• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Tư tưởng phân chia quyền lực

dream_high

Moderator
Xu
0
Tư tưởng phân chia quyền lực
Bài làm 1

I.Cơ sở lí luận


1. Quyền lực nhà nước và tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước

Để tìm hiểu về nội dung của tư tưởng phân chia quyền lục nhà nước, trước hết phải hiểu về nhà nước và quyền lực nhà nước.

Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, là bộ máy chuyên làm nhiệm vụ chuyên chế và thực hiện chức năng quản lí đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.Quyền lực nhà nước là quyền lực công cộng nhưng không thuộc về mọi thành viên trong xã hội mà thuộc về giai cấp thống trị và phục vụ lợi ích cho giai cấp đó. Quyền lực nhà nước là sức mạnh mang tính ý chí của nhà nước, có tính bắt buộc phải tuân theo đối với mọi cá nhân, tổ chức, lực lượng trong xã hội, được đảm bảo thực hiện bởi một bộ máy chuyên nghiệp quản lí mọi mặt đời sống xã hội, bởi các công cụ như nhà tù, tòa án, cảnh sát, quân đội… và bởi hệ thống các quy tắc xử sự chung thống nhất cho toàn xã hội.Quyền lực nhà nước vể bản chất là biểu hiện tư tưởng cho quyền lực chính trị của lực lượng chiếm ưu thế về kinh tế trong xã hội.Trong một xã hội có giai cấp, quyền lực nhà nước là sức mạnh có tính bao trùm rộng lớn nhất quan trọng nhất có khả năng khống chế và bắt buộc mọi cá nhân tổ chức lưc lượng trong xã hội phải phục tùng ý chí của mình.

Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước được thể hiện trong sự phân tách quyền lực nhà nước thành các loại lập pháp, hành pháp, tư pháp và được trao cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện.Theo đó, quyền lập pháp được giao cho nghị viện, quyền hành pháp được giao cho chính phủ và quyền tư pháp được giao cho tòa án.Các cơ quan này có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau và có sự chuyên môn hóa trong hoạt động.Mỗi cơ quan sẽ chuyên chú vào việc thực hiện chức năng, thẩm quyền riêng của mình trên cơ sở luật pháp. Sự phân bố quyền lực giữa các cơ quan sao cho không một cơ quan nào nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước, không một cơ quan nào có thể tách khỏi chức năng của mình và cũng không một cơ quan nào được sai khiến hoặc chen lấn chức năng của cơ quan khác.

Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp không chỉ độc lập với nhau khi thực hiện chức năng thẩm quyền mà còn có thể kiềm chế, ngăn cản hoặc đối trọng với nhau trong hoạt động, không có cơ quan nào nằm ngoài sự giám sát kiểm tra của cơ quan khác.Điều đó giúp cho các cơ quan có thể ngăn cản được sự lấn quyền, vượt quyền đồng thời có thể tránh được sự chuyên quyền độc đoán, lạm quyền trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, nhờ đó mà bảo đảm tự do cho công dân và ngăn ngừa được các hành vi lạm quyền khác.

Khi nói đến phân chia quyền lực, ngày nay ở mỗi nhà nước đều áp dụng cách thứ phân quyền ngang hay phân quyền dọc tùy theo điều kiện của từng nước sao cho mỗi hoạt động quyền lực được thực hiện một cách có hiệu quả nhất.

Phân quyền ngang là cách thức phân quyền cổ điển, theo đó quyền lực nhà nước được phân chia thành các nhóm khác nhau: Nghị viện nắm quyền lập pháp, Tổng thống nắm quyền hành pháp, Tòa án nắm quyền tư pháp.Quyền lực giữa các cơ quan này là quyền lực cân bằng, hoạt động của các cơ quan có sự chuyên môn hóa và luôn kiềm chế đối trọng giám sát lẫn nhau. Có 3 mức độ biểu hiện của cách thức phân quyền ngang trong bộ máy nhà nước hiện nay:

Một là, phân quyền cứng rắn được áp dụng trong chính thể cộng hòa Tổng thống với nguyên tắc “quyền lực ngăn cản quyền lực”.Quyền hành pháp thuộc về nguyên thủ quốc gia, hành pháp không phải chịu trách nhiệm trược luật pháp và sự phân quyền được ghi nhận trong Hiến pháp.Đại diện điển hình cho mức độ áp dụng này là Mỹ.

Hai là, phân quyền mềm dẻo được áp dụng trong chính thể đại nghị.Điều đó thể hiện ở chỗ hành pháp không hoàn toàn độc lập mà có mối liên hệ thường xuyên với lập pháp do chịu trách nhiệm trước lập pháp và sự chung nhân viên giữa hai cơ quan này.Nguyên thủ quốc gia có quyền hành pháp mang tính tượng trưng vì bộ máy hành pháp trực thuộc Thủ tướng và Thủ tướng mới phải chịu trách nhiệm trước lập pháp.Tư pháp độc lập với hành pháp trong hoạt động song không hoàn toàn độc lập trong tổ chức, hoạt động với lập pháp.Sự phân quyền này thể hiện rõ tiêu biểu ở 2 nước là Anh và Đức.

Ba là, phân quyền trong chính thể cộng hòa hỗn hợp.Trong tổ chức bộ máy nhà nước này,tư tưởng phân quyền được áp dụng ở mức độ trung gian giữa cứng rắn và mềm dẻo với đặc trưng cơ bản là sự độc lập của hành pháp với lập pháp cao hơn trong chính thể cộng hòa đại nghị song lại thấp hơn trong chính thể cộng hòa tổng thống.Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Quốc hội có thể bị giải tán trước thời hạn.Những đặc trưng trên được thể hiện rõ trong nhà nước Pháp và Nga.

Ở nhiều Nhà nước hiện nay tư tưởng phân chia quyền lực có một số thay đổi.Theo các nhà lập hiến ở một số nước Mỹ Latinh thì quyền lục nhà nước có tứ quyền, thêm quyền bầu cử.Trong dự thảo Hiến pháp Nicaragoa 1986 đưa ra còn nhắc tới ngũ quyền hay Hiến pháp 1976 của Angieri quy định tới lục quyền,…

Phân quyền dọc là cách thức phân chia quyền lực giữa Trung ương và địa phương.Theo cách phân chia này, bộ máy nhà nước trong hệ thống các cơ quan quyền lực ở các cấp địa phương song song với bộ máy nhà nước Trung ương.Trong từng lĩnh vực cụ thể lại có sự phân công nhiệm vụ trách nhiệm quyền hạn cụ thể giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương. Chính quyền Trung ương chủ yếu giải quyết các vấn đè công, vì lợi ích của cả cộng đồng xã hội, còn chính quyền địa phương sẽ phụ trách các vấn đề kinh tế, giáo dục, văn hóa ở địa phương.

Phân quyền dọc được thực hiện theo hai phương pháp là phân quyền theo lãnh thổ và phân quyền theo chuyên môn.Tùy theo mỗi tiêu chí và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nhà nước mà có cách phân chia cho phù hợp.

2. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước

Tư tưởng phân chia quyền lực được các nhà hiền triết đề xướng từ thời La Mã cổ đại với đại diện tiêu biểu là Aristote, sau đó được nhiều người phát triển và trở thành một học thuyết độc lập vào thế kỉ XVIII gắn với tên tuổi của Montesquieu, nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp.Học thuyết về sự phân chia quyền lực gắn liền với lí luận về pháp luật tự nhiên đã đóng vai trò quyết định trong lịch sử đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán chuyên quyền của nhà vua.Cùng với sự thành lập chế độ tư bản, tư tưởng phân chia quyền lực đã trở thành một trong những tư tưởng chính của chủ nghĩa lập hiến tư sản.Tư tưởng này lần đầu tiên được thể hiện trong các đạo luật mang tính hiến định của cuộc cách mạng Pháp và sau đó thể hiện đầy đủ trong Hiến pháp Hoa Kì 1787.Và đây chính là nền tảng cho cách thức xây dựng bộ máy nhà nước của đa số các quốc gia trên thế giới sau này

2.1 Quan điểm của Aristote

Aristote – bộ óc bách khoa nhất của thế giới cổ đại là người đầu tiên đề cập tới vấn đề phân chia quyền lực trong các nhà nước.Ông cho rằng để đảm bảo sự công bằng trong dân chúng thì nhà nước phải được tổ chức có quy củ, nghĩa là phải có 3 bộ phận: “bộ phận tư vấn pháp lí về hoạt động của nhà nước, bộ phận thứ hai là các tòa thị chính và bộ phận thứ ba là các cơ quan tư pháp”. Từ đó, ông chia lĩnh vực hoạt động của nhà nước thành 3 thành tố: nghị luận, chấp hành và xét sử.Tư tưởng này đã được xây dựng ở một số nhà nước cổ đại phương Tây mà điển hình là nhà nước Athens và Cộng hòa La Mã.Tuy nhiên, tư tưởng của Aristote mới chỉ dừng lại ở việc phân biệt các lĩnh vực hoạt động của nhà nước chứ chưa chỉ rõ phương thức vận hành cũng như mối quan hệ bên trong giữa các thành tố đó.

2.2 Quan điểm của Jonh Locke

Jonh Locke, một nhà triết học người Anh, ông là người đầu tiên khởi thảo ra lí luận hoàn chỉnh về học thuyết phân quyền và được thể hiện trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”.Trước hết, có thể nhận thấy rằng Locke đã đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập pháp.Ông cho rằng “chỉ có thể có một quyền lực tối cao là cơ quan lập pháp, mà tất cả các quyền lực còn lại là, mà phải là những cái phụ thuộc vào nó”.Ông chia quyền lực nhà nước thành các phần: lập pháp, hành pháp và liên minh. Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước và phải thuộc về nghị viện.Nghị viện phải họp định kì thông qua các đạo luật nhưng không thể can thiệp vào việc thực hiện chúng.Quyền hành pháp phải thuộc về nhà vua, nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật và bổ nhiệm các chức vị trong bộ máy nhà nước.Hoạt động của nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và vua không có đặc quyền nhất định nào với nghị viện nhằm không cho phép nhà vua thâu tóm quyền lực về tay mình và xâm phạm vào các quyền tự nhiên của công dân.Nhà vua thực hiện quyền liên minh, tức là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hòa bình và đối ngoại.

2.3 Quan điểm của C.L.Montesquieu

Những luận điểm phân quyền của Locke được nhà khai sáng người Pháp Montesquieu phát triển.Ông kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy giờ.Đây là một tổ chức quyền lực tồi tệ, phi lí vì nhà nước tồn tại vốn là biểu hiện của ý chí chung, nhưng trong chế độ chuyên chế nó lại biểu hện ý chí đặc thù.Montesquieu nhận thấy rằng pháp luật gồm nhiều lĩnh vực, phân ngành rõ rệt cho nên tập trung vào một người duy nhất là trái với bản chất của nó.Hơn nữa, cùng với sự phát triển của xã hội, các lĩnh vực quản lí của nhà nước ngày càng mở rộng, công việc của nhà nước ngày càng đa dạng, phức tạp hơn nên một cá nhân hay một cơ quan không thể đảm nhiệm được mà phải phân công cho nhiều cơ quan cùng thực hiện.Thêm vào đó, con người thường có xu hướng lạm quyền, vụ lợi hoặc làm sai khi có điều kiện nên cần có cơ chế kiềm chế, kiểm soát họ.Ông cũng nhận thấy rằng, tình trạng lạm quyền gắn với chế độ chuyên chế, vì vậy cần loại bỏ chế độ này.

Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật’, Montesquieu đã lập luận tinh tế và chặt chẽ tính tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực, tư tưởng này được tập trung thể hiện trong quyển 11, chương 6 của tác phẩm.Ông khẳng định “Trong bất cứ quốc gia nào đều có 3 thứ quyền: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự”.Qua tác phẩm này, ta có thể nhận thấy một bước phát triển mới của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước, khi ông đưa ra quan điểm phân tách các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp một cách triệt để.Ông đã viết: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên Lão, thì sẽ không có gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp.Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật.Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”.

Có thể khẳng định sau Aristote 1300 năm, với Montesquieu tư tưởng phân chia quyền lực đã hồi sinh trở lại, và với lần này, nó đã trở thực sự trở thành một học thuyết đầy đủ, trọn vẹn và hoàn hảo, Montesquieu xứng đáng được mệnh danh là cha đẻ của tư tưởng phân quyền hiện đại.

2.4 Quan điểm của J.J.Rousseau

Tiếp nối Montesquieu, Rousseau cùng với tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” đã đưa ra những quan điểm mới mẻ và tiến bộ về sự phân chia quyền lực và tổ chức bộ máy nhà nước.Rousseau chủ trương nêu cao tư tưởng tập quyền, tất cả quyền lực nhà nước nằm trong tay cơ quan quyền lực tối cao và chính phủ là cách thức hợp lí duy nhất để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả cho nhà nước cũng như ngăn chặn được xu hướng lạm quyền.Tuy vậy, ông lại cho rằng phân quyền là phương cách tốt nhất để ngăn chặn sự lạm quyền, và ngay trong bố cục của tác phẩm cũng đã toát lên tư tưởng đó.Ngoài ra, ông còn nêu lên vai trò quan trọng của cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo cho sự hoạt động ổn định của nhà nước, cũng như cho sự cân bằng giữa các vế cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ và nhân dân.

II. Cơ sở thực tiễn

Thực tế áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực ở các nước tư sản điển hình và ở Việt Nam:

Hoa Kì là nước áp dụng nguyên tắc này triệt để nhất, ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp được tổ chức một cách độc lập với nhau nhưng có thể chế ngự và đối trọng lẫn nhau.Tổng thống Koa Kì do nhân dân bầu ra và đứng đầu cơ quan hành pháp.Việc bầu cử Tổng thống không phụ thuộc vào việc bầu cử nghị viện làm cho Tổng thống đối lập với nghị viện.Tổng thống có quyền thành lập Chính phủ và Chính phủ chỉ chịu trách nhiệm trước Tổng thống.Nghị viện không có quyền bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ và ngược lại, Tổng thống cũng không có quyền giải tán nghị viện làm cho lập pháp và hành pháp đối lập với nhau.Các thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời và chỉ bị miễn nhiệm khi vi phạm pháp luật hoặc vì lí do sức khỏe, làm cho quyền tư pháp cũng độc lập với hành pháp và lập pháp.

Tuy đối lập với nhau nhưng 3 nhánh quyền lực này có thể kiềm chế lẫn nhau để hạn chế sự lạm dụng quyền lực.Tổng thống có thể dùng quyền phủ quyết luật để kìm hãm hoạt động lập pháp của nghị viện.Nghị viện có thể thông qua ngân sách để hạn chế hoạt động của Tổng thống, Tổng thổng có thể bị nghị viện xét xử và các thẩm phán cũng có thể bị miễn nhiệm trước thời hạn theo thủ tục đàn hạch.

Ở Pháp, lập pháp thuộc về nghị viện, hành pháp thuộc về tổng thống và chính phủ, còn quyền tư pháp thuộc về hệ thống tòa án.Nghị viện có 2 chức năng cơ bản là lập pháp và giám sát hoạt động của chính phủ.Quan hệ giữa lập pháp và hành pháp mật thiết hơn so với chính thể cộng hòa tổng thống.Cùng với tổng thống và chính phủ, hội đồng bảo hiến trở thành thế lực thứ 3 hạn chế quyền lực của nghị viện.Vai trò kiềm chế lập pháp của hội dồng bảo hiến phần nào giống với vai trò của tòa án tối cao ở Mỹ và tòa án Hiến pháp ở Đức.Quyền hành pháp do chính phủ mà thực chất là tổng thống.Tổng thống có quyền hoạch định chính sách quốc gia, chủ tọa đồng bộ trưởng để thông qua chính sách này, có quyền ân xá, bổ nhiệm thủ tướng, các đại sứ, các chức vụ dân sự.Quyền tư pháp do hệ thống tòa án nắm, kiểm soát hoạt động cơ quan tư pháp là hội đồng thẩm phán tối cao do tổng thống là chủ tọa.

Hiện nay, tổ chức bộ máy nhà nước tại Việt Nam, về bản chất vẫn bảo đảm tính tập quyền xã hội chủ nghĩa, song trên thực tế đã vận dụng những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền, nghĩa là nhấn mạnh đến khía cạnh phân công quyền lực: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.Đây là bước phát triển trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kì đổi mới.
 
Bài làm 2

1.Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước.


Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước là tổng thể các quan điểm về việc chia tách quyền lực nhà nước thành các loại quyền lực khác nhau, về cơ chế vận hành của từng loại quyền lực và mối quan hệ giữa các loại quyền lực ấy trong quá trình thể hiện quyền lực nhà nước. Tư tưởng ấy được khái quát hóa bằng nhiều tên gọi khác nhau như tư tưởng phân quyền, thuyết tam quyền phân lập, học thuyết phân chia quyền lực nhà nước,…bởi những học giả tư sản nổi tiếng. Nội dung chính của tư tưởng này là một thể chế chính trị với ba cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp được tổ chức song song với nhau, qua đó kiểm tra, giám sát hoạt động lẫn nhau nhằm ngăn chặn sự chuyên quyền, lạm quyền và phân định chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tư tưởng phân chia quyền lực bao gồm phân quyền ngang và phân quyền dọc.

a. Phân quyền ngang.

Cha đẻ của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước chính là Aristote - “nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại” (C.Mác). Ông quan niệm rằng trong bất kì nhà nước nào cũng cần phải có những yếu tố bắt buộc: cơ quan làm ra luật có trách nhiệm trông coi việc nước, các cơ quan thực thi pháp luật và các tòa án, từ đó ông chia quyền lực nhà nước thành ba thành tố: luật pháp, hành pháp và xét xử. Tuy nhiên, tư tưởng của Aristote mới chỉ dừng ở việc phân chia quyền lực nhà nước, chứ chưa chỉ rõ phương thức vận hành cũng như mối quan hệ bên trong giữa các thành tố đó.

Từ những quan điểm sơ khai về phân chia quyền lực trong nhà nước Hi Lạp cổ đại của Aristote, nhà triết học người Anh – John Locke (1632 – 1704) đã là người đầu tiên khởi thảo ra học thuyết phân quyền, và thể hiện trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về Chính quyền” của ông. Ông cho rằng: “Chỉ có thể có một quyền lực tối cao, là cơ quan lập pháp, mà tất cả các quyền lực còn lại là, và phải là, những cái phụ thuộc vào nó”. Có thể hiểu J.Locke đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập pháp. Ông chia quyền lực nhà nước thành các ba nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp và liên minh. Nhìn chung, học thuyết phân quyền của J.Locke đã có sự kế thừa tư tưởng phân chia quyền lực của Aristote nhưng vẫn còn nhiều hạn chế khi đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập pháp.

Nhắc đến tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước, không thể không nhắc đến nhà khai sáng Charles de Secondat – nam tước de La Bride – Montesquieu (1689 – 1755). C.L.Montesquieu đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của Aristote và hoàn thiện học thuyết của J.Locke tới mức đỉnh cao vào những năm 40 của thế kỉ XVIII tại Pháp. Qua tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, ông khẳng định: “Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự”. Quyền lập pháp được trao cho quốc hội (nghị viện), quyền hành pháp trao cho vua (tổng thống), còn quyền tư pháp trao cho tòa án tối cao. C.L.Montesquieu không những chỉ đưa ra khẳng định về tính tất yếu của việc phân chia quyền lực nhà nước mà còn lập luận chặt chẽ và tinh tế khi chỉ ra được mối quan hệ bên trong của ba nhánh quyền lực đó. Mối quan hệ đó vừa thể hiện sự phân chia độc lập vừa thể hiện được sự ràng buộc, “đối trọng và kiềm chế” lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực. Đó chính là điểm tiến bộ nhất của C.L. Montesquieu so với các bậc tiền bối trong thuyết tam quyền phân lập, và trở thành “hòn đá tảng” trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản hiện nay.

Tiếp nối Montesquieu, J.J. Rousseau cùng với tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội,” đã đưa ra những quan điểm rất mới mẻ và tiến bộ về sự phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. J.J.Rousseau (1712 – 1778) chủ trương nêu cao tinh thần tập quyền, tất cả quyền lực nhà nước nằm trong tay cơ quan quyền lực tối cao tức toàn thể công dân trong xã hội. Nhưng ông cho rằng quyền lực nhà nước chỉ chia thành quyền lập pháp và quyền hành pháp, giao chúng vào tay cơ quan quyền lực tối cao và chính phủ là cách thức hợp lý duy nhất để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả cho nhà nước, cũng như ngăn chặn được xu hướng lạm quyền. Ngoài ra ông còn nêu lên vai trò quan trọng của cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo cho sự hoạt động ổn định của nhà nước, cũng như cho sự cân bằng giữa các vế cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ và nhân dân. Nhưng nhìn chung ông vẫn cho rằng quyền lực của mỗi cơ quan phụ thuộc vào quyền lực tối cao và chỉ thể hiện ý chí tối cao đó mà thôi.

b. Phân quyền dọc.

Phân quyền dọc được chia theo lực lượng chính trị khác nhau trong xã hội, giữa cơ quan nhà nước trung ương với cơ quan địa phương, giữa liên bang với tiểu bang, giữa liên minh với các nước thành viên hay giữa các cơ quan với nhau. Chính ở sự phân quyền này mà quyền lực nhà nước trung ương bị hạn chế. Đến lượt mình, quyền lực của cơ quan địa phương – chính phủ địa phương lại bị phân chia thành lập pháp địa phương và hành pháp địa phương. Nội dung chủ yếu của tư tưởng phân quyền dọc như sau:
- Tồn tại hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do dân bầu ở các cấp địa phương, song song với bộ máy nhà nước trung ương.
- Có sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong những lĩnh vực cụ thể; mà chủ yếu là chính quyền trung ương sẽ giải quyết các vấn đề công, vì lợi ích của cả cộng đồng xã hội, như vấn đề: chủ quyền lãnh thổ, dịch vụ công,...; còn chính quyền địa phương sẽ phụ trách các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục, văn hóa ở địa phương, ngoài ra còn có thể chủ động tiến hành hợp tác, giao lưu với các địa phương khác hoặc các tổ chức quốc tế trong quyền hạn của mình.

Tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền trong nhiệm vụ và quyền hạn của mình là tương đối độc lập với nhau. Chính quyền trung ương không có quyền điều hành, chỉ đạo chính quyền địa phương, mà chỉ có thể xây dựng chủ trương chính sách, tạo dựng khuôn khổ pháp lý, và kiểm tra, giám sát hoạt động của các chính quyền cấp dưới, mọi phạm vi của chính quyền địa phương sẽ do Tòa án Hành chính xét xử độc lập.

2. Sự vận dụng tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản.

Có rất nhiều cách chia các mức độ áp dụng thuyết tam quyền phân lập trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản, nhưng về cơ bản, ta có thể chia thành ba mức độ áp dụng, đó là:
- Áp dụng ở mức độ cứng rắn, dứt khoát hay triệt để theo đúng những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc phân quyền để hình thành nên hình thức chính thể cộng hòa tổng thống hay chế độ tổng thống.
- Mức áp dụng thứ hai là áp dụng một cách mềm dẻo, hòa dịu hay tương đối, thay đổi một số yêu cầu cơ bản của nguyên tắc phân quyền để hình thành nên chính thể quân chủ đại nghị và cộng hòa đại nghị hay chế độ nội các.
- Cách thứ ba là phối hợp hai cách trên: cứng rắn ở quan hệ này nhưng mềm dẻo ở quan hệ khác trong mối quan hệ giữa ba “cành” quyền lực của “cây” quyền lực nhà nước để hình thành nên chính thể cộng hòa hỗn hợp hay lưỡng tính.
Để hiểu rõ thêm về ba mức độ áp dụng trên chúng ta sẽ đi sâu phân tích từng cách áp dụng.

a. Áp dụng ở mức độ cứng rắn trong nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống.

Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước được áp dụng một cách cứng rắn được hiểu là quyền lực nhà nước có sự phân chia, tách biệt, độc lập và chuyên môn hóa các cơ quan công quyền như nghị viện, chính phủ, tòa án tối cao nhằm tạo thế cân bằng giữa quyền lực và cơ chế “kiềm chế, đối trọng” để ngăn cản, kiểm soát lẫn nhau. Đặc trưng của nguyên tắc áp dụng này là: tổng thống là trung tâm của mọi quyền lực nhà nước vừa nắm quyền hành pháp, vừa là người thành lập ra chính phủ. Tổng thống có thể khống chế một phần quyền lực của nghị viện trong việc ban hành luật và chi phối hoạt động tòa án tối cao bằng việc bổ nhiệm chánh án. Tuy nhiên tổng thống không có quyền giải tán nghị viện, bãi chức thẩm phán và nghị viện cũng không có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ. Nếu tổng thống vi phạm pháp luật, nghị viện có quyền luận tội và bãi nhiệm tổng thống trước thời hạn. Về hình thức, tòa án có thể coi là tương đối độc lập đối với các cơ quan nhà nước khác, tuy nhiên tòa án cũng có quyền thanh tra hoạt động của nội các chính phủ và nghị viện. Hình thức này tồn tại ở nhiều nước như Mĩ, Trung Mĩ (Panama, Coxtarica…), Nam Mĩ (Braxin, Achentina…) và một số nước châu Á (Pakixtan, Philippin…). Tuy nhiên mỗi chính thể tổng thống của từng nước có những nét riêng đặc thù nên nhìn chung chỉ thể hiện những đặc trưng nhất định của tư tưởng phân chia quyền cứng rắn như trên.

Hoa Kì là một nhà nước Liên bang theo chính thể cộng hòa tổng thống mà trong bộ máy nhà nước có sự phân chia quyền lực rạch ròi và điển hình nhất từ năm 1789 cho đến nay. Nguyên tắc phân quyền từ khi xuất hiện trên đất Hoa Kì đã trải qua nhiều thời kì phát triển lâu dài và phức tạp nhưng nó vẫn là cơ sở vững chắc để các chính trị gia xây dựng nên một bộ máy nhà nước hùng mạnh. Theo đúng tinh thần “quyền lực ngăn cản quyền lực” của C.L.Montesquieu thì quyền lập pháp thuộc về nghị viện; nghị viện bao gồm Thượng viện và Hạ viện. Chức năng chủ yếu của nghị viện là sử dụng quyền lực của mình để làm nên các đạo luật cần thiết và phù hợp với quy định của Hiến pháp. Chủ thể nắm giữ quyền hành pháp là tổng thống do nhân dân bầu ra không phụ thuộc vào tuyển cử viên. Tổng thống đứng đầu bộ máy nhà nước, hoàn toàn độc lập với nghị viện. Tuy nhiên giữa tổng thống và nghị viện vẫn có sự thỏa thuận, trao đổi, thương thuyết và chịu trách nhiệm với nhau. Vừa thể hiện sự hợp tác vừa thể hiện sự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp; giảm bớt sự cứng rắn và tạo ra sự nhịp nhàng cho bộ máy nhà nước. Chủ thể của quyền tư pháp là tòa án tối cao và các tòa án cấp dưới do nghị viện thành lập. Với tư cách là cơ quan thực thi pháp luật, được pháp luật trao cho quyền năng hoàn toàn độc lập nhằm tạo thế “kiềng ba chân” trong phân chia quyền lực nhà nước, độc lập với lập pháp và hành pháp trong hoạt động. Đồng thời còn độc lập với dân chúng vì cơ quan tư pháp không do dân bầu ra, không chịu trách nhiệm trước nhân dân. Tuy nhiên, tòa án cũng có quyền khởi tố các vụ việc lạm quyền, tham nhũng của các quan chức cấp cao trong nghị viện và cả tổng thống. Hiến pháp của Hoa Kì còn quy định những điều khoản hạn chế quyền lập pháp của nghị viện mà chỉ có tòa án mới có thể bảo đảm thực hiện. Nhưng nhìn chung cách thức tổ chức của ba cơ quan này có sự độc lập với nhau. Bất cứ quyết định nào theo đúng tinh thần của Hiến pháp thì dù là quyết định của hành pháp hay tư pháp đều phải có hiệu lực như lập pháp. Đặc biệt sự độc lập này còn đảm bảo cả trong việc không có nhân viên chung giữa các ngành (trừ phó tổng thống). Tuy có sự kiềm chế, đối trọng nhưng giữa ba nhánh quyền lực vẫn gắn bó, quan hệ mật thiết với nhau, có sự hợp tác và uốn mềm trong phân quyền. Bởi các cơ quan nhà nước thường xâm nhập vào nhau, khó có thể phân định tuyệt đối.

b. Áp dụng ở mức độ mềm dẻo trong nhà nước theo chính thể đại nghị.

Nhà nước có chính thể đại nghị bao gồm quân chủ đại nghị và cộng hòa đại nghị là nơi mà tư tưởng phân chia quyền lực được áp dụng một cách mềm dẻo. Điều đó thể hiện ở chỗ hành pháp không hoàn toàn độc lập mà có mối quan hệ mật thiết, thường xuyên với lập pháp do sự chịu trách nhiệm trước tư pháp và sự chung thành viên giữa hai cơ quan này. Sự áp dụng mềm dẻo này thể hiện ở chỗ các nguyên thủ quốc gia chỉ là hành pháp tượng trưng vì bộ máy hành pháp trực thuộc thủ tướng và chỉ có thủ tướng mới chịu trách nhiệm trước lập pháp. Tư pháp độc lập với hành pháp trong hoạt động nhưng không hoàn toàn độc lập trong tổ chức, hoạt động với lập pháp. Điều này thể hiện rất rõ trong bộ máy nhà nước các nước Anh, Thụy Điển, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Bỉ, Thái Lan…

Xét đến các nước có chính thể đại nghị thực hiện và áp dụng tư tưởng phân quyền ở mức độ mềm dẻo phải kể đến Anh - nước đầu tiên trong thế kỉ XVII thể hiện tư tưởng phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước. Mô hình nhà nước Anh chính là mô hình nhà nước điển hình và đặc sắc của chế độ phân quyền mềm dẻo, chế độ không có sự phân quyền hoàn toàn mà có sự phân chia, liên hệ thường xuyên giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lực nhà nước có sự phân định thành các quyền lập pháp thuộc về nghị viện, hành pháp thuộc về chính phủ nhưng do thủ tướng nắm giữ chứ không thuộc về tổng thống hay vua (hoặc vương tôn, quý tộc); và quyền tư pháp thuộc về tòa án, một phần thuộc về nghị viện. Trong bộ máy nhà nước, chỉ có cơ quan tư pháp và hành pháp là tương đối độc lập với nhau còn cơ quan lập pháp và hành pháp thì không hoàn toàn độc lập mà có sự hợp tác, đan xen, hòa nhập và tác động lẫn nhau. Cơ quan lập pháp có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm và lật đổ cơ quan hành pháp và ngược lại, cơ quan hành pháp có thể giải tán cơ quan lập pháp trước thời hạn. Phần lớn các dự án luật được đệ trình từ chính phủ, quốc hội chỉ cần thông qua, kiểm soát và sẵn sang thay đổi cho phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Đặc biệt hai cơ quan này có thể có chung quan chức với nhau. Song sự phân chia quyền lực, phạm vi quyền hạn và mối quan hệ giữa ba cơ quan trên không cố định mà có sự thay đổi theo xu hướng chuyển dần quyền lực từ cơ quan này sang cơ quan kia.

c. Phối hợp giữa hai cách áp dụng trên trong chính thể cộng hòa hỗn hợp hay lưỡng tính.

Chính thể cộng hòa lưỡng tính là sự kết hợp các yếu tố của chính thể cộng hòa nghị viện và cộng hòa tổng thống. Có cách áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước cứng rắn ở quan hệ này, mềm dẻo ở quan hệ khác. Hiện nay có nhiều nước như Pháp, Nga, Singapo, Phần Lan, Bồ Đào Nha, Ireland…vẫn đang áp dụng kiểu phân chia quyền lực nhà nước như trên. Các hình thức chính thể trên mang đặc trưng chung nhất của chính thể cộng hòa nghị viện và cộng hòa tổng thống như chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh quyền lực là lập pháp – nghị viện, hành pháp – chính phủ và tư pháp – tòa án; vừa có sự đối trọng lại vừa mềm dẻo trong quan hệ. Tuy nhiên không đánh mất đi đặc điểm riêng biệt trong áp dụng tư tưởng phân quyền hỗn hợp.

Pháp và Liên bang Nga là hai nhà nước điển hình cho kiểu áp dụng trên. Tổng thống do nhân dân bầu ra, không dựa trên cơ sở của Nghị viện, giống như hình thức chính thể tổng thống. Nhưng tổng thống lại chỉ nắm giữ vai trò là người đứng đầu chính phủ; làm trọng tài, điều hòa ba nhánh quyền lực và điều hành các cơ quan nhà nước. Tổng thống có quyền bổ nhiệm thủ tướng, thủ tướng mới là người nắm giữ quyền hành pháp trong tay, thực hiện những đề nghị của tổng thống giống như trong hình thức chính thể đại nghị. Tuy nhiên tổng thống cũng có thể chủ tọa các phiên tòa, các phiên họp hội đồng bộ trưởng, bổ nhiệm thẩm phán, có quyền yêu cầu nghị viện thảo luận lại các dự luật đã được thông qua và có quyền giải tán nghị viện. Chính phủ vừa chịu trách nhiệm trước tổng thống vừa chịu trách nhiệm trước nghị viện. Điều này cho thấy quyền hành pháp và lập pháp được san sẻ giữa hai cơ quan lớn nhất trong nhà nước, tư tưởng phân chia quyền lực vừa mềm dẻo vừa cứng rắn. Về tư pháp, nhìn chung trong mọi hình thức chính thể đều tương đối độc lập nhưng trong hình thức cộng hòa lưỡng tính, cơ quan tư pháp vừa dưới sự chỉ đạo trực tiếp của tổng thống vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp.
 
Bài làm 3

A .ĐẶT VẤN ĐỀ


Lịch sử loài người từ khi xuất hiện cho đến nay đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và phức tạp ,nó đã trải qua 5 hình thái kinh tế-xã hội kéo theo đó là 4 kiểu nhà nước trong lịch sử ,quá trình phát triển mỗi nhà nước có cách thức tổ chức, thực hiện quyền lực riêng, theo quy luật phát triển kiểu nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ hơn kiểu nhà nước trước đó,2 kiểu nhà nước chủ nô và phong kiến có cách tổ chức tập trung chuyên chế ,mọi quyền lực nhà nước tập trung vào trong tay một người điều đó sinh ra sự độc đoán ,chuyên quyền và nhân dân không có tự do,dân chủ,kiểu nhà nước tư sản là kiểu nhà nước thứ 3 trong lịch sử mà ở đó tự do dân chủ được mở rộng hơn,bộ máy nhà nước được tổ chức một cách hợp lý hơn,đó là việc vân dụng tư tuởng phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,vậy sự vận dụng đó như thế nào trong một số nước tư sản ?.

B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1.Nguyên nhân ra đời của học thuyết.
Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào trong tay một cá nhân, đây là căn nguyên cho mọi hành vi độc tài, chuyên chế vì nhà nước là một bộ máy hết sức phức tạp thường phải do nhiều người đảm nhiệm ,do bản tính của con người luôn muốn hơn người khác, muốn chỉ đạo người khác mà quyền lực nhà nước là công cụ có hiệu quả nhất để thực hiện điều đó ,bởi vậy trong quá trình phát triển của mình con người đã không ngừng tìm mọi cách để hạn chế quyền lực nhà nứơc và đã xây dựng nên học thuyết pháp luật - chính trị (thuyết "phân quyền") của giai cấp tư sản hay còn có cách gọi khác là thuyết "tam quyền phân lập").Tư tưởng "Tam quyền phân lập" được các nhà triết học đề xướng từ thời La Mã cổ đại với đại diện tiêu biểu là Arixtôt, được phát triển bởi locke và trở thành một học thuyết độc lập vào thế kỉ 18, gắn với tên tuổi của Môngtexkiơ, nhà tư tưởng Pháp.
2.Nội dung của học thuyết:
Học thuyết về sự phân chia quyền lực đóng vai trò quyết định trong lịch sử đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của nhà vua. Nguyên tắc "phân chia quyền lực" là một trong những nguyên tắc chính của chủ nghĩa lập hiến tư sản,được thể hiện trong các đạo luật mang tính hiến định của Cách mạng Pháp và sau đó thể hiện đầy đủ trong Hiến pháp Hoa Kì (1787).Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Môngtexkiơ khẳng định: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên Lão, thì sẽ không có gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”.Môngtetxkiơ tiếp thu và phát triển tư tưởng về thể chế chính trị tự do, chống chuyên chế và xây dựng học thuyết phân quyền .Tư tưởng phân quyền của ông là đối thủ đáng sợ của chủ nghĩa chuyên chế phong kiến và có thể khẳng định ông là người đã phát triển và hoàn thiện thuyết:”tam quyền phân lập”.
Tiếp nối Môngtexkiơ, Rousseau cùng với tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội,” đã đưa ra những quan điểm rất mới mẻ về sự phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.Ông chủ trương nêu cao tinh thần tập quyền, tất cả quyền lực nhà nước nằm trong tay cơ quan quyền lực tối cao tức toàn thể công dân trong xã hội .Cách phân quyền của Rousseau không giống với Locke và Môngtexkiơ , bởi ông luôn khẳng định một điều duy nhất rằng: “những bộ phận quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào quyền lực tối cao” và “mỗi bộ phận chỉ thực hiện ý chí tối cao đó” mà thôi.
2.1.Theo thuyết phân chia quyền lực thì quyền lực nhà nước đựơc phân thành hai chiều đó là theo chiều ngang và theo chiều dọc.
2.1.1 Phân quyền ngang : Đây là cách thức phân quyền cổ điển mà mầm mống là của Arixtôt, được hoàn thiện bởi Locke ,Môngtexkiơ, và J. Rousseau. theo đó : Quyền lực nhà nước được phân chia thành 3 cơ quan : lập pháp (bao gồm 2 viện là thượng viện và hạ viện do nhân dân bầu ra) ,hành pháp(chính phủ là cơ quan chấp hành) và tư pháp(toà án là cơ quan xét xử). Hoạt động của các cơ quan quyền lực này có sự chuyên môn hóa, mỗi cơ quan chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không làm ảnh hưởng tới hoạt động của các cơ quan khác, nhiệm kỳ hoạt động của mỗi quyền cũng phải đựơc quy định cụ thể bởi vì nếu nghị viện (quốc hội) có quyền tự kết thúc nhiệm kỳ của mình thì chẳng bao giờ nó tự kết thúc,nhất là trong trường hợp nó muốn công kích cơ quan hành pháp,như vậy sẽ rất nguy hiểm.
Nguyên tắc kìm chế, đối trọng được áp dụng để tránh tình trạng độc tài theo đó quyền hành pháp phải có khả năng ngăn chặn quyền lập pháp bởi vì:"nếu hành pháp không thể ngăn chặn được những kế hoạch của cơ quan lập pháp,cơ quan này sẽ trở nên độc tài bởi vì cơ quan đó sẽ tự ban cho mình tất cả quyền hành mà cơ quan ấy có thể quan niệm được và sẽ tiêu diệt tất cá các quyền khác", quyền hành pháp luôn được sử dụng để giải quyết những việc nhất thời do đó để đảm bảo tự do thì nhà vua (nguyên thủ) không thể tham gia vào quyền lập pháp nhưng hành pháp với năng quyền quy định vận dụng chức năng ngăn cản để tham gia vào việc lập pháp , không thể tham gia bàn cãi các công việc nhưng lại tham gia với năng lực ngăn cản ( khiến cho quyết định của người khác vô hiệu) ,đối với nhánh quyền tư pháp cũng phải có khả năng kiểm tra giám sát việc thi hành pháp luật của hệ thống lập pháp và hành pháp tức đối với việc ban hành các văn bản pháp luật,hệ thống các cơ quan tư pháp hoạt động một cách độc lập không chịu sự giàng buộc của cơ quan lập pháp và hành pháp ,do đó quyền lực giữa các cơ quan là cân bằng, không có loại quyền lực nào vượt trội hơn nó giám sát, kiềm chế, đối trọng và chế ước lẫn nhau, để không có một cơ quan nào có khả năng lạm quyền. Trong nội bộ 3 quyền này cũng được phân chia để kìm chế đối trọng lẫn nhau .
2.1.2 .Phân quyền dọc: Ở sự phân quyền này mà quyền lực nhà nước trung ương bị hạn chế: Nội dung chủ yếu của tư tưởng phân quyền dọc như sau:
- Tồn tại cơ quan nhà nước ở địa phương song song với cơ quan nhà nước ở trung ương.
- Có sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong những lĩnh vực cụ thể .
Phân quyền dọc được thực hiện theo hai phương pháp.
+Phân quyền theo lãnh thổ.
+ Phân quyền theo chuyên môn.
Vận dụng tư tưởng này, hiện nay Hiến pháp của các nhà nước tư sản đều khẳng định nguyên tắc này là một nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức quyền lực nhà nước,nó trở thành nguyên tắc hiến định trong hiến pháp Hoa Kỳ,Pháp,Nga...Ở một số quốc gia tuy không ghi nhận nguyên tắc này trong hiến pháp nhưng việc tổ chức bộ và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng dựa trên nguyên tắc này.
3. Sự vận dụng học thuyết phân chia quyền lực ở một số nước tư sản trên thế giới.
Trên thế giơi hiện nay có 3 cách áp dụng việc phân chia quyền lực đó là:
- Phân quyền cứng rắn trong chính thể cộng hòa tổng thống như: Hoa Kỳ, Philipine,...
- Phân quyền mềm dẻo trong chính thể đại nghị (cộng hoà và quân chủ) như:Anh, Nhật,...
- Phân quyền trong chính thể cộng hòa hỗn hợp như ở các nước Pháp, Nga.
3.1. Phân quyền cứng rắn : Hoa Kỳ là một nước áp dụng tương đối triệt để tư tưởng phân quyền. Thomas Jefferson – tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ đã viết:" sự tập trung quyền lực vào trong tay một người hoặc chỉ một lực lượng là một định nghĩa chính xác về một chính quyền chuyên chế ,độc đoán...chính quyền mà chúng ta đấu tranh để có được là chính quyền không chỉ có nền tảng là nguyên tắc tự do mà còn là một chính quyền trong đó các quyền lực của nó được phân chia và cân bằng giữa các thẩm quyền với nhau...vì lý do này...các bộ máy lập pháp,hành pháp,tư pháp phải hoạt động và có chức năng riêng rẽ sao cho không ai có thể cùng một lúc sử dụng các quyền lực của hai bộ máy trở lên". theo đó bộ máy nhà nước Hoa Kỳ được chia thành 3 bộ phận đó là lập pháp ,hành pháp và tư pháp.
3.1.1 .Nghị viện-lập pháp : Hiến Pháp Hoa Kỳ quy định quyền lập pháp thuộc về nghị viện ,bao gồm thượng nghị viện và hạ nghị viện do nhân dân trực tiếp bầu ra (điều 1 Hiến pháp Hoa Kỳ), thẩm quyền lập pháp của 2 viện gần như ngang nhau, cả 2 đều có thể nêu sáng kiến lập pháp, 1 đạo luật chỉ được coi là thông qua nếu có đủ số phiếu thuận của cả 2 viện , nghị viện Hoa Kỳ có quyền hạn rất lớn như có thể ban hành luật, các văn bản dưới luật,có quyền thông qua việc chi tiêu ngân sách nhà nước,quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước như :quốc phòng,an ninh,kinh tế,văn hoá, giáo dục...
3.1.2 .Tổng thống-chính phủ-hành pháp: Tổng thống Hoa Kỳ do nhân dân gián tiếp bầu ra có nhiệm kỳ là 4 năm và không thể hơn 2 lần giữ cương vị tổng thống.Tổng thống có quyền hạn rất lớn cụ thể như : TT là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và chịu trách nhiệm cao nhất về quốc phòng của đất nước trong lĩnh vực tư pháp ,TT cũng đảm nhiệm 1 chức năng tuyệt đối là có quyền hành pháp, TT vừa đứng đầu nhà nước vừa đứng đầu bộ máy hành pháp(chính phủ) ,vừa thực hiện chức năng của nguyên thủ quốc gia, vừa thực hiện chức năng của thủ tướng chính phủ, lại gần như độc lập với NV, nên có quyền hành rất lớn, và thực sự là trung tâm quyền lực của bộ máy nhà nước.TT thành lập chính phủ ,các bộ trưởng chỉ là người giúp việc cho TT, thực hiện các chính sách của TT, và không được mâu thuẫn với đường lối chính sách của tổng TT, ngoài ra ta có thể thấy TT Hoa Kỳ thực hiện mọi nhiệm vụ quyền hành một cách độc lập, Cũng độc lập với các thành viên khác của chính phủ nhờ quyền hoàn toàn quyết định các chính sách của chính phủ không cần qua nội các và hoàn toàn nắm quyền điều hành và quản lý mọi lĩnh vực của đất nước.
3.1.3. Toà án-Tư pháp: Điều 2 hiến pháp Hoa kỳ quy định "quyền tư pháp của Mỹ được trao cho toà án tối cao và đôi khi quốc hội có thể yêu cầu và thiết lập toà án ở cấp thấp hơn", hệ thống tòa án Hoa Kỳ được pháp luật trao cho những quyền năng hoàn toàn độc lập để giữ thế “kiềng 3 chân” trong việc thực hiện quyền lực nhà nước,các thẩm phán Hoa Kỳ hoạt động một cách vô tư,nghiêm chỉnh chỉ tuân theo pháp luật,vì vậy những nhà lập hiến Hoa Kỳ đã tìm ra các phương pháp để trợ đỡ cho nhánh quyền lực này "nhiệm kỳ thường trực (tức là thường xuyên cho đến hết đời) của các vị chánh án là yếu tố quan trọng nhất vì chúng ta có thể coi yếu tố đó là một thành trì để bảo vệ công lý và an ninh cho công chúng" .Toà án Hoa Kỳ có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát sự vận hành của quyền lực nhà nước trong khuôn khổ của hiến pháp và chỉ tuân theo pháp luật.
Việc phân chia quyền lực ở Hoa Kỳ không phải đơn giản ở việc phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước mà còn tiến tới một cơ chế kìm chế ,đối trọng, nó là một tư tưởng xuyên suốt quá trình lập hiến ở Hoa Kỳ.Vấn đề này Hamintơn viết :"những nguyên tắc giúp chúng ta nhận thấy cần phải phân định các ngành quyền,lại cũng giúp cho chúng ta nhận thấy phải làm thế nào để các ngành quyền hoàn toàn độc lập với nhau ,phân biệt ngành hành pháp và tư pháp khỏi lập pháp làm gì nếu trong khi đã được phân định rồi mà ngành hành pháp và tư pháp vẫn phụ thục vào lập pháp? nếu đã được phân định rồi mà hãy còn sự phụ thuộc thì sự phân định đó chỉ là tượng trưng mà không thể nào thực hiện được mục tiêu của sự phân định đó,ngành hành pháp và tư pháp cần phải tuân theo các đạo luật,nhưng không phải có nghĩa là phải chiều theo ý muốn của cơ quan lập pháp,nếu như ngành này vẫn phải phụ thuộc vào ngành nọ thì tức là đi ngược lại nguyên tắc căn bản của một chính phủ tốt, tức là đã có Hiến Pháp nhưng tất cả các ngành quyền vẫn tập trung vào trong tay một cơ quan" .NV Hoa Kỳ có quyền hạn rất lớn trong việc thực thi quyền lực nhà nước,mặc dù Hiến pháp quy đinh tổng thống có quyền bổ nhiệm các quan chức cao cấp của nhà nước liên bang từ hàm cấp bộ trưởng cho đến thẩm phán của toà án tối cao,cũng như đại sứ ở các nước nhưng những người được bổ nhiệm phải có sự phê chuẩn của thượng viện (điều 2,khoản 2 hiến pháp Hoa Kỳ).TT có quyền phủ quyết các đạo luật mà nghị viện thông qua ,Điều 1 hiến pháp Hoa Kỳ quy định :"tất cả các dự án luật đã được thượng viện và hạ viện thông qua phải để trình lên tổng thống hợp chủng quốc nếu tổng thống tán thành dự luật tổng thống sẽ ký vào dự luật đó nếu không ông sẽ gửi trả lại và với lời bác cho viện đã khởi xướng dự án luật đó...nếu sau khi đã xem xét lại dự án này được 2/3 của viện tán thành thì dự án luật sẽ được chuyển đạt cùng với các điều bác luận của tổng thống tới viện thứ 2 và nếu 2/3 của viện này cũng tán thành thì dự án luật mới trở thành luật...những mệnh lệnh ,quyết định hoặc biểu quyết cần phải có sự chấp nhận của thượng viện và hạ viện sẽ được trinh lên tổng thống và trước khi có hiệu lực phải được tổng thống chấp thuận hoặc nếu bị tổng thống không chấp thuận cần phải có sự chấp thuận lần thứ 2 của thượng viện và hạ viện với đa số 2/3 của mỗi viện" .Việc phân chia quyền lực trong Hiến pháp Hoa Kỳ không chỉ đơn giản chỉ được thể hiện thông qua việc phân chia rạch ròi giữa các vấn đề thuộc về chức năng mà còn phân định về mặt nhân viên,theo Hiến pháp thì những người nghị sỹ không được kiêm nhiệm các chức sắc trong bộ máy hành pháp vì vậy người muốn làm bộ trưởng thì phải nghỉ chức nghị sỹ hoặc ngược lại (điều 2,khoản 6). Toà án Hoa Kỳ có thẩm quyền bảo hiến, tức là có thẩm quyền xét xử về giá trị pháp lý của một đạo luật do NV ban hành khi đương sự khiếu nại với toà án rằng quyền của mình bị đạo luật đó vi phạm ,có đây chính là sự thể hiện việc thực hiện nguyên tắc kìm chế của toà án, quyền tư pháp phải hoàn toàn tự do để tuân theo hay tôn trọng Hiến pháp.Theo cơ chế đối trọng TT Hoa Kỳ cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình (tiêu biểu như vụ níchxơn) ,nếu TT bị xét xử thì chánh án tòa án tối cao sẽ chủ tọa, các vụ án ấy phải do hạ viện khởi tố và thượng viện xét xử, đây gọi là thủ tục “đàn hạch”.
Ngoài sự phân quyền theo chiều ngang, ở Mỹ còn thể hiện rõ sự phân quyền theo chiều dọc, giữa nhà nước liên bang và các bang thành viên, giữ trung ương và địa phương trong việc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước.Theo đó nhà nước liên bang sẽ quyết định các vấn đề quan trọng của nhà nước về đối nội cũng như đối ngoại như các vấn đề về chiến tranh,ngân sách nhà nước,các chính sách kinh tế...của toàn nhà nước liên bang,còn các bang thành viên chỉ có thẩm quyền quyết định các vấn đề về kinh tế,văn hoá,giáo dục... thuộc thẩm quyền của bang mình, nhà nước liên bang không được can thiệp vào cong việc nội bộ của các nhà nước thành viên. Có thể nói Hoa Kỳ là một quốc gia áp dụng một cách sâu sắc nhất nguyên tăc phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước của mình ,nó tạo nên một Hoa Kỳ đặc sắc.
3.2. Phân quyền mềm dẻo: nổi bật ở đây là trong nhà nước có chính thể thể đại nghị (cả chính thể cộng hoà và chính thể quân chủ) như ở Anh ,Nhật,...điển hình ở đây là Anh.
3.2.1 .Nguyên thủ quốc gia ( Nữ hoàng) :Nữ hoàng của nước Anh có rất nhiều quyền hạn như phê chuẩn các đạo luật,bổ nhiệm công chức,triệu tập nghị viện,khai mạc kỳ họp quốc hội,giải tán nghị viện...song trên thực tế hoạt động của nữ hoàng Anh hiện tại chỉ nhằm mục đích chính thức hoá về mặt nhà nước các hoạt động của NV và chính phủ :chẳng hạn nữ hoàng có thể bổ nhiệm thủ tướng song cũng không thể bổ nhiệm ai khác ngoài thủ lĩmh của đảng chiếm đa số trong NV,về mặt lý thuyết nữ hoàng có thể từ chối phê chuẩn hoặc ban hành các đạo luật mà nghị viện đã thông qua nhưng trên thực tế nữ hoàng Anh chưa thực hiện việc đó bao giờ,có thể nói việc phân chia quyền lực giữa nữ hoàng và các cơ quan nhà nước ở Anh chỉ mang tính hình thức nó không được thực hiện triệt để.
3.2.2. Nghị viện-lập pháp :Trung tâm quyền lực tập trung ở Hạ viện (do nhân dân bầu nên), thượng viện hoạt động của nó rất hình thức,vai trò của nó bị lu mờ trước hạ viện,Hạ viện do dân chúng bầu ra nên được gọi là quốc hội của nước Anh,về danh nghĩa thượng nghị viện là thế lực kìm chế và đối trọng nó góp phần làm cho Hạ viện phải xem xét kỹ lưỡng các chính sách của mình song thực tế nhiều khi thượng nghị viện chỉ đóng vai trò bổ sung tư vấn cho hạ nghị viện chứ không có tính đối lập , có thể thấy việc phân chia quyền lực trong nội bộ NV Anh cũng không được rạch ròi,cụ thể như trong chính thể cộng hoà TT Hoa Kỳ,ở Anh hạ viện có quyền lực rất lớn nếu hạ viện không tín nhiệm chính phủ thì chính phủ sẽ bị lật đổ.Hạ viện tổ chức ra chính phủ kiểm soát mọi hoạt động của chính phủ, nghị viện có quyền giám sát hoạt động của bộ máy hành pháp,chính phủ phải chịu trách nhiệm chính trị liên đới trước nghị viện,bộ máy hành pháp phải chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp do đó chính phủ vẫn còn tiếp tục hoạt động nếu như còn sự tín nhiệm của quốc hội, Ngoài ra để giám sát hoạt động của chính phủ,NV có thể chất vấn chính phủ,để kiểm soát hoạt động của chính phủ, pháp luật Anh Quốc quy định bộ trưởng Anh nhất thiết phải là thượng nghị sỹ hoặc hạ nghị sỹ.
3.2.3.Chính phủ-hành pháp: quyền lực trong lĩnh vực lập pháp ,lập quy của chính phủ Anh là rất lớn ,chính phủ có quyền nêu sáng kiến luật,trình dự án luật,dự án ngân sách ra trước quốc hội,có quyền thảo luận và thông qua luật,đồng thời có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để triển khai các văn bản mà NV thông qua,chính phủ được thành lập trên cơ sở của hạ viện nguời đứng đầu chính phủ là thủ tướng đồng thời là thủ lĩnh của đảng chiếm đa số trong hạ việncó quyền hạn rất lớn gần như quyết định mọi vấn đề quan trọng của đất nước,mọi quyết định của thủ tướng và bộ máy hành pháp được coi là đường lối hoạt động của bộ máy nhà nước,chính phủ có quyền yêu cầu giải tán NV ,tuy nhiên điều này ít khi xảy ra bởi vì nòng cốt của chính phủ là nghị viện (hạ viện) nên chính phủ có thể chi phối mọi hoạt động của NV,việc giải tán NV chẳng qua chỉ là sự kéo dài khả năng nắm giữ quyền lực của chính phủ,chính phủ có quyền hạn rất lớn trong việc thực hiện các vấn đề đối nội cũng như đối ngoại là trung tâm của cả hệ thống chính trị,
3.2.4. Toà án-tư pháp:Các thẩm phán của toà án tối cao Vương quốc cũng do Nữ hoàng bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng. Chủ tịch và Phó Chủ tịch của Toà án Tối cao là các vị lớn tuổi nhất.
Sự độc lập của các Thẩm phán thường gắn liền với điều lệ tuyển dụng. Các tòa án trong Vương quốc Anh được chia thành hai loại: Các toà án cấp dưới ở các địa phương và các tòa án cao cấp trên toàn Vương quốc.Các thẩm phán ở các toà án địa phương nhiệm với các kỳ hạn nhất định đều có thể bị thải hồi sau kỳ hạn đã định. Các thẩm phán trong các Tòa án cao cấp đều được Nhà Vua bổ nhiệm, theo đề nghị của Bộ trưởng Tư pháp, gần như không thể bị thải hồi, chỉ có thể bị Nhà Vua bãi chức, theo đề nghị của Hạ và Thượng viện .Để bảo đảm thêm sự độc lập, Luật 1981 cũng bảo đảm lương bổng của các thẩm phán toà án cao cấp không thể bị suy giảm hàng năm và trích từ một ngân khoản đặc biệt các thẩm phán không thể bị truy tố trong lúc hành xử chức năng và trong giới hạn thuộc về thẩm quyền của mình. Các thẩm phán của các toà án cao cấp (ngoại trừ Toà án tối cao) khi hành xử chức năng và vượt quá thẩm quyền của mình chỉ bi truy tố khi hành động một càch bất lương, trái với lương tâm của mình.Với nguyên tắc dùng các Án lệ như là một nguồn của luật, một phần quan trọng của các luật hiện hành thường là sản phẩm của các thẩm phán, càng làm gia tăng uy tín và tính độc lập của các thẩm phán. Trong khi Nghị viện nắm giữ chủ quyền về lập pháp thì các thẩm phán cũng có chức năng giải thích các luật và xác định tính độc lập của mình đối với lập pháp bằng cách giải thích các Văn bản luật trong một chiều hướng khác với chủ ý của các người làm luật. Các thẩm phán không được phép căn cứ trên các bản tường trình của các Uỷ ban ở Nghị viện để tìm kiếm chủ đích của người làm luật. Tuy nhiên, tính độc lập này cũng có giới hạn vì Nghị viện vẫn nắm giữ toàn quyền về lập pháp. Các Thẩm phán không có quyền tuyên bố tính cách Bất Hợp Hiến của các luật, buộc phải áp dụng các luật mới nhất được Nghị viện thông qua.
3.3. Phân quyền trong chính thể cộng hòa hỗn hợp: Ở Pháp, Quyền hành pháp do chính phủ mà thực chất là tổng thống nắm. Vị trí của TT hiện tại là mô hình kết hợp giữa vị trí của tổng thống Mỹ và tổng thống Đức. TT do nhân dân bầu ra đứng đầu nhà nước thay mặt nhà nước trong các vấn đề đối nội cũng như đối ngoại ,TT có quyền hoạch định chính sách quốc gia, chủ tọa hội đồng bộ trưởng , có quyền ân xá, bổ nhiệm thủ tướng, các đại sứ, các chức vụ dân sự,thủ tướng do nghị viện bầu ra đứng đầu chính phủ,bộ máy hành pháp của nhà nước, chính phủ được thành lập trên cơ sở của đảng chiếm đa số trong NV hoặc liên minh các đảng chiếm ưu thế trong NV, Quyền tư pháp do tòa án nắm, ở Pháp có 2 hệ thống tòa án, tòa án thường và tòa án hành chính, cùng với đó còn có các tòa án đặc biệt như tòa án thương mại, lao động, bảo hiểm xã hội, kiểm soát hoạt động cơ quan tư pháp là hội đồng thẩm phán tối cao do TT là chủ tọa. Bộ trưởng bộ tư pháp là phó chủ tịch.Có thể nói sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước pháp là không triệt để,chúng vẫn có sự liên kết chi phối lẫn nhau chúng vẫn có sự phối kết hợp với nhau trong việc thực hiện chức năng ,nhiệm vụ của mình ,chính phủ phải chịu trách nhiệm trước NV ,trong trường hợp không được được tín nhiệm của NV chính phủ phải ra di để NV lập ra một chính phủ mới, trong trường hợp không lập được chính phủ mới thì NV phải bị giải tán, Hiến pháp 1958 đang hiện hành của Pháp quy định "khi quốc hội không chấp thuận chương trình tổng quát về chính sách của chính phủ, thủ tướng phải đệ đơn xin tổng thống từ chức”chế định này được gọi là chế định bất tín nhiệm chính phủ , tuy nhiên chế định bất tín nhiệm chính phủ được kiềm chế bằng chế định giải tán quốc hội, theo các nhà lập hiến tư sản nếu cứ để quốc hội có quyền lật đổ chính phủ mà không có sự chế ngự nào khác thì sẽ sinh ra một thứ độc tài mới,độc tài quốc hội ,mà hậu quả của nó cũng giống như hậu quả của việc độc tài cá nhân trong xã hội phong kiến trước kia, để giải quyết vấn đề này hiến pháp một số nước định :quốc hội có thể bị nguyên thủ quốc gia với tư cách là người đứng đầu nhà nước giải tán theo đề nghị của thủ tướng ,TT có thể giải tán hạ viện (nếu nghị viện có 2 viện) hoặc nghị viện (nếu nghị viện có 1 viện) ngược lại NV cũng có thể bỏ phiếu không tín nhiệm chính phủ,buộc TT phải giải tán chính phủ để thành lập chính phủ mới , Cùng với TT và chính phủ, hội đồng bảo hiến trở thành thế lực thứ 3 hạn chế quyền lực của NV. hội đồng bảo hiến có chức năng đảm bảo tính hợp pháp của việc bầu cử nghị sĩ 2 viện khi có sự khiếu nại, vai trò kiềm chế lập pháp của hội đồng bảo hiến phần nào giống với vai trò của tòa án tối cao ở Hoa Kỳ.
4. Sự vân dụng học thuyết phân chia quyền lực của một số nhà nước tư sản trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay tổ chức và hoạt động trong bộ máy nhà nước của một số nước trên thế giới có sự áp dụng học thuyết phân chia quyền lực ở những mức độ khác nhau,cùng với những thành tựu của khoa học kỹ thuật,những tiến bộ vượt bậc của xã hội loài người nhất là trong các nước tư sản nên việc vận dụng học thuyết này có nhiều biến đổi với xu thế tập trung quyền lực,biểu hiện của nó là quyền lực nhà nước ngày càng tập trung vào một thiểu số trong bộ máy ấy nhằm tránh sự lằng nhằng ,chồng chéo trong các hoạt động của cơ quan nhà nước,cùng với sự phát triển ngày càng nhanh của khoa học kỹ thuật đòi hỏi phải có những quyết sách nhanh nhạy trong việc nắm bắt và giải quyết vấn đề,hiện nay việc phân chia quyền lực ở Hoa Kỳ vẫn có sự nhượng bộ giữa tổng thống -hành pháp và nghị viện -lập pháp,nó thể hiện ở chỗ do nhiệm kỳ của tổng thống và nghị viện tương đối ngắn nên họ phải bắt tay nhau chung sống hoà bình để lãnh đạo đất nước,bởi vì tổng thống -hành pháp không thể hoạt động được nếu không có thuế (lĩnh vực này nghị viện nắm giữ),quyền lực nhà nước bao giờ cũng là một thực thể hoàn chỉnh chúng không thể chia cắt và tách dời nhau như cách quy định trong Hiến pháp mặc dù không được hiến pháp quy định có quyền sáng kiến ra luật nhưng tổng thống Mỹ can thiệp rất sâu vào quá trình lập pháp của quốc hội Mỹ ,thứ nhất:bằng quyền đọc thông điệp trước quốc hội Mỹ TT vạch ra chương trình làm luật hàng năm của quốc hội,thứ hai: thông qua các cuộc trao đổi thường xuyên với các đảng viên nghị sỹ thuộc đảng của mình mà TT yêu cầu họ phải trình dự án luật theo ý của tổng thống trước quốc hội từ thực tế này mà dẫn đến việc gọi chế độ tổng thống Mỹ là chế độ "đại nghị ở hành lang".Trong một số nhà nước theo chính thể đại nghị (quân chủ và cộng hoà) và trong chính thể cộng hoà hỗn hợp việc áp dụng học thuết này cũng không được triệt để,vẫn có sự liên kết,sự đan xen quyền lực,thâu tóm quyền lực giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,trong các nhà nước này xu thế chủ yếu là thủ lĩnh của đảng chiếm đa số trong nghị sẽ là người lãnh đạo toàn bộ đất nước có vai trò quyết định đường lối chính sách của quốc gia.

C KẾT THÚC VẤN ĐỀ.

Tóm lại,việc vận dụng học thuyết phân chia quyền lực trong việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thể hiện sự tiến bộ của nhà nước tư sản trong việc thực hiện tự do dân chủ ,nó đánh dấu sự sụp đổ của chế độ chuyên chế và mở ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của loài người,thời đại công bằng,dân chủ và tiến bộ xã hội.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top