Nho sau này “xem xét” cái gọi là tính “hợp pháp”, tính “chân chính” của cả hai triều đại Lý Trần. Khâm định Việt sử  thông  giám cương mục phê: “Nhà Lý, nhà Trần lấy được nước, đều không heo chính nghĩa” , Giá như không có cái gọi là chính nghĩa không biết ở đâu từ trên trời rơi  xuống đó thì đở bất hạnh cho người dân Việt Nam biết bao nhiếu! Cũng may mà tư tưởng hài hòa sống động mới là ý thức xã hội thời Lý - Trần chứ không phải là cái khung “chính nghiã” lỗi thời mà chừng nào còn nó thì lịch sử Việt Nam còn dẫm chân tại chỗ.


Phật giáo không có cái “khung” giáo điều, chuẩn mực cho mọi nơi, mọi lúc, Phật tử “hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. Trần Anh Tông trước khi qua đời đem đốt hết mọi thứ đã được viết ra, kể cả tập thơ Thủy vân tùy bút, chắc cũng vì không muốn cho con cháu đời sau phải  cố chấp, không biết tùy thời biến đổi.


Biện chứng là vận động, biến đổi. Một trong Tam pháp ấn của Phật giáo là “vô thường” (anitya), nghĩa là luôn luôn  biến đổi (impermanent) . Như trên đã đề cập, không phải chỉ có mâu thuẫn mới là động lực, thống nhất hoặc đúng hơn, hài hòa cũng là động lực của vận động biến đổi. Hầu hết các Thiền sư thời Lý Trần đều lãnh hội sâu sắc vấn đề này. Trong cái “sai biệt” có cái “vô sai biệt”, có cái hài hòa của những mặt đối lập. Hài hòa giữa “có” và “không” tức là hài hòa về bản thể luận là cơ sở để giải tỏa những khúc mắc khác. Thiền sư Cứu Chỉ cho rằng Phật giáo không bị bó buộc đới với “có” và “không”, cho nên đã “liễu ngộ” được lẽ sống – chết (Duy hữu Phật giáo bất hứa hữu vô, khả liễu sinh tử, Truyền đăng tập lục). Thiền sư Trí Thiền cũng quả quyết chỉ có Phật giáo mới đoạn tuyệt được với “có”, “không”, mới thoát khỏi vòng sống chết khổ sở (Nhiên xuất sinh tử khổ, đoạn hữu vô kế, phi Thích tắc bất năng dã. Truyền đăng tập luc). “Trung đạo” (Madhyamapratipad) của Nagarjuna, nói không với cái “có” và nói không với cả cái “không”, hay là “bình đẳng quan” (Samata), “bất nhị pháp môn”… của Phật giáo nói chung đều hiện diện ở Phật giáo Lý - Trần. “Hài hòa” được diễn đạt theo thể phủ định, bởi vì nếu “mọi sự quy định là phủ định” (Omnis determinatio est negatio) thì phủ định cũng là quy định. Nói cách khác là luôn nhận thức đối tượng trong quá trình biến đổi. “Hài hòa” bắt đầu từ tồn tại, phi tồn tại. Phật giáo Lý - Trần cũng vậy, cũng cần giải quyết việc trọng đại sống - chết của con người. “Liễu ngộ” sống - chết lại gắn liền với tồn tại hay không tồn tại của dân tộc. Cứu một mạng người bằng xây bảy ngôi chùa, cứu cả dân tộc thì công đức vô biên. “Nhập thế” hay “xuất thế” khi dân tộc vừa đứng dậy sau hơn nghìn năm bị áp bức? “Nhập thế” hay “xuất thế” khi cả dân tộc đang bị đe dọa bởi kẻ thù xâm lăng. Đạo hay là đời, đời hay là đạo? Đặc điểm của Phật giáo Lý - Trần chính là ở đây.  Trần Nhân Tông vừa sống ở đời lại vừa vui với đạo một cách thản nhiên như đói thì ăn, buồn ngủ thì đi ngủ vậy (Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, cơ tắc xan hề khốn tắc miên). Đúng là “đạo” cũng là “đời” mà “đời” cũng là “đạo”. Ai dám bảo Trần Nhân Tông, vị tổ thứ nhất Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là không đắc đạo? Ai dám bảo Trần Nhân Tông, ngọn cờ của dân tộc hai lần đánh tan quân Nguyên - Mông là không nhập đời? Hài hoà giữa dạo và đời hay tạm gọi là hài hòa giữa đời sống tinh thần và đời sống vật chất làm cho sức mạnh của một con người, của một dân tộc tăng gấp đôi. Chỉ những ai có đời sống hài hòa mới thưởng thức được những cái đẹp mà những kẻ bị cuốn hút vào vòng xoáy trục vật không thể nào có được. Một bức tranh đồng quê  hay là cả tâm hồn ngộ đạo của Trần Nhân Tông:


“Thôn trước thôn sau mơ ømờ như khói phủ,

Cảnh vật trong bóng chiều nửa có nửa không.

Mục đồng cất tiếng  sáo lùa trâu về,

Cò trắng từng đôi bay là là xuống cánh đồng.

(Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô bán hữu tịch dương biên,

Mục đồng địch lý quy ngưu tận,

Bạch lộ song song phi hạ điên)”


Thật ra trên đời  chẳng có ai lại quyết tâm bảo vệ  cái hay, cái đẹp mà mình không nhận ra. Giá trị của triết lý hài hòa có lẽ chính là ở đó.


Ph. Ăng ghen nhận xét: “Tư tưởng lý luận của thời đại đều là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử. Trong những thời đại khác nhau nó có những hình thức hoàn toàn khác nhau. Do đó nó cũng có những nội dung hoàn toàn khác nhau” .


Vậy nội dung tư duy lý luận bốn trăm năm của thời đại Lý - Trần, quốc gia Đại Việt vừa mới hưng thịnh chẳng bao lâu sau hơn nghìn năm chống ngoại xâm là gì? Nếu triết học hài hòa là “triết  học chân chính” thì nó cũng là “tinh hoa tinh thần”  của thời đại Lý  - Trần.


“Tinh hoa tinh thần” của thời đại tạo ra những giá trị bất hủ cho thời đại. Nguyễn Trãi hoàn toàn khách quan khi so sánh vị thế ngang ngửa giữa triều đại Lý - Trần ở Việt Nam và triều đại Tống - Nguyên ở Trung Quốc. Mỗi bên đều “làm chủ một phương”, khác về “bờ  cõi núi sông”, khác về “phong tục”, nhưng “hào kiệt không bao giờ thiếu” (Bình Ngô đại cáo). Có lẽ nên bổ sung thêm một điều, đó là tính thông thoáng mà Huỳnh Thúc Kháng gọi là “không khí tự do” ở thời Lý - Trần khác xa với thể chế chuyên quyền độc đoán của triều đại Tống - Nguyên.


Cũng không phải ngẫu nhiên mà Lê Quý Đôn lại so sánh những điểm đồng, dị của mỗi nơi:


“Nước ta, hai triều nhà Lý, nhà Trần ngang vào khoảng triều nhà Tống nhà Nguyên ở Trung Quốc. Lúc ấy tinh anh, nhân tài, phong cách văn chương không khác gì ở Trung Quốc” (Kiên văn tiểu lục, Thiên chương).


Lê Quý Đôn còn tự  hào về sức mạnh quân sự thời  nhà Lý. Ông cho rằng chính sử sách nhàTống đã ghi  chép việc Tống Thần Tông nghe theo Tống Duyên Khánh, tri châu đất Hoạt, học tập binh pháp của triều nhà Lý:


“Ấy, binh pháp của nhà Lý nước ta được triều Tống Trung Quốc bắt chước như thế!” (Vân đài loại ngữ, quyển 1)


“Tinh hoa tinh thần” thời đại Lý - Trần đặc sắc như vậy, nhưng tại sao khi chế độ phong kiến trung ương tập quyền càng củng cố bao nhiêu thì nó càng trở nên “vang bóng một thời” bấy nhiêu?


Vấn đề đó có liên quan đến tiến trình lịch sử của cả nhân loại. M.Weber cho rằng thực ra điều kiện vật chất, kinh tế ở phương Tây và phương Đông chẳng có gì khác nhau  bao nhiêu trước khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản. Thậm chí ở một số lĩnh vực nào đó, phương Đông còn trội hơn ở phương Tây. Chẳng hạn như nhiều thế kỷ qua, sự phát triển đô thị ở Ấn Độ về nhiều mặt, tương đương như ở phương Tây. Hệ thống kỹ thuật số, vi tính hiện đại đều có nguồn gốc ở Ấn Độ. Pháp luật, phân công lao động… đều không kém phương Tây. Trung Quốc và các nước khác ở phương Đông cũng vậy, họ không phải là người vốn sinh ra không biết làm kinh tế. Nhưng tại sao chỉ có phương Tây mới làm cho chủ nghĩa tư bản trở thành “động lực ngang dọc thiên hạ” (force overwhelm world)? (Đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản). Theo Weber, có hai điều kiện tiên quyết: đó là tính quy phạm, còn gọi là điều kiện tinh thần và tính chế độ, còn gọi  là điều kiện vật chất. Chỉ khi nào hai điều kiện đó thống nhất với nhau thì chủ nghĩa tư bản mới xuất hiện. Ấn Độ thiếu hẳn điều kiện tinh thần, đúng hơn là “không có tư duy siêu hình hổ trợ về mặt tinh thần”. Còn ở Trung Quốc thì văn hóa Nho giáo trở thành lực cản, người dân an phận thủ thường “không dợ thiếu, không sợ nghèo”, kinh tế  khá một chút  đã vội thỏa mãn, thiếu ý chí tiến thủ, không thể nào động viên người dân thực hiện kinh tế  tư bản chủ nghĩa được. Trong lúc đó ở phương Tây, kinh tế của tín đồ đạo Tin lành lại hướng về việc chứng minh cho cái gọi là“thiên chức” mà Chúa đã gửi gắm, như tinh thần khắc khổ, tiết kiệm… Weber cho rằng đó là “một trong những nhân tố quan trọng về tinh thần của chủ nghĩa tư bản”, tinh thần này bắt nguồn từ “tinh thần cấm dục của Cơ đốc giáo”


Lập luận của M.Weber đã bị không ít nhà nghiên cứu chỉ trích, họ cho rằng sai lầm chủ yếu của Weber là đồng nhất Nho giáo ở các thời  kỳ khác nhau và lẫn lộn giữa “phát sinh học” (Genetic) và “kết cấu” (Structure).


Có lẽ Weber cũng không hoàn toàn làm cho mọi người phải thất vọng, dẫu sao Weber cũng đã chỉ ra cái gọi là những hạn chế chung của ã xã hội phương Đông, trong dó có lẽ có cả xã hội thời Lý - Trần. Weber cho rằng chủ nghĩa tư bản hình thành trước tiên ở thành thị, nhưng thành thị phương Đông luôn nằm dưới quyền điều hành của chế độ trung ương tập quyền hay quân đội, không được pháp luật, chính trị trao cho quyền tự chủ như ở phương Tây. Do đó, phương Đông chưa từng xuất hiện giai tầng tự do hóa. Ngoài ra quyền sở hữu, quyền tự do công dân… đều chưa được thừa nhận. Về tư pháp thì cực kỳ “phi lý tính” bởi vì pháp luật được thực hiện theo tinh thần chuyên chế, độc đoán cá nhân (Đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản) .


Xã hội thời Lý - Trần đương nhiên chưa phải là chủ nghĩa tư bản, và cũng chưa đủ điều kiện để chuyển sang chủ nghĩa tư bản. Cái gọi là “dân chủ” như biểu hiện ở Hội nghị Diên Hồng, như có người đã nhận định, thực ra cũng mới chỉ là phương tiện để “chủ dân” chứ chưa phải là “dân chủ”. Còn những “hạn chế” khác mà Weber nói tới đâu phải chỉ là “lỗi” của riêng thời đại Lý - Trần.


Giá như lịch sử tiếp tục phát triển, đổi mới tư duy triết học hài hòa của chính mình, giá như lịch sử sớm hướng về những nhân tố hợp lý của kinh tế thị trường ở phương Tây như Nhật Bản chẳng hạn. Giá như lịch sử không tự đóng khung bằng những tín điều của Tống Nho, (Huỳnh Thúc Kháng còn gọi là cặn bã của Tống Nho), thì có lẽ xã hội phong kiến chuyên chế ở Việt Nam sẽ được rút ngắn hơn nhiều, chứ không kéo dài lê thê hàng nghìn năm như vậy. Lịch sử là thời gian, thời gian đã qua thì chẳng bao giờ trở lại, nhưng lịch sử thường hay lặp lại, lặp lại cả cái hay lẫn cái dở, bởi vì lịch sử không chỉ là thời gian.



Hà Thúc Minh



Top