Tư tưởng Hồ Chí Minh qua chuyện kể

ButNghien

Học tập suốt đời!
Thành viên BQT
Xu
46
Nhân Kỷ niệm 120 năm ngày sinh nhật Bác, BN post một số câu chuyện nói về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

BẢN YÊU SÁCH CỦA NHÂN DÂN AN NAM GỬI HỘI NGHỊ VÉC – XÂY

Tháng 6 năm 1919, nghe tin đoàn đại biểu mười mấy nước Đồng minh chiến thắng họp ở Véc – Xây cách thủ đô Paris 14km. Nguyễn Tất Thành bàn với nhà yêu nước Phan Châu Trinh và luật sư, tiến sĩ Phan Văn Trường viết bản “ Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Véc – Xây. Nhà yêu nước họ Phan trịnh trọng nói.

Bảy điều yêu sách nhà Thành nêu ra, theo tôi là thật xác đáng và đúng như bọn mình trao đổi với nhau. Chú Trường xem có nên thêm điều gì không?

Tôi thấy thế là tốt…Thử xem còn vấn đề gì về quyền của nhân dân ta cần đòi…Văn Tường nói và gõ nhẹ vào trán mình theo thói quen của ông khi cần suy tính một điều gì.

Thưa hai bác – Tất Thành lên tiếng – Hôm trước cháu phác thảo ra bảy điều yêu sách đưa hai bác xem, nhưng đêm hôm qua cháu mới nảy thêm một ý. Cháu thấy rằng ở Đông Dương, bọn quan lại chỉ dựa vào các sắc lệnh của tên toàn quyền để cai trị nhân dân mà không hề có luật, cháu muốn đưa thêm một điều yêu sách nữa “ Thay chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật pháp”.

Đúng ! đúng ! Luật sư họ Phan sôi nổi hưởng ứng, muốn cho dân ta có tự do thì phải đòi hỏi họ cai trị theo luật pháp!

Tôi cũng tán đồng ! Phan Châu Trinh nói như kết luận buổi gặp mặt. Bây giờ ta làm thế nào để chuyển bản yêu sách đến Hội nghị Véc – Xây?

Tất Thành:

Thưa bác, cháu nghĩ rằng phải nhờ bác Phan Văn Trường viết ngay ra bằng tiếng Pháp thì mới kịp.

Hai ngày sau, Nguyễn Tất Thành đã ngồi bên luật sư Phan Văn Trường, trước bản “ Yêu sách của nhân dân Việt Nam” vừa thảo xong bằng chữ Pháp.

Chúng ta sẽ đứng tên dưới bản yêu sách này như thế nào đây? Bác đứng tên nhé. Nguyễn Tất Thành nêu ý kiến.

Không ! Phan Văn Trường đáp – bản yêu sách này tuy là tôi chấp bút viết ra bằng tiếng Pháp. Nhưng tôi phải viết chỉ vì anh chưa thông thạo Pháp văn mà thôi, chứ sáng kiến lớn lao này là của anh, và hầu hết ý kiến nêu trong bản yêu sách cũng là của anh.

Thưa bác, sáng kiến của cháu cũng chỉ là phản ánh nguyện vọng chung của những người yêu nước chứ có phải của riêng cháu đâu. Bác là một nhân vật có danh tiếng, bà con Việt kiều trên đất Pháp đều biết bác là một luật sư yêu nước dám bênh vực công lý, che chở cho bà con. Bác đứng tên cho bản yêu sách này thì giá trị của nó càng cao, ảnh hưởng của nó càng rộng.

Không ! không thể được! Tôi tuy có chút danh vọng hơn anh ngày nay, nhưng cái tâm, cái chí của anh còn lớn hơn tôi nhiều. Vả lại về nguyên tắc, người trí thức không được phép lấy công của người khác làm công của mình: “ Cái gì của Xê – da thì phải trả lại cho Xê – da. Đó mới là lẽ phải, chẳng những tôi không thể đứng tên, mà bác Hy Mã Phan Châu Trinh cũng không nên đứng tên.

Cuộc trao đổi giữa hai nhà yêu nước đi tới kết luận, dùng một cái tên gì tiêu biểu cho nguyện vọng chung của nhân dân, nhưng phải là một cái tên cá nhân thì tính chất pháp nhân của văn bản mới có giá trị. Cuối cùng anh Nguyễn quyết định tự mình đứng mũi chịu sào với cái tên chung cho tấm lòng của mọi người. Anh ký:

Thay mặt những người yêu nước Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc.


Ngay buổi chiều hôm ấy, sau khi bản yêu sách được gửi đi, anh Nguyễn rời khỏi nhà số 6 đường Vi –la –de – go –bo- lanh, nơi anh vẫn ở với luật sư Phan Văn Trường. Anh sống bí mật, đề phòng sự truy lùng ráo riết của bọn mật thám Bộ Thuộc địa Pháp.

Vào buổi sáng sớm, có người đến bấm chuông ngôi nhà số 6, phố Đô – bi –nhi. Đây là nhà của Giuyn Cam Bong, đại sứ cũ của Pháp ở Đức, hiện là thành viên của đoàn đại biểu Pháp đi dự Hội nghị Véc – Xây. Gionovievotabui cháu gái trẻ của Căm bông ra mở cửa. Sau này cô là một nhà báo nổi tiếng, nhưng lúc bấy giờ cô là thư ký của cậu cô. Người bấm chuông là một thanh niên châu Á, mảnh khảnh, có khuôn mặt cởi mở, dễ mến, đôi mắt to, sáng long lanh. Anh lịch sự chào cô và nói bằng thứ tiếng Pháp không sõi.

Tôi muốn trao cho ngài đại sứ Căm bông một văn kiện.

Gionovievotabui mời khách đến sớm vào nhà rồi ra hiệu cho khách ngồi xuống cạnh chiếc bàn dài chạm trổ theo kiểu đế chế. Chiếc bàn này hiện nay vẫn kê trong phòng khách của gia đình Tu – bu –i. Cô gái hỏi người thanh niên là ai?

Thưa cô, tôi là Nguyễn Ái Quốc, tôi muốn gặp ngài Căm bong.

Chàng thanh niên lấy ra một cuốn giấy buộc bằng dây mảnh. Anh mở ra và trao cho cô gái.

Tôi đến đây để trao cho ngài đại sứ “ bản trần tình” của nhân dân Đông Dương.

Có thể thấy ngay là những tờ giấy trong cuộn giấy viết bằng một thứ chữ rất đẹp. Tờ đầu tiên là bức thư gửi cho chủ nhà.

Thưa ngài đại sứ Căm bong, đại diện toàn quyền của nước Pháp tại Hội nghị Véc – Xây. Tôi là người đại diện cho nhân dân Đông Dương, chúng tôi là một dân tộc chậm phát triển, chúng tôi đã được biết thế nào là nền văn minh của nước Ngài…”


Tài liệu mà người thanh niên châu Á mang đến có tên là “ Bản yêu sách của nhân dân An Nam”. Bản yêu sách viết “ Trong khi chờ đợi nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển vào lĩnh vực thực hiện cho chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thực sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông – Pháp, xin trình bày với quý Chính phủ Đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đáng kính nói riêng những yêu sách khiêm tốn sau đây.

1 >Tổng ân xá cho những người bản xứ bị án tù chính trị
2> Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được hưởng quyền đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu, xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam

3> Tự do báo chí và tự do ngôn luận
4> Tự do lập hội và hội họp
5>Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương
6> Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ
7> Thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
8> Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bán xứ.

Vài ngày sau, các đoàn đại biểu khác tham dự Hội nghị và nhiều nghị sĩ Pháp cũng nhận được bản yêu sách tương tự như vậy. Kèm theo bản yêu sách có bức thư ngắn.

Thưa ngài! Nhân dịp chiến thắng của Đồng minh, chúng tôi mạn phép gửi đến Ngài kèm theo đây bản ghi những yêu sách của nhân dân An Nam. Tin tưởng ở sự độc lượng cao cả của Ngài, chúng tôi mong ngài ủng hộ bản yêu sách này trước những người có thẩm quyền.

Thay mặt nhóm những người An Nam yêu nước. Nguyễn Ái Quốc.

Người ta nhiều lần bắt gặp người thanh niên Việt Nam kiên trì này với tập giấy tờ cặp dưới nách tại các nhà hành lang ồn ào, mù mịt khói thuốc của các ban biên tập báo ở Pasri, trong các gian phòng chật chội do các công đoàn và đảng Xã hội thuê để tổ chức các cuộc họp mà mít tinh.

Liuacnu, trưởng ban Đông Dương sở của Mật Thám Pháp, sau này là Chánh Mật thám Pháp ở Đông Dương, nhún vai khi nghe báo cáo về hành động của một người nào đó tên là Nguyễn Ái Quốc và về nội dung của một tài liệu chống Pháp, đang được người đó phân phát khắp nơi. Do nghề nghiệp đòi hỏi, Acnu hều như biết hết mọi người An Nam khả nghi sống ở Paris, được báo cáo tỉ mỉ về bước đi của “ những kẻ chủ mưu gây bất an” từ Đông Dương sang. Một trong những người đó là Phan Châu Trinh. Mở một hiệu ảnh và thực tế đã ngừng hoạt động chính trị. Vả lại, hành động, “ khiêu khích” như vậy vốn không phải là Phan Châu Trinh, vì ông lúc nào cũng có thái độ kính nể nước Pháp. Một người khác là luật sư Phan Văn Trường, cũng sống ở Pasri, được coi là nhà mác – xít, nhưng chỉ là người dịch sách báo chính trị ra tiếng Việt và không bao giờ tham gia những việc như vậy. Chỉ còn một người duy nhất trong số những nhân vật quen biết cũ của Sở mật thám dám cả gan làm việc này là Phan Bội Châu. Nhưng Acnu biết chắc chắn Phan Bội Châu đang ở một nơi nào đó tại miền Nam Trung Quốc, hơn nữa, mới đây ông ta còn cho đăng một bài báo. Lời lẽ rất ôn hòa có lợi cho chủ trương hợp tác Pháp – Việt.

Cả Acnu – kẻ có con mắt cú vọ, nhòm ngó khắp nơi, thậm chí cả những người bạn gần gũi của người yêu nước trẻ tuổi đã cả gan cất lên tiếng nói bảo vệ nhân dân bị áp bức của mình ngay giữa trái tim bọn đế quốc Pháp cũng không biết được và cũng không thể ngờ vào lúc đó rằng. Nguyễn Ái Quốc, tác giả bản Yêu sách, anh Văn Ba, người phụ bếp trên tàu biển, người con trai quan Phó bảng duy nhất ở làng Sen, cậu bé ham hiểu biết Nguyễn Tất Thành – cũng chỉ là một người mà thôi.

Nguồn :NXBGD
 
Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa lênin

Ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tôi làm thuê ở Paris, khi thì làm cho một cửa hàng phóng đại ảnh, khi thì vẽ đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa ( do một xưởng của người Pháp làm ra) Hồi đó, tôi thường rải truyền đơn tố cáo tội phạm của bọn thực dân Pháp ở Việt Nam.

Lúc bấy giờ tôi ủng hộ Cách mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giảii phóng đồng bào mình, trước đó, tôi chưa hề đọc một cuốn sách nào của Lênin viết.

Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các ông bà ấy – hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế, đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là gì, thì tôi chưa hiểu.

Hồi ấy, trong các chi bộ của Đảng Xã Hội, người ta bàn cãi sôi nổi về vấn đề có nên ở lại trong Quốc tế thứ hai, hay là nên tổ chức một Quốc tế thứ hai rưỡi, hoặc tham gia Quốc tế thứ ba của Lênin? Tôi dự rất đều các cuộc họp một tuần hai hoặc ba lần. Tôi chăm chú nghe những người phát biểu ý kiến, lúc đầu tôi không hiểu được hết. Tại sao người ta bàn cãi hăng như vậy? Với Quốc tế thứ hai, hoặc thứ hai rưỡi, hay là thứ ba, thì người ta cũng đều làm được cách mạng cả, sao lại phải cãi nhau? Và còn Quốc tế thứ nhất nữa, người ta đã làm gì với nó rồi?

Điều mà tôi muốn biết hơn cả - và cũng chính là điều người ta không thảo luận trong cuộc họp là: vậy thì cái quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa?

Trong một cuộc họp, tôi đã nêu câu hỏi ấy lên, câu hỏi quan trọng nhất đối với tôi. Có mấy đồng chí đã trả lời. Đó là Quốc tế thứ ba, chứ không phải Quốc tế thứ hai. Và một đồng chí đã đưa cho tôi đọc Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo Nhân đạo.

Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu, nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần,cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà nói to lên như đang nói chuyện trước đông đảo quần chúng. “ Hỡi đồng bào bị đầy đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta!”.


Từ đó tôi hoàn toàn theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.

Trước kia trong các cuộc họp chi bộ, tôi chỉ ngồi nghe người ta nói, tôi cảm thấy người nào cũng có lý cả, tôi không phân biệt được ai đúng ai sai. Nhưng từ đó tôi cũng xông vào những cuộc tranh luận, tôi tham gia thảo luận sôi nổi. Mặc dù chưa biết đủ tiếng Pháp để nói hết ý nghĩa của mình, tôi vẫn đập mạnh những lời lẽ chống lại Lênin, chống lại Quốc tế thứ ba. Lý lẽ duy nhất của tôi là. Nếu đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu đồng chí không bên vực các dân tộc thuộc địa thì đồng chí làm cách mạng làm gì?

Không chỉ tham gia các cuộc họp chi bộ mà thôi, tôi còn đến các chi bộ khác để bên vực “ lập trường” của tôi. Ở đây, tôi cần nhắc thêm rằng các đồng chí Mác –xen- Ca- sanh, Vay- ăng Cu- tuya-ri-ê, Mongmutxo và nhiều đồng chí khác đã giúp đỡ tôi hiểu biết thêm. Cuối cùng ở đại hội thành phố Tua, tôi cùng các đồng chí ấy biểu quyết tán thành tham gia Quốc tế thứ ba.

Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứa lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, tôi dần hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

Ở nước ta và Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái “ cẩm nang” đầy phép lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay giải pháp. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “ cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Nguồn : NXB Chính trị Quốc gia.
 
Bác hồ với cụ phan châu trinh

Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với cái tên là Ba rời Sài Gòn và ngày 15/7.1911 đến cảng Lơ – ha –vơ –rơ, còn Phan Châu Trinh rời Sài Gòn ngày 1/4/1911 và đến Pháp vào ngày 27/4 cùng năm, ngụ tại Paris, khoảng cách giữa La –hơ –vơ – rơ nơi cụ Phan đang sống chỉ có hơn 100 cây số, đi lại dễ dàng…Chắc chắn trong dịp này Người đã tranh thủ đến Paris gặp cụ Phan, làm quen với những người quanh Cụ, và đặc biệt để bàn bạc với Cụ về hướng sống và học tập. Và có thể không phải chỉ đến 1 lần.

Có ba bức thư với chủ bút của Tất Thành mà cụ Phan còn giữ được đem về nước năm 1925 và gia đình đã gửi ra Việt Bắc tặng Trung ương trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nay lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh… Có lẽ do yêu cầu bảo mật, các thư đều không được ghi ngày tháng, nhưng có thể phán đoán bức thư sau đây đã được viết vào dịp trên. Nguyên văn như sau.

Hy Mã nghi bá đại nhơn.

Cách đây không tiếp được tôn tín, không hay Bác hành chỉ thế nào và sự thể bên ta thế nào? Và cháu muốn biết như cháu có thể gặp Bác trước lúc Bác đi hay không, vì cháu rất cần một lời tôn hội, xin Bác trả lời liền cho cháu vì chừng trong tuần lễ cháu sẽ xuống tàu “ đi chưa biết đâu”. Kính chúc Bác, M. Trường và em Dật và các đồng bào yên hảo.

C.Đ Tất Thành.

10. orchard Place
Southampton England

Theo lời thư trên đây thì, Tất Thành biết rõ cụ Phan đang bị Bộ Thuộc địa ép phải đi khỏi Paris nên yêu cầu Cụ trả lời ngay để đến gặp chỉ trong một tuần lễ…Do có thể đoán mặc dù ghi địa chỉ ở Anh nhưng lúc đó Tất Thành không phải ở Anh mà thực ra đang ở cách Paris không xa, có thể ở nhà chủ tàu tại Anh ( Saint – Adresse), ngoại ô Lơ – ha –vơ –rơ chỉ cách Paris 100 cây số. Lời thăm hỏi rất thân tình về mọi người ở quanh Phan Châu Trinh lúc đó, kể cả luật sư Phan Văn Trường nói lên họ đã gặp nhau rồi.


Sau thư trên có thể đã có cuộc gặp gỡ giữa cụ Phan Châu Trinh và Tất Thành tại Paris trước chuyến đi bằng tàu biển.

Theo phán đoán thì thời đó nơi dừng chân của Bác Hồ sau các chuyến đi là cảng Lơ – ha –vơ –rơ. Vì mấy nguyên nhân: đó là nơi dừng chân lâu nhất của tàu La – tút – sơ – Tơ –rê – vin, có nhà của chủ tàu và nhiều bạn bè quen biết trên tàu có thể làm nơi tá túc, nơi đó rất gần Paris, chỗ ở của cụ Phan và những người bạn khác, chỉ đến 1.2 giờ là có thể đến gặp được, nơi đó có thể lánh sang đất nước Anh thuộc chính quyền Hoàng gia vốn lúc này không mấy thân thiện với Pháp ( như thể hiện trong năm 1915), Chính phủ Anh không đáp ứng yêu cầu của Pháp soát xét nơi ở của Tất Thành để tìm các thư phúc đáp của Phan Châu Trinh, hoặc cả sau này, khi Chính phủ Hoàng gia ký lệnh thả Nguyễn Ái Quốc tại Hồng Kông năm 1931…)

Cần khám phá châu Mỹ và nước Mỹ đang thời kỳ phát triển mạnh mẽ, Tất Thành đã lên làm việc ở một chiếc tàu đi Nam Mỹ và Bắc Mỹ, Anh đã dừng lại ở New York, lên bờ làm thêm để kiếm sống, viết thư về nước nhờ tìm tin, địa chỉ của cha, và đã gặp đại diện phong trào yêu nước Triều Tiên tại Mỹ và học tập kinh nghiệm đấu tranh của họ…

Nhưng Tất Thành không ở Mỹ lâu, trong khoảng năm 1913 Người đã trở về Lơ – ha – vơ- rơ, cùng bàn bạc với cụ Phan và chuyển sang ở Anh, Tất Thành đã gửi bức thư sau cho cụ Phan.

Hy Mã nghi bá đại nhơn

Cháu kính chúc Bác, em Dật và ông Trạng, mấy anh em ta ở Paris đều mạnh giỏi. Nay cháu đã tìm nơi để học tiếng, mấy bốn tháng rưỡi nay thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn luôn. Tuy ở Anh nhưng chẳng khác gì ở Pháp và ngày tháng chỉ lo làm cho khỏi đói chứ chẳng học được bao nhiêu. Cháu ao ước rằng 4, 5 tháng nữa khi gặp Bác thì cháu sẽ nói và hiểu tiếng Anh nhiều nhiều.

Bên ta có gì mới không? Và nếu Bác dịch xong mấy hồi rồi xin Bác gởi cho cháu. Chuyến này Bác sẽ đi nghỉ hè ở đâu ?

Nay kính
Cuồng Điệt Tất Thành
Crayton Court Hotel
West Ealingw
London.

Câu cuối thư hỏi về kỳ đi nghỉ hè theo tập quán của người Phương Tây và không nói gì đến không khí chiến tranh, cho phép ta đoán thời gian viết thư khoảng giữa năm 1913.

Câu “ xin gởi mấy hồi sau” của một bản dịch chắc là tập Giai nhơn kỳ ngộ và Tất Thành đã đọc mấy hồi trước, trong một chuyến đến thăm cụ Phan trước đó.

Ở Anh mà làm việc với người Pháp và nói tiếng Pháp, có thể là với sự gởi gắm của bạn bè Pháp, Tất Thành đã làm việc trong ê kíp hầu hết là người Pháp của vua bếp Ê – xcốp – phi – e.

Với lời hẹn ước 4, 5 tháng nữa lúc gặp Bác cháu sẽ… có thể thấy trong tình hình Bác Phan khó di chuyển vì bị kiểm soát, từ Anh, Tất Thành có thể đã có nhiều cuộc đến gặp Bác tại Paris…

Ngoài hai bức thư trên, cụ Phan còn giữ được một các của Cuồng Điệt Tất Thành gửi từ -một địa phương tên là Xu – phơ – ra – rat mà tập sách Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử xác định là ở Anh. Nội dung một bài thơ tám câu bảy chữ nói lên cảm xúc của bản thân với tác phẩm “ Giai nhân kỳ ngộ”, Cụ Phan đã phóng tác…

Lời cuối thật thắm thiết “ Hy Mã nghi bá đại nhơn thấu Cuồng Điệt”.

Có một bức thư của Tất Thành do bà Thu Trang tìm được bản dịch tiếng Pháp ở thư khố Ô – đi – nô của Bộ Ngoại giao Pháp đã dịch lại như sau.

Kính gởi Nghi bá đại nhơn

Tiếng súng đã rền vang và thây người đã phủ trên đất. Năm cường quốc đã vào vòng chiến và chín nước đang đánh nhau. Cháu chợt nhớ đến thư cách đây mấy tháng đã viết về cơn dông bão này. Định mệnh sẽ dành cho chúng ta nhiều bất ngờ và không thể nói trước ai sẽ thắng…

Các nước trung lập đang còn lưỡng lự và các nước tham chiến chưa rõ được ý họ. Tình hình như vậy ai nhúng mũi vào thì chỉ có thể đứng về phía này hoặc phía kia. Hình như người Nhật có ý nhúng tay vào. Cháu nghĩ trong vòng ba, bốn tháng nữa số phận châu Á sẽ thay đổi, và thay đổi nhiều. Mặc kệ những kẻ đánh nhau và bạo động, phần chúng ta hãy cứ bình tâm.

Xin gửi lời thăm Nghi bá và em Dật, xin trả lời cháu về địa chỉ sau đây.

Nguyễn Tất Thành

Số nhà 8
Stenphen Totterham Rd. London.

Thư trên được viết khi cuộc chiến diễn ra ác liệt, nhưng theo tài liệu sưu tầm được thì Phan Châu Trinh cùng với Phan Văn Trường đã bị bắt ngày 14/9/1914, chỉ hơn một tháng sau khi chiến tranh bắt đầu. Như vậy có thể là Tất Thành đã viết thư khi chưa biết cụ Phan bị bắt và thư này đã bị cơ quan điều tra lấy được, cho dịch và cho gửi Bộ Ngoại giao.

Ngoài ra, báo cáo kết thúc vụ án của Dự thẩm tòa án binh Ca –ron viết rõ là “ Soát nhà Phan Châu Trinh đã lấy được nhiều thứ rất khả nghi trong đó có thư của Tất Thành là ở số 8 đường Stenphen Road – Totterham ở London, đã gửi công hàm cho Chính phủ Anh nhờ soát nhà Tất Thành nhưng không được phía Anh đáp ứng.

Trong biên bản thẩm vấn Cao Đắc Minh với tư cách nhân chứng, Ca – ron có đưa một thư và Đắc Minh đã khẳng định đó là thư Tất Thành trả lời cho cụ Phan.

Trong bức thư bà Thu Trang tìm được ở thư phố Ô – đi – nô, Tất Thành cũng nhắc đến thư viết về cơn dông bão chắc cũng ở trong số thư đã bị lấy khi soát nhà cụ Phan.

Các tài liệu trên cho thấy mối quan hệ thân tình giữa Bác hồ và cụ Phan ngay từ trong nước và sự gắn bó giữa hai vị trong những năm đầu Người tham gia hoạt động cách mạng.

Nguồn : NXB Chính trị Quốc gia.
 
Bác hồ với cụ phan bội châu

Bức thư Phan Bội Châu gửi Lý Thụy ( Nguyễn Ái Quốc)

Người cháu rất kính yêu của Bác.

Hôm trước anh Lâm ( Đức Thụ) và anh Hồ ( Hồ Tùng Mậu) gửi lại thư của Cháu, trong thư có nói tường tận về chuyện ông Hy Mã ( Phan Châu Trinh), tuy thư đưa trực tiếp trên chuyện thật nhưng ngụ ý thật sâu sắc, mà lối lập luận lại dựa trên những ý tưởng lớn, nhân đó mới biết là học vấn, tri thức cháu nay đã tăng trưởng quá nhiều, quả thật không phải như 20 năm về trước.

Nhớ lại 20 năm trước đây, khi đến nhà cháu uống rượu gò án ngâm thơ, anh em cháu đều chửa thành niên, lúc đó Phan Bội Châu này đâu có ngờ rằng sau này cháu sẽ trở thành một tiểu anh hùng như thế này. Bây giờ đem so kẻ già này với cháu thì bác thấy rất xấu hổ. Nhận được liên tiếp hai bức thư của cháu, bác cảm thấy vừa buồn vừa mừng, buồn là buồn cho thân bác, mà mừng là mừng cho đất nước ta. Việc thừa kế nay đã có người, người đi sau giỏi hơn kẻ đi trước, trên tiền đồ đen tối sẽ xuất hiện ánh sáng ban mai. Ngày xế đường cùng, chỉ sợ không được thấy ngày đó, làm sao bác không cảm thấy buồn cho chính mình được? Một đời tân khổ, gánh vác công chuyện một mình, được sức lớn của cháu giúp vào thì ắt sẽ có nhiều người hưởng ứng theo. Việc gây dựng lại giang sơn, ngoài cháu có ai để nhờ ủy thác gánh vác trách nhiệm thay mình. Có được niềm an ủi lớn lao như thế, làm sao bác không cảm thấy vui mừng được.

Bác đang định tìm một dịp tốt để về Quảng Đông một chuyến để đàm luận với cháu, không biết cháu còn ở lại Quảng Đông lâu mau, hoặc giả trong tương lai có định đi chỗ khác không? Trong lòng bác có nhiều chuyện muốn hỏi ý kiến cháu, nhưng không gặp mặt thì làm sao có thể bàn cho hết ý được? Làm sao được? Nếu không coi già yếu là đồ bỏ thì cháu viết thư nhiều cho bác, bác thành thật yêu cầu cháu đấy.

Cần nhắc lại là Bội Châu lúc rời nước đã gần bốn mươi ba tuổi đến Nhật, lại không thể tránh khỏi những trách nhiệm này nọ đặng chuyên chú học hành, cho nên trí thức lúc bây giờ cũng vẫn như xưa. Cháu học vấn rộng rãi, và từng đi nhiều nơi, hơn bác cả chục cả trăm lần. Tri thức và kế hoạch của cháu tất vượt sức đo lường của bác, không biết cháu có thể chia sẻ cùng bác hai việc? Bác rất hết sức mong đợi, mong cháu không ngại. Vì nếu không có kế hoạch thì quá bất cũng chỉ làm khách tha hương than thở không đâu cho hồn cố quốc, chả giống ông Hy Mã thì cũng giống Phan Bội Châu mà thôi!

Ngày 21 tháng 1 lịch ta ( 14 tháng 2 năm 1925 dương lịch) viết dưới đèn dầu.

Chỗ bác ở đâu nơi đất khách thì Quốc Hống ( Hồ Tùng Mậu) đã biết nên không ghi ở đây. Thư này nhờ Quốc Đống chuyển giúp.

Bác.
Thứ cụ.

Nguồn :Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh.
NXB Trẻ.
 
Bác hồ với cụ huỳnh thúc kháng

Dân ta có cụ Hồ quả là hồng phúc

Vào cuối năm 1945, sau hai lần nhận được điện mời của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã từ Huế ra Thủ đô Hà Nội. Gặp nhau, hai người ứa nước mắt. Bác Hồ nói. Việc mời cụ ra nhậm chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ là ý kiến chung của tất cả anh em các đảng phái, chứ không phải ý kiến của riêng tôi, vì Cụ ở lại trong nước. Cụ biết rõ tình hình tiến bộ của đồng bào ba kỳ, đồng thời đồng bào ba kỳ đều tín nhiệm cụ.

Cụ Huỳnh nói « Tôi ra đây cốt là để gặp Cụ, chớ lúc này đang là lúc cần tăng gia sản xuất mà tôi không biết cầm cày, cầm cuốc, lại cần phải kháng chiến mà tôi lại không mang súng nổi. Cụ nên kiến nghị người trẻ thạo việc để trao nhiệm vụ thì hơn ».

Sau nhiều lần trao đổi, cuối cùng cụ Huỳnh Thúc Kháng đã nhận lời tham gia Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.

Tại cuộc họp đầu tiên của Quốc hội ngày 2/3.1946, khi giới thiệu danh sách Chính phủ Liên hiệp để Quốc hội thông qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày.

Bộ Nội vụ, một người đạo đức danh vọng mà toàn quốc ai cũng biết. Cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Sau đó cụ Huỳnh lại được cử làm Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam ( gọi tắt là Hội Liên Việt).

Sáng ngày 31/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hà Nội đi Pháp để mở cuộc đàm phán chính thức với Chính phủ Pháp. Sân bay Gia Lâm hôm ấy đông nghịt người ra tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đi một vòng chào các đại biểu và đồng bào. Đồng bào vẫy cờ, vô tay hoan hô và chen lấn nhau ra phía trước để nhìn cho rõ Người.

Sắp đến giờ lên máy bay, Bác tới nắm tay cụ Huỳnh nói.

Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng với anh em giải quyết cho. Mong cụ « dĩ bất biến ứng vạn biến » ( lấy cái không thay đổi để đối phó với muôn sự thay đổi).

Cụ Huỳnh rất cảm động, cầm tay Bác hồi lâu, Bác đã ủy nhiệm cụ Huỳnh làm Quyền Chủ tịch nước trong thời gian Bác đi vắng.

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, có lúc cụ Huỳnh cảm thấy cô đơn, chán nản. Từ sau khi được gặp và hiểu rõ Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Huỳnh Thúc Kháng vui mừng vì được gặp người bạn già tri kỷ là Hồ Chí Minh. Cụ đã nói với một người bạn « Dân ta có cụ Hồ quả là hồng phúc ». Trong bài « Thất thập tự thọ cụ Huỳnh viết :

Bảy tuần đầu bạc như bông
Gặp người tri kỷ thôi xong đã già.

Thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm nước Pháp, cụ Huỳnh đã có bài thơ ca ngợi người.

Tung hoành bể Sở với non Ngô
Đàm lược ai hơn Chủ tịch Hồ
Mưa gió dãi dầu bao tuế nguyệt
Nước non gây dựng nổi cơ đồ
Sen kia chẳng ngại hôi bùn lấm
Tùng nọ bao phen ngọn gió xô
Khắp cả ba kỳ đều tín nhiệm
Rộn ràng muôn miếng tiếng hoan hô.

Giải thích về việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946, cụ Huỳnh nói.

Hội đồng chính phủ không bán nước !... Tôi xin tuyên bố vắn tắt với anh em, đó chẳng qua là một nước cờ của Hồ Chủ tịch với cả nước Pháp lẫn Tưởng Giới Thạch. Hồ Chủ tịch là một tay cờ cao, tôi chắc chắn và anh em cứ đinh ninh rồi đây thế nào mình cũng thắng thế.

Trước ngày cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ngày 3/11/1946, báo cáo trước Quốc hội về việc thành lập Chính phủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, cụ Huỳnh vì tuổi già sức yếu mà cố từ, nhưng tôi lấy đại nghĩa mà lưu cụ, cụ cũng gắng ở lại.

Sau đó, cụ Huỳnh được Bác cử đi kinh lý miền Trung và miền Nam Trung Bộ với danh nghĩa đại diện Chính phủ Trung ương. Cuối năm 1946, khi về thăm quê hương Tiên Phước, cụ Huỳnh tâm tình với bà con. « Tôi đã vào loại sáng nhưng cụ Hồ còn sáng hơn tôi nhiều ». Cụ Hồ có những người giúp việc thông minh lắm, giỏi lắm, tin tưởng lắm. Cụ Hồ rất vĩ đại, dưới có đội ngũ giúp việc rất tài năng, nhất định sẽ đưa dân tộc ta đến toàn thắng. Ở Hà Nội, Hồ Chủ tịch tiết kiệm lắm, mỗi bữa cơm chỉ dùng có một quả trứng…

Đầu năm 1947, với danh nghĩa Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, cụ Huỳnh viết bức thư dài bằng tiếng Hán ( thể phú) nhan đề. « Kính cáo đồng bào phụ lão kháng chiến thư ».

Nói về cụ Hồ và Cách mạng tháng Tám năm 1945, bức thư có đoạn ( theo bản dịch của Nguyễn Văn Hạp…)

Người thân yêu, kính mến nhất của đồng bào quốc dân ta là Hồ Chí Minh tiên sinh. Là bậc yêu nước đại chí sĩ, là nhà lịch nghiệm cách mạng đại chuyên gia, chân đi khắp năm châu, mắt chông xa vạn dặm.

Đầu tháng tư năm 1947, tại Quảng Nam, trong một buổi nói chuyện với các thân hào sĩ nhân, có người lên tiếng hỏi cụ Huỳnh.

Tôi thưở nay nghe biết tên nhiều nhà cách mạng hoạt động trong nước cũng như ở nước ngoài. Nhưng chưa từng nghe tiếng ông Hồ Chí Minh, vậy Hồ Chí Minh là ai ?

Cụ Huỳnh trả lời.

Ông Hồ Chí Minh là con ông cụ Phó bảng Sắc ở Nghệ An, suýt soát lớp ông và tôi, ông hồ hoạt động chính trị ở nhiều nước Âu, Á, Phi và hoạt động bí mật, tất nhiên là thay tên đổi họ luôn luôn để tránh mạng lưới mật thám quốc tế. Nhưng cái tên làm trấn động thế giới là Nguyễn Ái Quốc. Chắc ông biết, nhiều người biết.

Cụ Huỳnh nhận xét. « Ông Hồ không phải như nhiều người khác mượn hai tiếng cách mạng để rồi làm giàu hoặc làm quan to như các ông tưởng đâu. Ông Hồ không đồng xu dính túi, nói về bằng cấp, ông Hồ không là tiến sĩ, phó bảng gì cả. Nhưng nói về tri thức và sự nghiệp cách mạng thì chắc chắn lớp chúng ta cũng như lớp trước chúng ta không ai bì kịp.

Sự hiểu biết của ông Hồ rất xa, rất rộng, chẳng những việc trong nước mà cả việc thế giới nữa. Nước này tương lai sẽ đi về đâu ? nước kia rồi đây sẽ thế nào ? Ông nói rất rành rọt, mạch lạc, nghe không chán.

Bác Hồ đối với cụ Huỳnh như đối với người thân. Nhiều chi tiết nhỏ trong mối quan hệ giữa Bác và Cụ đã nói lên điều này. Có một chai tương Nam Đàn do bà Nguyễn Thị Thanh ( chị gái của Bác) đem ra làm quà, Bác cũng mời cụ Huỳnh đến dùng cơm để thưởng thức hương vị quê hương xứ Nghệ. Lại có lần nhân dân Thái Bình gửi biếu Bác hai chai mắm tôm đặc sản. Bác cũng viết thư gửi biếu cụ một chai. Cả trong chuyện thường ngày giữa hai người cũng hóm hỉnh thân tình. Có một lần vào năm 1946, gặp Bác, cụ Huỳnh ứng tác hai câu thơ nhắc nhở.

Năm mươi sáu tuổi vẫn chưa già
Cụ ông thấy, cụ bà không ?

Lúc ấy Bác chỉ cười, nhưng rồi trong thời gian sang bên Pháp, cạnh những bức điện văn gởi về tình hình hỏi thăm cụ Huỳnh, Bác còn có riêng một bài thơ gởi cụ.

Nghĩ rằng ra thơ để trả lời
Nhớ ơn cụ lắm cụ Huỳnh ơi
Non sông một mối chung nhau gánh
Độc lập xong rồi cưới vợ thôi.

Tháng 4/1947, cụ Huỳnh bị ốm nặng. Từ Quảng Ngãi, trên giường bệnh, ngày 14/4/1947. Cụ Huỳnh đọc cho người thư ký riêng của mình ghi bức thư gửi Chủ tịch Hồ Chủ tịch.

Kính gởi Hồ Chủ tịch.

Tôi bệnh nặng chắc không qua khỏi, bốn mươi năm ôm ấp độc lạp và dân chủ, nay nước đã độc lập, chế độ dân chủ đã thực hiện, thế là tôi chết hả.

Chỉ tiếc không được gặo cụ lần cuối, chúc Cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân trên đường vinh quang hạnh phúc.

Chào vĩnh quyết.

Rất thương tiếc và đau buồn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư cho đồng bào cả nước.

Gửi toàn thể đồng bào say ngày cụ Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng tạ thế.

Hỡi đồng bào yêu quý.

Vị chiến sĩ lão tiền bối Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân vừa tạ thế.

Trước sự đau xót đó, Chính phủ ta đã ra lệnh làm Quốc tang.

Nhân dịp này, tôi có vài lời báo cáo cùng đồng bào.

Cụ Huỳnh là một người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nước, mà trước đây Cụ bị bọn thực dân làm tội, đầy ra Côn Đảo. Mười mấy năm trường, gian nan cực khổ, nhưng lòng son dạ sắt, yêu nước thương nòi của cụ Huỳnh, chẳng những không sờn lại thêm kiên quyết.

Cụ Huỳnh là người mà sang giàu không làm siêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan.

Cả đời cụ Huỳnh không cầu danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm giàu sang, không thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu làm sao cho dân được tự do, nước được độc lập.

Đến nay nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được thành lập, Chính phủ ta mời cụ ra, tuy đã hơn 71 tuổi, nhưng cụ vẫn hăng hái nhận lời. Cụ nói, trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng ra sức phụng sự Tổ quốc.

Nay chẳng may cụ Huỳnh tạ thế, trước khi được thấy kháng chiến thành công.

Cụ Huỳnh tuy tạ thế, nhưng cái chính vì nước, vì nòi của cụ vẫn luôn sống mạnh mẽ trong lòng 20 triệu đồng bào chúng ta.

Hỡi đồng bào yêu quý.

Chúng ta thương tiếc cụ Huỳnh vô cùng, nhưng chúng ta không nên thương tiếc tiếc bằng cách khóc than rầu rĩ. Chúng ta thương tiếc cụ bằng cách, càng đoàn kết chặt chẽ, càng hăng hái kháng chiến, bằng cách, theo gương dũng cảm, noi chí quật cường của cụ, bằng cách, hoàn thành sự nghiệp cứu nước, cứu dân mà cụ đã ra sức theo đuổi suốt đời. Chúng ta phải đồng thanh thề trước tiên linh của cụ Huỳnh rằng.

Đồng bào Việt Nam theo gương kiên quyết của Cụ.

Con Rồng cháu Tiên quyết không làm nô lệ
Tinh thần kháng chiến của cụ Huỳnh sống mãi
Việt Nam thống nhất và độc lập muôn năm !

Ngày 29/4/1947
Hồ Chí Minh.

Ngày 3/5/1947, phóng viên báo Việt Nam đi thăm mặt trận X, may mắn được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đến thăm mặt trận đó. Nhắc đến cụ Huỳnh Bộ trưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rơi nước mắt mà nói rằng.

Cụ Huỳnh là một nhà cách mạng rất kiên quyết, trung thành. Cụ mất là một điều thiệt thòi lớn cho dân tộc, cho Tổ quốc ta, nhưng tôi tin chắc rằng sẽ có hàng vạn hàng ức đồng bào theo gương dũng cảm vì nước vì dân của cụ Huỳnh.

Nhân ngày giỗ đầu cụ Huỳnh, Người có điện thăm hỏi đến gia đình.

Điện gửi gia đình cố Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng

Gửi gia đình Huỳnh Bộ trưởng.

Nhân ngày giỗ đầu cố Bộ trưởng, thay mặt Chính phủ, tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn Cụ và xin gửi gia đình Cụ lời chào thân ái và quyết thắng.

Ngày 21 tháng 4 năm 1948
Hồ Chí Minh.

Nguồn : Bác Hồ với đất Quảng – NXB Chính trị Quốc gia.
 
Tôi là người cộng sản như thế này này !

Bác Hồ của chúng ta, từ sau khi bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba tại Đại hội Tua Đảng xã hội Pháp đêm 30/12/1920, thì cũng từ giờ phút ấy, Người trở thành người cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Đồng thời cũng là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

Từ người yêu nước trở thành người cộng sản, như Người đã nói rõ, là do trải qua thực tế đấu tranh và nghiên cứu lý luận. Người đã hiểu được rằng « chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ ».

Trong gần 50 năm mang danh hiệu người cộng sản, khi thuận lợi, lúc khó khăn, dù chỉ là một người thợ ảnh bình thường hay đã trở thành Chủ tịch nước đầy uy tín và danh vọng, ở buổi cách mạng ròn rã, hay khi bị kẻ thù dồn dập phản kích, lúc nào Bác Hồ của chúng ta cũng tỏ ra là một người cộng sản kiên định, thủy chung, nghĩa khí, thắng không kiêu, bại không nản, vô cùng khiêm tốn nhưng cũng rất mực tự hào về danh hiệu người cộng sản của mình.

Đã có thời, có người nhấn mạnh quá đáng phẩm chất siêu việt của người cộng sản, cho rằng đó là những người có một đặc tính cách biệt riêng,v..v…được cấu tạo bằng một chất liệu riêng đặc biệt. Không biết đó có phải là một trong những nguyên nhân đẻ ra cái gọi là « thói kiêu ngạo cộng sản » hay không ?.

Có điều chắc chắn rằng Bác Hồ của chúng ta không tán thành cách nói thậm xưng đó, nhất là khi vào Đảng cầm quyền, vào lúc cách mạng đang thuận lợi. Người nói, « Đảng viên chúng ta là những người rất tầm thường, vì chúng ta đều là những con người của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động…thế thôi. Chính vì chúng ta rất tầm thường nên Đảng ta rất vĩ đại ».

Người đã từng nói nhiều lần, người cộng sản cũng là con người, nên có ưu, có khuyết, có tốt, có xấu.

Đảng ta không phải trên trời sa xuống, nó ở trong xã hội mà ra. Cũng như người hàng ngày lội bùn mà trên người có hơi bùn, vết bùn. Cần phải tắm rửa lâu mới sạch, vì vậy, Người dạy : Không phải cứ khắc lên trên trán hai chữ cộng sản, là được nhân dân tín nhiệm đâu, phải khiêm tốn, không hiếu danh, không kiêu ngạo, phải nhớ mình là người vừa lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân.

Bác Hồ của chúng ta, trong cuộc đời hoạt động cách mạng đi Âu về Á, đã từng giáp mặt với bao gian khổ, khó khăn ( hai lần ngồi tù. 1913 – 1933 và 1942 – 1943), đã từng lãnh án tử hình vắng mặt ( năm 1929), nhưng vì tin vào lý tưởng, tin vào nhân dân, tin ở chính mình, nên lúc nào Người cũng ung dung, tự tại, luôn thể hiện nhân cách cao đẹp của người cộng sản.

Năm 1931, khi Người bị giam trong nhà ngục Victoria của đế quốc Anh tại Hồng Kông hoặc khi bị bệnh phải đưa vào nhà thương, nhiều ông bà người Anh có quyền thế và cả một số nhân viên người Trung Quốc đã rủ nhau đến xem, ý chừng họ muốn thấy mặt mũi lạ lùng của một người cộng sản ! Cuối cùng, họ đã bắt gặp một nhân cách lớn và họ rất khâm phục và sẵn lòng giúp đỡ từ đó.


Năm 1944, tại Liễu Châu, tuy người được ra khỏi ngục Quốc dân đảng, nhưng vẫn bị quản thúc vì họ biết Người là lãnh tụ cộng sản, không muốn thả cho về nước. Bác Hồ nói thẳng với Trương Phát Khuê. Tôi là người cộng sản, nhưng điều mà tôi quan tâm hiện nay là độc lập và tự do của nước Việt Nam, chính lòng yêu nước, đức độ và tài trí của Bác Hồ đã làm cho Trương cảm phục, trả lại tự do và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Người trở về Việt Nam.

Năm 1946, ở Paris, có một cuộc họp báo, một nhà báo Pháp muốn làm giảm thiện cảm của những người Pháp không ưa cộng sản đối với Bác, bằng cách đưa ra một câu hỏi.

Thưa Chủ tịch, Ngài có phải là cộng sản không ?

Bác Hồ của chúng ta liền đi đến lãng hoa bày trên bàn, vừa rút ra từng bông tặng mỗi người, vui vẻ nói.

Tôi là người cộng sản như thế này này !

Đó cũng là điều giúp ta có thể hiểu được vì sao mấy chục năm qua, thế giới có bao sự thay đổi, Bác Hồ vẫn luôn được cả thế giới tôn kính và ngưỡng vọng coi như một biểu tượng cao cả của nhân đạo, chính nghĩa của hòa bình, một kiểu người cộng sản hài hòa yêu nước và quốc tế, anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa, phương Đông và phương Tây.

Có thể dẫn ra đây một số ý kiến, trong rất nhiều ý kiến của nhà báo Mỹ Sa – phơ –len, viết từ năm 1969.

Trong rừng Việt Bắc, Cụ Hồ như một ông tiên. Nếu có ai bảo đấy là một người cộng sản thì tôi có thể nói Cụ là một người cộng sản khác với quan niệm của chúng ta vẫn thường nghĩ, và theo tôi, có thể dùng một từ mới. Một người cộng sản phương Đông, một người cộng sản Việt Nam.

Nguồn :Bác Hồ, con người và phong cách.
NXB Lao Động.
 
Một lần nhớ mãi

Đầu năm 1967 Bác về Thái Bình, ô tô đưa Bác đến bến Triều Dương thì phải sang phà. Mấy đồng chí ở Tỉnh ủy đến đón, một cán bộ định giới thiệu với Bác, Bác nói.

Thôi, thôi đi về cho sớm.

Ca – nô mắc cạn loay hoay mãi vẫn chưa cập được bến.

Trời chiều, không thể để Bác chờ lâu nên đành phải đưa thuyền nan ra đón Bác vào bờ. Bác trèo lên đê, hỏi cô Định thường vụ tỉnh ủy.

Có còn lối đi nào hứng thú hơn nữa không ?

Cô Định thành thật thưa.

Bác phải đi xe, chứ về chúng cháu còn xa lắm.

Anh cán bộ đi theo Bác cười.

Bác phê bình khéo đấy ! Rồi nói khẽ « tưởng bở »

Về xã Tân Hòa, cán bộ địa phương mời Bác ngồi ghế giữa ưu tiên. Bàn kê thì chật, Bác lựa mãi mới đứng lên được.

Bác mở đầu như một vế đối.

Ghế ưu tiên nên người không nhúc nhích…

Anh chị em chỉ biết cười trừ.

…Đến bữa cơm, Bác giở gói cơm nắm ra ăn. Cô Định cứ năn nỉ mãi, mời Bác dùng cơm nóng, Bác bảo.

Bác dùng cơm này đã quen rồi….

Trong bữa cơm có bát dưa, cô Định cứ gắp mãi dưa.

Bác hỏi :

Dưa có ngon không ?

Cô Định nói một mạch.

Ngon lắm ạ. Tỉnh chúng cháu năm nay trồng dưa thừa ăn còn đem bán cho các tỉnh bạn.

Bác tủm tỉm cười.

Dưa này không phải dưa Thái Bình đâu, dưa Bác đem từ Hà Nội về đấy.

Sau này, cô Định nói. Chỉ một lần ấy mà tôi nhớ đời, học được bao nhiêu điều.


Nguồn : Ban tuyên giáo Trung ương.
 
Bác tặng khăn quàng

Đầu năm 1964, đồng chí Xu – pha – nu – vông và đồng chí Kay – sỏn – Phom – vi – hẳn sang Hà Nội thăm Bác.

Hai đồng chí và Bác gặp nhau, tình cảm Lào – Việt vô cùng thắm thiết. Đồng chí Xu – pha –nu –vông ôm chặt Bác, hai bàn tay Hoàng thân vỗ nhẹ vào lưng Bác một hồi lâu.

Gió mùa đông bắc mới về lùa hơi lạnh vào phòng khách. Thấy Bác húng hắng ho, đồng chí Kay – sỏn nói :

Bác không được khỏe ?

Bác lảng sang chuyện khác :

Ở Lào không rét như ở Việt Nam, các đồng chí có lạnh lắm không? Sao hai đồng chí lại không quàng khăn cổ?

Thưa, hôm sang Hà Nội trời còn ấm…

Bác đứng dậy mở tủ lấy ra hai khăn quàng mới, rồi nói.

Đồng chí Xu – pha – nu – vông và tôi là người già, nhiều tuổi, mỗi người một khăn quàng mới…

Bác tháo chiếc khăn đang quàng, đưa đồng chí Kay – sỏn quàng.

Trên đường về, đồng chí Xu – pha – nu – vông nói.

Chà, Bác với Tôi mỗi người một cái khăn mới. Mới như nhau.

Đồng chí Kay – sỏn thì gật gật đầu.

Còn tôi, tôi “ kế thừa” chiếc khăn quàng của Bác…



Nguồn: Ban tuyên giáo Trung ương.
 
Người công giáo ghi ơn bác hồ.

Ngày 12/6/1987, tại Hội thảo khoa học “ Bác Hồ với Huế - Huế với Bác Hồ” do Thành ủy Huế tổ chức nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày Bác hồ về thăm Đồng Hới – Quảng Bình, lúc đó thuộc tỉnh Bình Trị Thiên, linh mục Nguyễn Văn Ngọc đã kể một kỷ niệm không bao giờ quên của đồng bào công giáo xứ Huế về đức bác ái bao la của Bác Hồ.

Năm 1949, Việt Minh bao vây kinh tế thành phố Huế, Linh mục Nguyễn Văn Ngọc, khi đó, đảm đương công việc ruộng đất của Nhà Chung tại giáo xứ Lương Văn, có trách nhiệm cung câp lương thực để đài thọ cho 600 linh mục, chúng sinh dòng tu nam, nữ của thành phố. Trong điều kiện Huế bị bao vây, linh mục không có cách nào chở được số lúa gạo vào thành phố cho Nhà Chung ăn tiêu.

Linh mục rất lo lắng, đem chuyện này thưa lại với đồng chí Quế, lúc đó là cán bộ Việt Minh của mặt trận Thừa Thiên – Huế, vẫn có liên lạc với giáo xứ Lương Văn. Sau một hồi suy nghĩ, đồng chí Quế khuyên linh mục Ngọc nên viết thư xin phép Bác Hồ, đồng chí sẽ gắng tìm cách chuyển giúp.

Không còn cách nào khác, linh mục Ngọc đánh bạo viết thư lên Cụ Chủ tịch, thực lòng cũng không dám hy vọng sẽ đến được với Bác Hồ trong hoàn cảnh chiến tranh. Người lại quá xa và đang bận rộn trăm nghìn công việc lớn lao của đất nước.

Thật bất ngờ, một tháng sau, đồng chí Quế chuyển đến cho linh mục Ngọc một cái thiếp có chữ kỹ và dấu của Cụ Chủ tịch. Nội dung gồm hai điểm.

1> Cho phép linh mục Nguyễn Văn Ngọc được phép chở 9000 thúng lúa lên thành phố Huế trong vòng một tháng để trợ cấp cho Nhà Chung.
2> Linh mục Ngọc được tự do đi lại trong tỉnh Thừa Thiên để soi sóc ruộng đất của Nhà Chung, tiếp tục trồng cấy, không để ruộng đất bỏ hoang.

Nhờ có giấy phép đặc biệt của Bác, linh mục Ngọc đã hoàn thành được nhiệm vụ, chở được lương thực lên thành phố, cứu nguy cho hơn 600 con người đang trong cảnh nguy cập. Ai cũng mừng rỡ và ca tụng Bác Hồ, vị Chủ tịch có lòng bác ái mênh mông của Chúa, tất cả vì lợi ích và cuộc sống của cong người, không phân biệt lương hay giáo. Bác Hồ đúng là hiện thân của chính sách đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết tôn giáo.

Để kỷ niệm và ghi ơn Bác Hồ, vị giáp mục người Pháp địa phận Huế đã gửi tấm thiếp của Người về Paris và hiện nay tấm thiệp đó vẫn đang được trang trọng lưu giữ tại Hội Thừa Sai Paris.


Nguồn : Ban tuyên giáo Trung ương.
 
Bữa cơm gia đình

Khoảng cuối năm 1951, trong một lần đến thăm và nói chuyện với học viên lớp chính trị quân đội ở Việt Bắc, Bác bảo anh Phương – chồng tôi là cán bộ phụ trách lớp.

Chiều nay, chú cho Bác ăn bữa cơm, vì nói chuyện xong, tối, Bác còn phải đi họp với chi bộ ở Định Hóa.

Bấy giờ, tôi cũng làm văn thư ở Hiệu bộ, nên anh Phương cử người nhắn tôi chuẩn bị.

Công việc của Bác xong xuôi, Bác về đến cơ quan thì cơm nước cũng đã sẵn sàng. Sinh hoạt ở rừng còn thiếu thốn, kham khổ. Anh em muốn bồi dưỡng cho Bác, để Bác khỏe, nhưng lại sợ. Nhưng rồi cũng quyết định thịt một con gà tăng gia kiếm ít măng rừng làm cơm mời Bác.

Bác ngồi vào bàn ăn, bảo anh Văn ( Đại tướng Võ Nguyên Giáp), hai vợ chồng tôi và đồng chí cảnh vệ cùng ăn. Tôi cứ một mực từ chối.

Thưa Bác cháu ăn rồi, mời Bác và các anh, các chú xơi cơm đi…

Mãi sau, Bác mới đồng ý và bắt đầu dùng cơm. Vào bữa cơm Bác nói.

Cô cho Bác xin quả ớt.

Tôi vội thưa:

Thưa Bác trong bát măng có ớt rồi đấy ạ.

Nhưng khi ăn, tìm mãi không thấy ớt.

Tôi ngại quá, bèn nói thật.

Thưa Bác, chúng cháu sợ Bác ăn ớt có hại cho sức khỏe nên không dám cho vào măng nấu ạ.

Bác quay sang anh Phương.

Chắc chú lệnh cho cô văn thư chứ gì. Thế là chú quan liêu rồi…

Anh Văn chỉ tủm tỉm cười nói thêm.

Ớt là ‘‘ vitamin ơ’’ của Bác đấy.

Bữa cơm của Chủ tịch nước giản dị, vui vẻ, thân mật như bữa cơm gia đình ấm cúng.

Cơm nước xong Bác hỏi tôi.

Cô thư ký được mấy cháu, tên là gì ?

Anh Phương đỡ lời tôi.

Thưa Bác, được ba cháu gái, đặt tên là Thu Thủy, Thu Thảo, Thu Vân.

Bác cười hiền từ nói.

Tôi có hỏi chú đâu ! Sao đặt tên văn chương thế ! Gọi là Thu Ngô, Thu Khoai, Thu Sắn có hay không ?


Mọi người cùng cười vui vì biết Bác liên hệ với phong trào tăng gia sản xuất, trồng thêm màu ngô, khoai, sắn…sản xuất nhiều lương thực đóng thuế nông nghiệp, nuôi bộ đánh giặc, mà Chính phủ mới phát động.

Lát sau Bác lại bảo.

Bác nói vui thế thôi. Những cái tên Việt Nam ấy rất đẹp.

Chưa lịp nghỉ ngơi. Bác đã chuẩn bị lên đường, Bác đeo ba lô đi trước, hai đồng chí cảnh vệ, anh Văn bước tiếp sau Bác. Mới đông mà sương chiều Việt Bắc đã xuống rất nhanh tụ thành những đám mây lụa mỏng trắng bìa rừng.

Chúng tôi nhìn theo Bác, ung dung, khoan thai như đi dạo cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, ngỡ ngàng như vừa được qua một giấc mơ đep trong một bữa cơm gia đình.

Nguồn : Ban tuyên giáo Trung ương.
 
Lịch sử ba bộ quần áo của bác

Chủ tịch Hồ Chí minh có hai bộ quần áo được anh em giúp việc đặt tên là « kháng bộ chiến », « bộ ka ki vàng ».

Bộ kháng chiến được may từ khi Bác lên Việt Bắc và Bác đã mặc trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp.

Ngoài hai bộ trên, Bác còn một bộ quân phục màu xanh, một bộ lụa hà đông màu gụ. Mùa rét, Bác mặc bên trong một áo len, khoác ngoài một áo « ba – đờ - xuy » chiến lợi phẩm dài quá đầu gối, của một đơn vị tặng Người, trong chiến dịch Biên giới 1950, khi đến thăm thương binh, thấy một chiến sị bị mất máu nhiều, rét. Bác đã cởi chiếc ba – đờ - xuy này đắp lên người đồng chí đó.

Trên chiếc áo quân phục có một miếng mạng ở vai áo phải, « kỷ niệm » một đầu nhọn chiếc đinh đòn gánh của một cụ già người dân công phục vụ chiến dịch Biên giới, qua suối, trượt chân ngã đã làm toạc vai áo Bác.

Thường khi đưa áo đi giặt, Bác nhắc.

Giặt xong các chú xem áo có chỗ nào sờn thì sửa lại cho Bác, đừng đem nhờ các cô ở cơ quan. Các cô còn bận nhiều việc để dành thì giờ cho các cô chăm sóc dạy dỗ các cháu nhỏ…



Nguồn : Ban tuyên giáo Trung ương
 
Tài ứng khẩu của bác

Bác là một lãnh tụ, nhưng khi hòa mình với nhân dân, không chỉ bằng những lời giáo huấn đơn điệu, mà là sự kết hợp hài hòa giữa tác phong quần chúng, những lời nói dễ bình dị, dễ hiểu và khả năng gây cười, sự dí dỏm tự nhiên. Phản xạ, ứng đáp nhanh nhạy trước mọi tình huống ở Bác có nét đặc trưng riêng, đã trở thành thói quen phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận, thích ứng đối với mọi hoàn cảnh xung quanh. Đó là kết quả của một trí tuệ mẫn tiệp, của thái độ, phong cách quần chúng. Bác luôn tạo không khí hòa đồng, một mối liên hệ gần gũi giữa người nói và, người nghe, xóa đi những cách biệt, những suy nghĩ tự ti của người dân trước lãnh tụ và đưa lại không khí tự nhiên vốn có giữa con người với con người. Nó không chỉ dừng lại ở nghệ thuật ứng xử mà là phản xạ tự nhiên của lãnh tụ rất nhân dân.

Một lần tại bữa tiệc do Hầu Chí Minh ( người góp phần đưa Bác ra khỏi nhà tù của Tưởng Giới Thạch) chủ nhiệm Cục chính trị đệ tứ chiến khu chiêu đãi, hôm đó có Bác và Nguyễn Hải Thần cùng dự, Nguyễn Hải Thần rất tự phụ về vốn Hán học của mình và nhân dịp này đã ra một vế đối.

Hầu Chí Minh – Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh.

( Hầu Chí Minh – Hồ Chí Minh, hai vị đồng chí, chí đều sáng)

Khi mọi người còn đang nghĩ vế đáp, thì Bác ứng khẩu :

Nhĩ cách mệnh ngã cách mệnh, mọi người cách mạng, mạng phải cách.

( Anh cách mạng tôi cách mạng, mọi người cách mạng, mạng phải cách).

Chỗ khó và hay của vế đối là hai chữ « chí » và « minh » là tên của hai nhân vật chính trong bữa tiệc, cái tài tình trong vế đáp của Bác vừa kịp thời, hợp cảnh và chuẩn chỉnh cả ý lẫn từ, nhưng nâng tầm nhận thức, tư tưởng cao hơn, mang tính cách mạng hơn. Hầu Chí Mình hết lời ca ngợi người đối đáp « đối tuyệt lắm, tuyệt lắm ». Nguyễn Hải Thần cung kính thốt lên : Hồ tiên sinh, tài chí mẫn tiệp, bội phục, bội phục.

Năm 1946, Bác sang Pháp, người phụ trách làm hộ chiếu xin phép Bác làm thủ tục. Bác vui vẻ nói : « Chú cứ hỏi, Bác trả lời đầy đủ ». Đến câu thân sinh Bác là gì ? Bác cười hóm hỉnh : « Bác là Hồ Chí Minh thì ông cụ thân sinh là Hồ Chí Thông. Mọi người nhìn nhau cười vui vẻ.

Một lần có nhà báo nước ngoài hỏi Bác « Có phải Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc không ? Bác trả lời : Ông cứ đến ông Nguyễn Ái Quốc mà hỏi.

Lần khác, nhà báo nước ngoài xin phỏng vấn Bác, ông ta đặt câu hỏi. Thưa Chủ tịch, trước hoạt động ở nước ngoài, vào tù ra khám, nay làm Chủ tịch nước. Chủ tịch có thấy gì thay đổi trong đời mình không ?. Bác trả lời hóm hỉnh : Không, không có gì thay đổi cả, lúc bị tù ở Quảng Tây luôn luôn có hai lính gác giải đi, lúc trong tù mỗi ngày 5 phút được hai lính bồng súng dẫn ra dạo chơi. Nay làm Chủ tịch nước đi đâu cũng có hai đồng chí mang súng lục đi theo, ông thấy có gì thay đổi không nào ?. Lần khác, Bác lên tàu đàm phán với Đô đốc Đác – giăng – li ơ ở Vịnh Hạ Long, khi gặp, Bác chủ động ôm hôn Đô đốc, các đồng chí đi theo thắc mắc. Bác nói, đánh nhau thì đánh nhau, mình hôn nó một cái thì mất gì. Hôm sau, báo chí đưa ảnh và bình luận. « Hồ Chủ tịch ôm hôn Đô đốc chính là ôm chặt để bóp chết… ».

Năm 1946, trên đường từ Pháp về Việt Nam, đến vùng biển Cam Ranh. Bác nhận được bức điện của Đô đốc Đác – giăng – li – ơ xin gặp Bác trong cảng, mục đích của chúng là giễu võ, gương oai để uy hiếp tinh thần Bác. Trong bộ quần áo giản dị Bác ngồi giữa một bên là Đô đốc hải quân Pháp, bên kia là Thống soái lục quân Pháp ở Viễn Đông với những bộ quân phục sáng loáng các thứ bội tinh, quân hàm, quân hiệu. Đác – giăng – li – ơ nói bóng gió. Thưa ông Chủ tịch, ông đã bị đóng khung giữa hải quân và lục quân đó. Bác thản nhiên mỉm cười. « Đô đốc biết đó, chính bức họa mới đem lại giá trị cho bộ khung ». Bất ngờ và cay cú trước tài ứng xử thông minh của Bác, cả hai không dám nói xách mé nữa mà tỏ ra lịch lãm và kính phục.

Khi bàn về quy định các phù hiệu đi lại trên xe của Ủy ban Liên hiệp thi hành Hiệp định Gionevo, phía Pháp đề nghị trên xe có hai lá cờ một bên là của ta, một bên là của Pháp, còn phía dưới là cờ của chính quyền Bảo Đại. Việc được hỏi ý kiến Bác, Bác bảo cứ chấp nhận đi rồi sẽ có những diễn biến lý thú. Đúng như Bác nói, khi xe đến đâu dân cũng giễu lá cờ ăn theo ngoại bang. Chuyện tếu lan khắp nơi « 3 cột 3 cờ » có ý nhạo báng cờ Bảo Đại. Bọn bù nhìn ngụy, quyền phản đối đòi thay đổi. Ta lấy cớ, đó là ý của Pháp nêu ra.

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có một cán bộ cấp cao nước ngoài đứng trước hàng quân cứ nói thao thao bất tuyệt, nào là chê ta cái này cái nọ, cứ yêu cầu làm theo họ cái này cái kia. Bác nghe, rất bực nhưng không nói gì. Đến giờ nghỉ, cùng ngồi uống nước, Bác giới thiệu đồng chí Hoàng Đạo Thúy trước đây là hướng đạo sinh, nay là cán bộ phụ trách công tác thông tin của quân đội. Vị cán bộ nọ hết sức thắc mắc vì sao lại giao một nhiệm vụ quan trọng như thế cho một hướng đạo sinh, Bác bảo. Nước chú khác, nước chúng tôi khác. Ông ta chắc hiểu ý Bác.

Đầu năm 1950, Chính phủ Liên Xô mở tiệc chiêu đãi trọng thể Chủ tịch nước láng giềng của chúng ta, Hôm chiêu đãi có mời Bác đến dự. Khi chuyện trò, Bác hỏi đồng chí Liên Xô. « Các đồng chí đã ký hiệp ước với nhau, nhân dịp tôi ở đây chúng ta cùng ký hiệp ước với nhau ». Chuyến đi của Bác lúc đó là bí mật, nên đồng chí Chủ tịch trả lời Bác là : « Người ta sẽ nói đồng chí ở đâu đột ngột đến thì không tiện ». Bác trả lời, cái đó dễ thôi, đồng chí cho một chiếc máy bay đưa tôi bay một vòng trên trời, sau đó cho người ta ra đón, rồi quay phim chụp ảnh đưa tin thế là ổn.

Năm 1967, Liên Xô quyết định tặng bác huân chương Lênin. Nếu Bác từ chối không nhận thì thì không thuận cho quan hệ ngoại giao. Bác vốn xưa nay chưa bao giờ nhận huân chương, lần này Bác có cách từ chối khéo. Bác viết thư chỉ xin hoãn việc trao huân trương, chờ khi nào giải phóng toàn Tổ quốc lúc đó Bác sẽ thay mặt nhân dân Việt Nam, nhận huân chương cao quý đó. Hôm sau, các báo ở Liên Xô đăng trang trọng trên trang nhất quyết định tặng huân chương của Nhà nước Liên Xô và thư của Bác. Qua đó nhân dân Liên Xô càng yêu quý Bác hơn.

Nhớ lần Bác đến thăm một nông trường ngoại ô Ki – ép, Bác đi xuống nơi công nhân đang lao động, thấy Bác mặc giản dị ai cũng quý, cũng muốn đến gần. Khi đó có một cô công nhân đứng cạnh Bác, mạnh dạn hỏi : « Thưa Bác, cháu trộm nghĩ một mình Bác chắn chắn không tiêu hết lương Chủ tịch nước ? ». Bác nhẩm tính và vui vẻ trả lời : thế tính ra lương cháu gấp đôi lương Bác đấy.

Hồi kháng chiến chống Pháp, Bác thường đi xuống thăm các đơn vị cơ sở. Một lần đi thăm xưởng quân giới Lê Tổ. Bác trả lời câu hỏi của chị em ngắn gọn, dễ hiểu. Có người hỏi, khi nào thì đồng tiền Việt Nam trở lại như khi nó mới có. Bác trả lời, khi các cô chú tăng gia sản xuất tăng hai lần thì nó trở lại hai lần, tăng ba lần thì nó trở lại ba lần. Có người hỏi, Đảng ta sắp ra công khai, vậy Bác có ra không ? Cả hội trường cùng cười, Bác nói, đấy là cười trả lời rồi đấy. Tên thật Bác là Bác. Có câu hỏi, khi nào thì Bác có Bác gái ? Toàn thể cười reo, Bác trả lời, khi nào có thì Bác sẽ trả lời. Câu hỏi tiếp, phụ nữ các nước dân chủ họ làm gì ạ ?. Bác trả lời, họ cũng lao động và tăng gia sản xuất, và học hát, các cô các thím thua họ ở chỗ học hát…

Năm 1948, nhân ngày phong Đại tướng chođồng chí Võ Nguyên Giáp, Bác vui vẻ ra câu đối.

« Giáp phải giải Pháp ».

Các vị có mặt gặp thế bí vế đối nói lái này gói gọn ý Đại tướng Giáp phải giải giáp được quân Pháp.

Ông Tôn Quang Phiệt nhìn Bộ trưởng Bộ tài chính Lê Văn Hiến đọc vế đối.

« Hiến tài, tái hiền ».

Bác khen vế đối hay, đạt cả ý lẫn lời, nên Bác tặng tác giả một quả cam.

Sau cuộc họp lớn, giữa trưa hè nắng đẹp, mọi người đứng đâu vào đây cả rồi, thợ ảnh chạy bên này bên kia, chọn góc chụp. Bác đứng cạnh nhà thơ Tú Mỡ, Bác nói vui :

Chú chụp nhanh không thì tất cả bọn này thành Tú Mỡ cả.

Mọi người được phen cười vui vẻ. Bác vừa nói theo nghĩa tiếng Pháp ( tout là tấ cả, mỡ là mồ hôi), vừa theo ý tiếng ta, ngụ ý dí dỏm, vui vẻ.

Đồng chí Nguyễn Đăng Bảy, thời kỳ kháng chiến là phóng viên nhiếp ảnh thông tin Trung ương, khi chụp được một số ảnh của Bác, anh em bàn ra trưng bày triển lãm. Hôm đó Bác tình cờ vào xem, đồng chí đang hý hoáy trang trí. Bác hỏi, « Chú treo được bao nhiêu bức ảnh tất cả ? ». Đồng chí Bảy trả lời Bác là tất cả được 20 tấm ạ, Bác nói : « Hơn chứ, chú đếm lại xem thử. Đồng chí đếm đi tính lại cũng chỉ có 20. Lúc ấy, Bác cười, chỉ vào mình mà nói « Còn đây là chiếc thứ 21 ».

Hôm khai mạc lớp chỉnh huấn có vui văn nghệ. Có đồng chí xung phong lên đọc bài thơ của Huy Cận. Bác hỏi vui, « Cái tác giả bài thơ có ở đây không ?. Nhà thơ Huy Cận thưa có. « Thế thì mời tác giả thật lên đọc đọc bài thơ của mình cho nó thật hơn. Sau Bác hỏi, có chú nào dân tộc Mường lên hát một bài tiếng Mường cho mọi người thưởng thức. Có đồng chí xung phong đọc bài thơ lục bát tiếng Kinh, đọc lơ lớ, bỏ hết dấu, Bác bảo, đấy không phải tiếng Mường.

Bác đến thăm nhà chị Loan, (người kéo cờ ở quảng trường Ba Đình ngày 2/9, sau là phu nhân Đại tướng Hoàng Văn Thái) ở chiến khu. Vào đến nhà thấy đông con nhỏ, Bác nói vui. « Ô tưởng đây là nhà cô Loan , hóa ra vào nhầm nhà trẻ ». Biết Bác phê bình khéo, chị gượng cười và báo cáo : « Thưa Bác đây là tiểu đội của vợ chồng cháu đấy ạ ». Bác vui vẻ bảo chị tập trung tiểu đội cứ lần lượt bé nhất đứng trước để Bác chia kẹo, chị đang loay hoay sắp xếp đội hình. Bác bảo, tiểu đội trưởng cũng đứng vào hàng chứ, Bác chia kẹo cho các cháu và cả chị nữa. Khi đến lượt chị, Bác nói vui, Bác khen là cô có công nuôi dạy các cháu ngoan.

Đồng chí Tạ Quang Bửu sinh cháu trai đầu lòng, Bác có chai mật ong. Bác gửi tặng cháu, tự tay Bác viết « nhãn hiệu » tặng cháu Quang. Thời gian sau, Bác ghé thăm nhà đồng chí Bửu, Bác âu yếm « Thằng Quang đâu ? ». Thằng xã xệ đâu, ra ông bế nào ? Rồi Bác chụp ảnh với cháu và không quên tặng ảnh cho cháu.

Một lần đến dự cuộc họp Trung ương, thấy một cô gái đứng cạnh đường, chào Bác, Bác hỏi, cháu đứng dây làm gì, được biết cô là lính bảo vệ. Bác hỏi vui. Thế cháu đứng bảo vệ Bác thì ai bảo vệ cháu ?

Có lần Bác đến thăm một địa phương, đồng chí Bí thư tỉnh ủy đứng lên thưa với Bác, có câu : « Thưa Bác Hồ, vị cha già dân tộc », Bác ngoảnh lại nói với mọi người. Bác chưa già đâu. Buổi đó Bác được tặng ba bó hoa, Bác hỏi đồng chí Bí thư. Theo chú thì Bác nên tặng hoa cho ai ?. Đồng chí trả lời Bác, thưa Bác, Bác tặng cho phụ nữ, thanh niên. Bác cười và nói vui. Phụ nữ, thanh niên Bác không tặng thì thôi…Bác xuống sân và tặng một cụ già cao tuổi nhất, một cháu thiếu nhi và cho bộ đội.


Nguồn : Hồ Chí Minh, chân dung đời thường.
NXB Lao động.
 
Trong quốc dân đại hội tân trào.

Nhớ lại sự kiện « Quốc dân đại hội Tân Trào, đồng chí Nguyễn Lương Bằng kể.

Ngày 16/8/1945, đoàn đại biểu nhân dân Tân Trào đem , gạo, trâu, bò, gà đến mừng đại hội…Đồng bào bị bòn rút đến tận xương tủy, ai nấy đều tiều tụy, rách rưới. Đáng thương nhất là các em vùng dân tộc thiểu số gầy gò, vàng vọt. Chúng ở truồng tồng ngồng theo người lớn đến chào Quốc dân đại hội.

Bác đến gần các cháu, chỉ vào chúng và nói với các đại biểu. « Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao cho các em bé có cơm ăn, có áo ấm, được đi học, không lam lũ mãi thế này ».

Chúng tôi đều cảm động, câu nói ấy, về sau này, Bác thường nhắc nhở luôn.


Nguồn :Những lần gặp Bác
Báo Nhân dân, số ra ngày 22/9/1963
 
Một ngày thu không thể quên

Chiều thu tháng 8/1942, bầu trời xanh ngắt, gió nhẹ thổi, không gian thoang thoảng mùi hương của đồng lúa sắp chín. Kim Đồng xách ống nước ở dưới suối lên, thấy anh Ngự Mạn đã đợi dưới chân cầu thang, với nét mặt rạng rỡ, anh Ngự Mạn ghé sát vào tai Kim Đồng nói nhỏ.

Có một cán bộ cao cấp vừa đến, cho gọi em lên gấp đấy !

Anh có biết ai không ?

Suỵt… ! Nguyê tắc bí mật cơ mà.

Kim Đồng hồi hộp bước theo anh Ngự Mạn lên ngọn núi sau bản. Đến trước cửa hang Nục Én, anh ra hiệu cho Kim Đồng đợi một chút, lát sau Kim Đồng thấy anh Đức Thanh bước ra, vẫn đôi mắt lúc nào cũng dịu dàng âu yếm, anh đưa Kim Đồng vào trong hang. Trống ngực Kim Đồng bỗng đập rộn lên khi nhìn thấy một « ông Ké » ngồi trên một tảng đá, dựa lưng vào thành hang, chòm râu và mái tóc đã điểm bạc. Trên khuôn mặt gầy, hơi xanh, sáng rực một đôi mắt như hai vì sao lấp lánh. « Ông Ké » nhìn Kim Đồng trìu mến, còn đang lúng túng chưa kịp chào, Kim Đồng bỗng thấy « ông Ké » hỏi :

Cháu là Kim Đồng, đội trưởng Đội thiếu nhi cứu quốc phải không ?

Vâng ạ !

Lại đây với Bác nào !


« Ông Ké » vẫy Kim Đồng lại gần và kéo vào lòng, đưa tay xoa đầu âu yếm.

Cháu có ghét bọn Tây không ?

Dạ, có ạ !

Vì sao nào ?

Vì bọn Tây sang cướp nước ta làm cho dân ta khổ.

« Ông Ké » khen Kim Đồng và đề nghị Kim Đồng kể về hoạt động của Đội cho mọi người cùng nghe. Nghe kể xong « ông Ké » khen Đội có nhiều hoạt động phong phú, mưu trí và dũng cảm.

« Ông Ké » còn khuyên Kim Đồng nói đúng và các đội viên vừa hoạt động, vừa phải học văn hóa, học chính trị để mai này nhà nước độc lập, có đủ tài sức xây dựng đất nước.

Buổi chiều đó Kim Đồng được « ông Ké » giữ lại ăn cơm. Chờ đêm xuống, Kim Đồng được cử theo ba anh đưa « ông Ké » vào Pác Pó an toàn. Do nguyên tắc bí mật ngày đó, Kim Đồng chưa biết được rằng « ông Ké » đó chính là Bác Hồ kính yêu, vị cha già của dân tộc Việt Nam.


Theo cuốn : Bình minh Nà Mạ.
Ban tuyên giáo Trung ương.
 
Bác nhớ các cháu thiếu niên dũng sĩ miền nam

Tháng Chạp năm 1968, các dũng sĩ thiếu niên miền Nam đang học ở Tả Ngạn thì có mấy chú đưa xe ô tô đến đón về Hà Nội. Luyện, Thu, Nết, Phổ, Mên, Hòa…chưa hiểu chuyện có gì. Về Thủ đô hôm trước thì 5 giờ chiều ngày hôm sau có xe đến đón đi, vào đến sân Phủ Chủ tịch mới biết là được vào gặp Bác Hồ.

Vừa bước chân xuống xe, các cháu đã thấy Bác Hồ và Bác Tôn ngồi ở một cái ghế gỗ dài kê trước cửa nhà. Tất cả chạy ào tới chào hai Bác.

Bác cháu trò chuyện với nhau. Sau đó hai Bác bảo :

Thôi, các cháu vào ăn cơm với hai Bác !

Bữa cơm chẳng có thịt cá gì nhiều, nhưng rất ấm cúng. Các dũng sĩ thiếu niên ngồi ăn cùng Bác Hồ, Bác Tôn. Nết người nhỏ quá, cái đầu chỉ lấp ló cạnh bàn, được Bác gắp thức ăn cho luôn.

Vừa ăn, Bác cháu vừa nói chuyện rất vui. Ăn xong, hai Bác cho mỗi cháu một bông hồng, một quả táo, một quả lê và ba quyển sách « Người tốt việc tốt ».

Sau đó, Bác Hồ bảo :

Các cháu lại cả đây hôn hai Bác rồi về.

Các dũng sĩ hôn hai Bác xong, Bác Hồ dặn lại.

Các cháu về trường cố gắng học tập cho giỏi.

Tất cả đều cảm động, Đoàn Văn Luyện lên tiếng thưa với Bác.

Thưa Bác chúng cháu cứ tưởng hai Bác gọi chúng cháu về có việc cần.

Bác Hồ cười hiền từ và bảo.

Hai Bác nhớ các cháu cho nên gọi các cháu về để hai Bác gặp hỏi chuyện.


Nghe nói, Luyện và các bạn cảm động muốn trào nước mắt. Hai Bác tuổi đã cao, trăm nghìn công việc, vậy mà vẫn nhớ đến các cháu miền Nam, Luyện nghĩ.

« Mình được ở ngoài Bắc mà hai Bác còn lo và thương biết chừng nào !... ».



Nguồn : Ban tuyên giáo Trung ương
 
Những vị khách đặc biệt của bác

Vào một buổi sáng mùa thu tháng tám năm 1990, trong đoàn người kéo dài vô tận vào thăm nhà sàn, nơi Bác Hồ kính yêu đã từng sống và làm việc, có hai cha con người Pháp. Người phụ nữ ngoài 50 tuổi, gương mặt sáng, nụ cười tươi tắn, dáng người mảnh mai, đi bên người cha có gương mặt đôn hậu, chất phác. Đó là hai cha con ông Ô – brac, một gia đình người Pháp có nhiều kỷ niệm sâu sắc với Bác Hồ. Người phụ nữ mảnh mai kia là Elizabet người con gái đỡ đầu của Bác Hồ. Đi cùng với dòng người ngắm nhìn vườn cây ao cá, dừng chân hồi lâu bên sàn nhà, ông Ô – brac bảo với con gái mình.

Đây là toàn bộ gia tài của người cha đỡ đầu của con đó, con có hiểu không con ?

Những giọt lệ lăn dài trên má chị, chẳng lẽ Bác Hồ - người cha đỡ đầu của chị không có một cái gì khác ngoài căn nhà sàn đã đi vào huyền thoại về lối sống trong sáng, giản dị, vườn cây, ao cá thiên nhiên xanh ngắt quanh mình. Điều đó khó tin nhưng có thật. Mới đó mà đã 54 năm trời. Biết bao kỷ niệm về Bác Hồ kính yêu không bao giờ phai mờ, nhạt nhòa trong ký ức mỗi thành viên trong gia đình chị. Nhìn những em bé vào Lăng viếng Người, chị càng hiểu sâu sắc câu nói không chỉ ở Việt Nam, mà ở khắp nơi trên trái đất, nơi Bác Hồ đã từng đến, ai ai cũng thuộc.

« Ai yêu nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh ».

….Ngày ấy, khi chị mới sinh ra đời trong một căn nhà hộ sinh ở một làng ngoại ô Paris, lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đang có mặt trên đất Pháp với tư cách là một thượng khách của Chính phủ Pháp. Báo chí xuất bản ở Thủ đô Paris hoa lệ đều trang trọng in trên đầu trang nhất bức chân dung của Bác Hồ với những hành tít lớn trang trọng.

Hội nghị Pontennoblo đang họp, Bác Hồ là thượng khách, tâm trí Người luôn hướng tới việc giành lại nền hòa bình, độc lập cho dân tộc, vấn đề Nam Bộ « là máu thịt của Việt Nam ». Ở trong tòa lâu đài sang trọng, Bác Hồ cảm thấy không thấy thoải mái vì không có vườn cây, thiếu hoa lá, thiếu thiên nhiên. Khi ông O –brac đề nghị Bác đến ở tại ngôi nhà cổ kính của ông ở ngoại ô Paris, Bác Hồ đã nhận lời dọn đến ở 6 tuần lễ.

Nơi đây, cứ chiều chiều sau giờ hội đàm, gặp gỡ với các chính khách, Bác Hồ thường dắt cháu Giăng Pi –e, 7 tuổi, con trai của ông bà Ô – brac chủ nhà, đi dạo chơi khắp làng, thăm hỏi đời sống của bà con lao động, nói chuyện với ông lão trồng hoa, vui đùa với các em bé vùng ngoại ô. Có buổi trưa, Ô – brac còn thấy Bác Hồ đang cùng con trai ông, Giăn Pi –e nghỉ trưa thanh thản trên bãi cỏ trong vườn.

Chính trong dịp này, vào ngày 15/8/1946, gia đình ông Ô – brac đón một tin vui mới, cô con gái út vừa chào đời. Được tin này, Bác Hồ ngồi trên xe có hộ tống đến tận nhà hộ sinh chúc mừng ông bà Ô – brac và cháu bé mới sinh. Bác Hồ đặt tên cho cháu bé là Ba – bet và nhận cháu làm con hái đỡ đầu của Người.

Từ ngày xa Paris, xa vùng ngoai vi Paris trở về nước dù bận trăm công nghìn việc, lãnh đạo nhân dân Việt Nam trong cuộc trường kỳ kháng chiến và những năm hòa bình ở miền Bắc cũng như cuộc đấu tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Bác Hồ vẫn luôn dành tình cảm của mình cho con gái đỡ đầu Ba – bet. Tháng 6/ 1967, ông Ô – brac được Hội đồng các nhà bác học thế giới họp ở Paris nhờ chuyển đến Chủ tịch Hồ Chí Minh một bức thông điệp. Gặp lại ông Ô – brac giữa những ngày Hà Nội đang chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, Bác Hồ rất vui và không quên hỏi thăm về người con gái đỡ đầu Ba - bet của mình. Ông Ô –brac chuyển cho Người món quà mà chị Ba – bet nhờ gửi đến người cha đỡ đầu, một chiếc hộp vuông bên trong đựng một quả trứng được làm bằng từ thứ đá quý. Theo chị cho biết thì quả trứng đó là biểu hiện cho sự sống, tương lai và hoàn hảo. Cha đỡ đầu của chị hiện thân của những điều đó. Khi chia tay, Bác Hồ gởi một tấm lụa nhờ ông Ô – brac chuyển cho con gái đỡ đầu của tôi để cháu may áo cưới.

Hàng năm chị Ba – bet vẫn gửi thư đều đặn cho Bác Hồ. Ngày Bác Hồ qua đời, cũng toàn thể nhân dân Việt Nam và nhân loại yêu chuộng hòa bình, cả gia đình ông Ô – brac vô cùng thương tiếc Người. Bao nhiêu kỷ niệm, những món quà Bác gửi cho chị Ba – bet vẫn còn đó, bức ảnh nhỏ của Người, các con vật dễ thương bằng ngà, bằng sứ, tấm lụa Bác gửi để chị may áo cưới… vẫn còn đây. Và lần này, chị được sang thăm đất nước, thăm nơi ở và làm việc của cha đỡ đầu về tinh thần của mình…

Khi nghe chị thuyết minh nói rằng hai hàng ghế đá và bể cá vàng là nơi Bác Hồ thường dùng để tiếp khách tí hon « khách đặc biệt » của mình, chị Ba – bet nước mắt tuôn trào. Chị lặng lẽ ngồi xuống hàng ghế đá mát lạnh, mắt nhìn những con cá vàng tung tăng bơi lội trong bể, thả lòng mình trong những hoài niệm không bao giờ quên về người, đặc biệt nhất vẫn là các em nhỏ « như búp trên cành ». Được biết chị Ba- bet cũng là một trong những cháu bé ngày nào đã được sưởi ấm bằng muôn vàn tình thương yêu của Bác.


Nguồn : Hồ Chí Minh bên người tỏa sáng.
NXB Thanh Niên.
 
Quà của bác hồ tặng các cháu

Ngày tết dương lịch năm 1960, mọi người lên Phủ Chủ tịch để chúc tết Bác Hồ, các cơ quan, đoàn thể trong nước, đoàn ngoại giao và Ủy ban Quốc tế đều đến đông đủ.


Vẫn trong bộ ka –ki giản dị, với phong thái ung dung, chủ động, Bác đáp lễ vui vẻ và nói lời chúc mừng.

…Sau tiệc ngọt, Bác cầm lấy một quả táo to cùng một túi kẹo đứng lên…

Bác đi đến chỗ ông đại sứ Ấn Độ và hỏi :

Ngài đại sứ có đưa phu nhân sang đây không ?

Vị đại sứ râu hùm, hàm én, lẫm liệt oai phong là vậy, mà lúc ấy, vì vô cùng xúc động trước vinh dự bất ngờ, bỗng lộ vẻ lúng túng, ấp úng đáp.

Thưa Chủ tịch…Cảm ơn Chủ tịch…Tôi chỉ đưa theo sang đây cháu trai năm nay chín tuổi.

Thế thì – Bác Hồ nói – tôi gửi ông mang về cho cháu quả táo này và gửi cháu những cái hôn.

Mọi người đều xúc động và vô cùng cảm phục một cử chỉ vừa thân mật, tự nhiên của Hồ Chủ tịch.

Rồi quay lại phía khách nước ngoài, Bác nói.

Tết nhất, ở nhà các vị chẳng thiếu thứ gì. Nhưng xin các vị hãy cầm chút hoa quả ở trên bàn mang về gọi là quà của Bác Hồ tặng các cháu ở nhà.

Cả phòng khách ồn ào nhộn nhịp hẳn lên. Khách nước ngoài, khách trong nước ùa đến bàn tiệc cầm lấy lê, táo, bánh kẹo, nét mặt hớn hở.


Theo câu chuyện. Quả táo Bác Hồ.
Nguồn: Ban tuyên giáo Trung ương.
 
Bác hồ chứ còn ai

Trong Chiến dịch Biên giới, một lần đi gần tới Đông Khê ( Cao Bằng), Bác rẽ vào một nhà đồng bào nghỉ ngơi. Một em bé Nùng gánh đôi bảng nước từ dưới suối đi lên trông thấy cụ già quen quá mà không rõ gặp ở đâu rồi, em nghĩ chưa ra thì cụ đã tới gần. Giọng cụ ấm áp.

Cháu gánh có nặng không ?

Ồ ! không nặng đâu !

Em bé vội đáp, ngạc nhiên trước cử chỉ của cụ. em xốc lại đòn gánh thong thả bước, Cụ già bước theo lên cầu thang, vào nhà, cụ hỏi em bé.

Cháu tên là gì ?

Là Phấn.

Cụ xoa đầu Phấn.

Pá ( bố) đi dân công phải không ? Cháu làm việc nhiều quá.

Pá đi dân côcng phục vụ chiến dịch. Cháu ở nhà giúp mế ( mẹ) gánh nước, không mệt đâu.

Cụ già lại hỏi :

Cháu có biết đi dân công để làm gì không ?

Đi dân công để giết Tây.

Phấn trả lời cụ già, rồi kể.

Thằng Tây nó ác hơn con cọp ông à ! Tàu bay nó bắn cháy trường cháu ba lần. Bây giờ trường phải rời vào lũng xa lắm. Nó bắn chết cả Pu, con trưởng thôn.

Cụ già đặt tay lên vai Phấn, đôi mắt hiền từ nhìn Phấn khẽ nói.

Bao giờ hết giặc, cháu không phải vất vả như thế này nữa.

Hai Bác cháu nói chuyện thêm một lát nữa. Rồi Bác nhắc Phấn đi ngủ.

Đêm gần về sáng, Phấn còn đang yên giấc ngủ thì cụ già cùng mấy người khác đi. Lúc tỉnh giậy thấy nhà trống trải, vắng vẻ quá, Phấn bật lên khóc. Nhìn lọ thuốc ho, chiếc khăn quàng cổ cụ già cho, lòng Phấn càng nhớ cụ khôn xiết.

Cho đến lúc ấy, Phấn vẫn chưa nhận ra cụ già trọ ở nhà mình là ai ? Mãi đến khi Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi, bố Phấn đi dân công về nghe kể chuyện mới quả quyết với con rằng.

A lúi ! Bác Hồ chứ còn ai !

Và hai bố con rất tiếc, nhưng rất sung sướng là Cụ Hồ đã đến ở nhà mình.


Nguồn : Ban tuyên giáo Trung ương
 
Bác hồ với việc học tập và sử dụng tiếng nước ngoài

Các Mác, Ăng – ghen, Lênin – những lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới đều là những người giỏi nhiều ngoại ngữ. Điều đó đã giúp các ông rất nhiều trong hoạt động khoa học, hoạt động lý luận và vận động cách mạng.

Sinh thời, Mác biết thành thạo 10 ngoại ngữ, đã đọc hầu hết các sách quan trọng của thời đại mình, đọc được tài liệu bằng tất cả những thứ tiếng châu Âu, còn tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh đều viết rất giỏi.

Ăng – ghen biết đến 21 thứ tiếng trong đó có cả những thứ tiếng cổ như tiếng Pháp cổ, tiếng Tây Ban Nha cổ.

Mác và Ăng – ghen khi trên 50 tuổi do yêu cầu phải nghiên cứu về nước Nga mà hai ông đã học thêm tiếng Nga. Chỉ trong thời gian ngắn, hai ông đã đọc được nhiều tài liệu và tác phẩm văn học từ nguyên gốc Nga.

Còn Lênin thì biết thành thạo, đọc và dịch được tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp, đọc được tiếng Ba Lan và tiếng Ý.

Các ông đều là những tấm gương lớn về trau dồi ngoại ngữ, công cụ giao tiếp quan trọng nhất của nhân loại.

Bác Hồ của chúng ta cũng là một tấm gương học tập tiếng nước ngoài thành công trong điều kiện vô cùng gian nan và thiếu thốn.

Hoàn cảnh có khác nhau nhưng các ông đều chung một mục đích đấu tranh cách mạng giải phóng loài người khỏi áp bức, bóc lột, vì xã hội văn minh, vì tình hữu nghị lâu dài giữa các dân tộc. Các ông đều giống nhau ở ý chí tự học không bao giờ ngừng.

BÁC HỒ VỚI TIẾNG HÁN CỔ VÀ HIỆN ĐẠI

Tháng 8 năm 1942, Bác có việc sang Trung Quốc, thì bị bọn Quốc dân đảng bắt. Sau khi bị chúng trói, giải đi suốt 18 nhà tù, từ trại giam này đến trại giam khác, chúng đem Bác về giam ở Liễu Châu. Đấy không phải là một trại giam chính cống, mà chỉ là một « cấm bế thất », một phòng giam nhỏ hẹp ngay bên cạnh đội cảnh vệ của tướng Trương Phát Khuê. Chỉ mình Bác bị nhốt ở đó. Lâu lâu mới có một vài sĩ quan Quốc dân đảng bị phạt vào đó năm bảy ngày. Bác lợi dụng lúc đó để học tiếng « quan ». Trong thời gian 14 tháng bị giam cầm ở Quảng Tây, Bác đã viết « Nhật ký trong tù ». Cuốn sổ nhật ký to bằng bàn tay, dày 47 trang. Trên đầu trang ghi bốn chữ « Ngục trung nhật ký », kèm theo bốn câu thơ và hình vẽ người tù hai cổ tay bị xích. Nhật ký gồm hơn 100 bài thơ chữ Hán bất hủ. Với Bác, đó chỉ là việc làm bằng « tay trái », là một sản phẩm bất đắc dĩ vì « trong ngục tù tối biết làm chi đây », nhưng lại là một sản phẩm nổi tiếng trên thế giớ. Năm 1960, Nhật ký trong tù chính thức ra mắt bạn đọc trong và ngoài nước. Mấy chụ năm qua, tập thơ được in lại nhiều lần ở trong nước, trên thế giớ được dịch ra nhiều thứ tiếng như tiếng Anh, Pháp, Nga, Đức…Ở Mỹ, ngày 11/8/1971, một nhà xuất bản chuyên ấn hành loại sách phổ cập đã đặt in 50 vạn cuốn Nhật ký trong tù. Một tập thơ được xuất bản với số lượng lớn như vậy là điều chưa từng thấy ở Mỹ. Nhiều chiến sĩ đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, bị giam trong các nhà tù của Mỹ, cũng đã thuộc lòng một số bài thơ của Bác. Chẳng phải bây giờ người ta mới thuộc mà trước khi chúng ta xuất bản rộng rãi tập thơ đó, một số đồng chí Trung Quốc đã nhớ nhiều bài trong tập thơ đó.

Quách Mạc Nhược, nhà học giả nổi tiếng người Trung Quốc nhận xét…Có một số thơ rất hay, nếu xếp chung vào tập thơ Đường, Tống e rằng cũng không dễ gì nhận ra. Theo Lỗ Tấn, thơ theo kiểu cổ, đến nay phần nhiều mất hết sức sống, ‘ tất cả thơ hay đến đời Đường đã làm hết rồi, thì đủ thấy trình độ Hán học cũng như thi tài của Bác uyên thâm xuất sắc đến mức nào rồi.

Ngoài « Nhật ký trong tù » ra, Bác còn làm nhiều bài thơ bằng chữ Hán, Bác xen vào nhiều bạch thoại, có khi sửa lại câu thơ xưa cho hợp với hiện thực ngày nay. Điều đó Bác nhớ nhiều và nhớ lâu văn chương cổ điển của Việt Nam, Trung Quốc và vận dụng độc đáo, sáng tạo, linh hoạt trong tác phẩm của mình. Và cũng như trong nhật ký, ngòi bút của Bác chẳng bao giờ ngừng nghỉ, dù là viết chữ Hán đòi hỏi trí nhớ cao. Có thể nói Bác đã « xuất khẩu thành thơ ». Mẩu chuyện nhỏ sau đây chứng tỏ điều đó.

Sau khi kết thúc cuộc đi thăm 10 nước cộng hòa Xô Viết, 19 thành phố và thủ đô trong một tháng trời, sáng ngày 1/8/1959. Bác sang thăm Trung Quốc, trên máy bay, Bác thanh thản đọc sách và ngắm cảnh. Khi bay qua biển cát, đến núi Thiên San, thấy phong cảnh nên thơ, Bác đã làm ngay một bài tứ tuyệt như sau.

Vọng Thiên San.

Dao vọng Thiên San phong cảnh hảo
Tử hà bạch tuyết bão thanh san
Triêu đương sơ xuất xích như hỏa
Vạn đạo hồng quang chiếu thế gian.

Trông núi Thiên San.

Xa xa trông núi Thiên San, phong cảnh đẹp
Răng tía, tuyết trắng ôm lấy ngọn núi xanh
Mặt trời buổi sáng ló ra đỏ rực như lửa
Muôn tia ánh hồng soi khắp thế gian

Bài thơ đã được Bác tạm dịch như sau:

Xa trông cảnh đẹp núi Thiên San
Ráng đỏ vây quanh, tuyết trắng ngàn
Sáng dậy mặt trời đỏ như lửa tía
Muôn hào quang đỏ, chiếu nhân gian.

Bác đã dịch, biên dịch hoặc biên soạn được biết bao nhiêu tư liệu quý báu nhằm phục vụ kịp thời cho cách mạng. Sau hơn 30 năm trời xa đất nước. Bác lại trở về, trong chiếc va - li mây của Bác ( hiện còn ở bảo tàng cách mạng) chỉ vẻn vẹn có mấy thứ, trong đó có quyển lịch sử Đảng Cộng sản ( b) Liên Xô bằng tiếng Hán, Bác lược dịch quyển này làm tài liệu huấn luyện cán bộ. Trên chiếc bàn đá gần suối Lênin, dưới vòm dương xỉ xanh, ngày ngày Bác ngồi cặm cụi dịch quyển này, và từ đây, tức cảnh Pác Pó ra đời.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Khi dịch xong, Bác đã tổ chức ăn mừng, bữa ăn hôm ấy có thịt và rau tươi.

Bác còn lược dịch những điểm cơ bản trong tư tưởng chiến lược, chiến thuật quân sự của Tôn Tử, nhà quân sự nổi tiếng 2000 năm trước đây của Trung Quốc, nhằm bồi dưỡng kiến thức cho mọi người. Và thế là, quyển “ Phép dùng binh của Tôn Tử” ( Binh thư Tôn Tử) ra đời. Quyển này do Việt Minh xuất bản vào tháng 2/1945, nhưng nó đã được dịch từ trước đó khá lâu.

Bác còn biên soạn quyển “ Cách huấn luyện cán bộ quân sự của Khổng Minh”. Quyển này có đề ở ngoài bìa: “ Hồ Chí Minh biên dịch và bình luận”, nói về tiêu chuẩn đức tài, tư cách đạo đức và phép dùng binh cơ bản của một người tướng. Khổng Minh là nhà quân sự nổi tiếng thời Tam Quốc.

Về nghe và nói, Bác cũng thành thạo, cho nên lắm khi ứng đối tài tình với kẻ địch, khiến chúng bối rối. Tiếng Hán ( dù là xưa hay nay) ở trong tay Bác là một công cụ lợi hại, với kẻ thù là một vũ khí sắc bén “ quật vào mặt chúng những làm roi cháy bỏng”, như có người nước ngoài đã nhận xét, nhưng với bạn bè, anh em thì đó lại là phương tiện màu nhiệm, là chiếc cầu hữu nghị để hiểu nhau hơn, cảm thông với nhau hơn, phục vù nhiều hơn cho sự nghiệp cách mạng.


Nguồn: Ban tuyên giáo Trung ương.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top