TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - TU TUONG HO CHI MINH VE CHU NGHIA XA HOI
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng phát triển sáng tạo của Đảng ta vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay
Trương Tấn Sang
Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng.
1.Từ giữa thế kỷ XIX, đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị, nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh nô lệ lầm than, “một cổ hai tròng”, bị bọn đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột. Nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp trong phong trào Cần Vương do các sĩ phu yêu nuớc lãnh đạo đã nổ ra (khởi nghĩa Hương Sơn của Phan Đình Phùng, khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám v.v..), nhưng tất cả đều bị đàn áp đẫm máu. Tiếp đến là các phong trào yêu nước, như phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng, phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền lãnh đạo v.v.., đều bị thất bại. Cách mạng Việt Nam rơi vào bế tắc về đường lối.
Trong bối cảnh đó, với khát vọng và “ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Trên hành trình qua khắp năm châu, bốn biển, Người đã có điều kiện nghiên cứu kỹ lưỡng về các cuộc cách mạng tư sản Âu - Mỹ và các thể chế chính trị xã hội đương thời. Người rút ra kết luận, các cuộc cách mạng tư sản là các cuộc ''cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”, “nó chỉ mang lại quyền lợi cho một số ít người”. Theo quan điểm của Người: chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Bằng trí tuệ thiên tài, phẩm chất, nhân cách và năng lực hoạt động thực tiễn của mình, từ chủ nghĩa yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Khi đọc bản Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Người đã vui mừng đến phát khóc lên, ngồi trong phòng mà Người nói to như truớc đồng bào đang đau khổ: Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Từ sự phân tích, nhìn nhận một cách khách quan, khoa học, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định lựa chọn đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường của cách mạng tháng Mười, theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Đây là bước chuyển vô cùng quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, bởi nó chấm dứt sự khủng hoảng về đuờng lối, mở ra hướng đi mới cho lịch sử dân tộc.
Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin, đồng thời xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh lịch sử thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng sáng tạo học thuyết cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước của Việt Nam. Trong đó, vấn đề cơ bản nhất, xuyên suốt nhất là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội''. Đó là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng khát vọng thiêng liêng của toàn thể nhân dân Việt Nam, giải quyết triệt để những mâu thuẫn nội tại của cách mạng Việt Nam.
Theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Bởi chỉ có gắn bó mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, đưa cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản phù hợp với xu thế phát triển của thời đại thì mới huy động được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, mới đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân (trong quan niệm của Người khi nước giành được độc lập nhưng nhân dân còn chưa được tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc, dân chủ, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đã được chính thức khẳng định trong Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 của Đảng ta: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Tư tưởng của Người đã đặt nền móng cho việc hình thành đường lối, tạo nên thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua.
2. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng, nhất tề đứng dậy, tiến hành thắng lợi tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám (1945), phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân, phong kiến lập ra Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nước ta - kỷ nguyên độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được khẳng định bởi tính ưu việt của một chế độ xã hội tốt đẹp, với mục tiêu cao cả đó là giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, tạo điều kiện để phát triển toàn diện con người. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, chủ nghĩa xã hội là vấn đề rất mới, nhất là trong điều kiện nước ta kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kẻ thù lại thường xuyên chống phá, xuyên tạc, cho nên nhiều người còn nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa xã hội, hoài nghi về tính hiện thực của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội không phải là những gì cao siêu, huyền bí. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội hết sức cụ thể, giản dị, dễ hiểu: ''Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giầu, nước mạnh”, “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”, “chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động sản xuất để được ăn no, mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ”. Nguời khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là “một thế giới không có người bóc lột người, mọi người sung sướng,vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người”. Đối với điều kiện, đặc điểm của Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu, có xuất phát điểm thấp, chưa kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, thì mục tiêu ban đầu của chủ nghĩa xã hội phải đặt ra một cách thiết thực: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ. Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa luôn là sự thống nhất biện chứng của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Người nói: “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội''. Cụ thể hơn, Bác cho rằng chủ nghĩa xã hội phải “có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến”. Còn về chính trị, xã hội xã hội chủ nghĩa là do nhân dân làm chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở mọi người dân, mọi cán bộ, công chức nhà nước đều là công bộc của dân.
Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không hoàn toàn bằng phẳng, mà có vô vàn khó khăn, phức tạp cần phải vượt qua. Người nhận định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài '', “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại” bởi “biến đổi một xã hội cũ thành một xã hội mới, không phải là một chuyện dễ'', “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng, lạc hậu còn khó khăn hơn nhiều”. Người lưu ý, tuy chủ nghĩa xã hội có mục tiêu, nguyên lý chung, nhưng cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội''. Theo Người, thời kỳ quá độ ở Việt Nam sẽ phải trải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh'', nhưng: “chớ ham làm mau, ham rầm rộ. Đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần'. Người căn dặn, phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài. Người nói: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác...Ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội".
Nghiên cứu về những điều kiện đảm bảo cách mạng thành công, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, điều quan trọng nhất, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, truớc hết phải có Đảng. Cách mạng có Đảng lãnh đạo như tầu có lái mới vượt qua được phong ba bão táp; phải xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng, của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới công tác xây dựng Đảng; yêu cầu Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh thực tiễn nước ta; phải thường xuyên xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức chính trị, tư tưởng và đạo đức; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng "như giữ gìn con ngươi của mắt mình”; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên phải “xứng đáng là nguời lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Cùng với xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng xây dựng, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, bởi đó chính là nhân tố đảm bảo cho thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bác nói: “Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường”. Xây dựng nhà nước, theo Bác thì điều quan trọng hàng đầu là nhà nước đó phải là nhà nước của nhân dân, chăm lo lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân. Cơ sở xã hội của nhà nước là khối đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công, nông, trí do Đảng lãnh đạo. Đồng thời, phải xây dựng được bộ máy Nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách trên các lĩnh vực. Theo Bác, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân, do đó cần phát huy tính tích cực, chủ động của toàn dân, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân thực hiện đầy đủ vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đất nuớc, bảo vệ Tổ quốc, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa". Con người là yếu tố quyết định. Do đó, Bác đặc biệt quan tâm tới việc tuyên truyền, vận động, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bác đòi hỏi phải giáo dục, đào tạo con người một cách toàn diện: đức, trí, thể, mỹ; đặc biệt là giáo dục, rèn luyện về đạo đức, vì “sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang'', “có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước...khi gặp thuận lợi và thành công vẫn khiêm tốn, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không hủ hóa”. Theo Bác, đạo đức cách mạng, nói một cách tóm tắt, “là tuyệt đối trung thành với đảng,với nhân dân. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”, là "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Để trở thành con người xã hội chủ nghĩa, theo Bác, mỗi người phải “học tập, học tập nữa, học tập nữa. Học chính trị, thời sự, kỹ thuật”, “muốn rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ nữa...không phải chỉ ở tại nhà trường, có lên lớp, mới học tập, tu dưỡng, rèn luyện và tự cải tạo đuợc. Trong mọi hoạt động cách mạng chúng ta đều có thể và đều phải học tập, tự cải tạo”. Bác đặc biệt nhấn mạnh để rèn luyện đạo đức cách mạng, để trở thành con người xã hội chủ nghĩa thì phải chống chủ nghĩa cá nhân, vì do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra nhiều tính xấu, “do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra công thần, do công thần sinh ra kiêu ngạo, kèn cựa, địa vị...cũng do chủ nghĩa cá nhân mà lo lắng tiền đồ bản thân, chỉ biết vun vén cho bản thân mình”; “vì chưa gột sạch chủ nghĩa cá nhân cho nên có đảng viên còn kể công với Đảng. Có ít nhiều thành tích, thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ. Họ đòi ưu đãi, họ đòi danh dự và địa vị. Họ đòi hưởng thụ. Nếu không thoả mãn yêu cầu của họ thì họ oán trách Đảng, cho rằng “họ không có tiền đồ”, họ “bị hy sinh”. Rồi dần dần họ xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng”. Vì vậy, Bác yêu cầu mọi người, nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởngchủ nghĩa xã hội, con đuờng đi lên chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, lãnh đạo nhân dân ta giành đuợc những thắng lợi hết sức to lớn. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
3.Ngày nay, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo...vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nước phát triển, nhưng cạnh tranh, tranh giành thị trường, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, nguồn lực khoa học công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế diễn ra quyết liệt, đặt các quốc gia, nhất là các nước đang và kém phát triển trước những thách thức gay gắt. Ở trong nước, bên cạnh thững thuận lợi cơ bản do những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đã giành được trong sự nghiệp đổi mới làm tăng thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước, chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức to lớn. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Các cân đối kinh tế lớn, ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Một số lĩnh vực xã hội còn có những mặt yếu kém như giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, quản lý các hoạt động văn hóa, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông; tệ tham nhũng, lãng phí chậm được khắc phục, gây bức xúc trong nhân dân. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hết sức quyết liệt, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc: tuyên truyền vu cáo, xuyên tạc, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, âm mưu gây bạo loạn, bất ổn chính trị. Thêm vào đó, mặt trái của cơ chế thị truờng tác động làm suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng viên... làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta, nhân dân ta khẳng định kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, mục tiêu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn và được lịch sử phát triển của dân tộc ta gần một thế kỷ qua chứng minh rằng: chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho dân tộc ta có nền độc lập thật sự, đất nước ta phát triển ổn định, phồn vinh, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó là con đường đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, trong hoàn cảnh mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, được khẳng định trong Cương lĩnh và văn kiện các đại hội của Đảng, là xã hội dân giàu, nuớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con nguời có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân vì dân, do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đảng ta luôn xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, một cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; vì vậy, nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, nhiều bước phát triển, không thể đơn giản, chủ quan, nóng vội.
Để thực hiện thành công mục tiêu xã hội xã hội chủ nghĩa, kế thừa và phát triển các quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra các phương hướng và nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để từng buớc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; không ngừngnâng cao năng suất lao động xã hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nhất là những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia có hiệu quả vào dây chuyền sản xuất và mạng lưới phân phối toàn cầu. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phát triển nông - lâm – ngư nghiệp một cách toàn diện, hiệu quả, bền vững gắn với giải quyết đồng bộ các vấn đề của nông dân, nông thôn. Phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nuớc, các công trình xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng đồng bằng, trung du và miền núi, ven biển, đảo và hải đảo, thành thị và nông thôn.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cơ chế thị truờng được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể, ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường, định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
Ba là, chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng, giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Đấu tranh chống tư tưởng, văn hoá hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bốn là, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị ngày càng hiện đại; để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở tất cả các cấp, trên tất cả các lĩnh vực; bảo đảm tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; mọi cán bộ, công chức đều là công bộc của nhân dân. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Xây dựng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trang việc tập hợp, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự là của nhân dân, nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội, thực hiện các cam kết quốc tế; giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nuớc và nhân dân; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; có tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp lý, trong sạch, vững mạnh; có đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực cao; có cơ chế kiểm soát, ngăn ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; kiên định chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng; thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc; có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, có sức chiến đấu cao. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Những phương hướng và nhiệm vụ trên là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo của Đảng ta những tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay và trong tương lai.
Trong Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay
(Nxb Chính trị - Hành chính – 2010)