TƯ TƯỞNG “CON NGƯỜI BẠC MỆNH” TRONG THƠ CA NGUYỄN DU
Chữ bạc mệnh đây không có nghĩa tuyệt đối, mà chỉ có nghĩa tương đối theo vũ trụ luận. Bạc mệnh nghĩa là số phận mỏng manh, nhưng không có nghĩa định mệnh, tức là cố định một cách tiên thiên, mà chỉ là theo luật thừa trừ hay đắp đổi của thiên nhiên. Vả nữa theo quan niệm "lưỡng nghi" của Nho gia, thì bạc mệnh hay hậu mệnh cũng chỉ là hai khía cạnh tất yếu của con người.
Dưới mắt Nguyễn Du, con người sinh trong thế gian với những nguyên nhân cấu thành phức tạp, thì tùy sự pha tạp ấy mà thành trọc hay thanh. Ngoài khí thanh trọc này lại còn ảnh hưởng của vũ trụ vạn vật, nên đã mang sẳn trong mình một tính chất lưỡng phương thanh trọc, thiện ác, sáng tối, hạnh phúc và đau khổ, may cũng như rủi, bế cũng như thông v.v. mà Nguyễn Du gọi là "bỉ sắc tư phong" (cái này nhiều cái kia ít). Vậy con người bạc mệnh hay hậu phước cũng chỉ là truyện thường tình. Nói thế tức là xác nhận con người vốn bạc mệnh từ tự tính, đồng thời đoạn trường cũng do hoàn cảnh nhân sinh gây nên
1 - Bạc mệnh tận bản tính - Nhân tính thành hình do tú khí của trời đất, một thanh một trọc, một tinh thần một vật chất, cho nên luôn luôn có sự tương tranh tương hoà. Nói tương tranh tương hoà là tranh hoà giữa Tính và Tài. Tính đây tức là lý mà tài là khí.
Chu Tử viết :
"Giữa trời đất có lý và khí. Lý tức là đường lối của hình nhi thượng và là căn bản của sự vật. Khí là khí của hình nhi hạ và là thể hiện của sinh vật". (Thiên địa chi gian hữu lý hữu khí. Lý dã giả hình nhi thượng chi đạo dã, sinh vật chi bản dã. Khí dã giả hình nhi hạ chi khí dã, sinh vật chi cụ dã)[25].
Trình Di chú thích tính và lý rõ ràng hơn :
"Tính bản nhiên vốn thiện, tính tức là lý. Mà lý thì Thánh nhân như Nghiêu Thuấn hay thường nhân cũng như nhau cả. Con người có cái bất thiện là do tài. Tài thì bẩm sinh do khí. Mà khí thì có thanh có trọc. Người bẩm thụ thanh khí thì thành thánh nhân, người bẩm thụ trọc khí thì thành ngu nhân"[26].
Sau này Đới Đông Nguyên cũng phận biệt tính với tài một cách dứt khoát hơn :
"Khí là căn nguyên hoá sinh muôn vật, bằng cứ vào căn cơ thì gọi là mệnh, theo bản thể thì gọi là tính, căn cứ theo thể chất thì gọi là tài. Do thành tính mà mỗi vật khác nhau, mà tài năng cũng khác nhau” (Khí hoá sinh nhân sinh vật, cứ kỳ hạn ư sở phân nhi ngôn vị chi mệnh, cứ kỳ vi nhân vật chi bản thủy nhi ngôn vị chi tính, cứ kỳ thể chất nhi ngôn vị chi tài. Do thành tính các thù, cố tài chất diệc thù)[27].
Theo lý thuyết đó, Nguyễn Du đặt con người đứng giữa Tài Mệnh, và dĩ nhiên Tài Mệnh tương đố. Vương Thúy Kiều, vai chính trong truyện Đoạn trường tân thanh là người tài sắc tuyệt trần, vì thế theo luật thừa trừ, nàng phải chịu một số phận vô cùng gian truân, đến phải đoạn trường. Nguyễn Du mở đầu truyện của ông bằng chính quan niệm đó :
"Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen".
(ĐTTT câu 1-6)
Ông đã đưa ra ba nhận xét sâu xa : một là đời người thường có nhiều khổ đau. Hai là càng tài cán thì càng gian truân. Ba là lý do của bạc mệnh dựa trên luật thừa trừ : được cái nọ mất cái kia. Theo lẽ đó, Thúy Kiều trong suốt cuộc đời tài sắc, đã là hiện thân cho bạc mệnh, cho đoạn trường. Cơn đoạn trường, số kiếp long đong đã bám sát cuộc đời nàng, cũng như mọi cuộc đời nữ nhi tài sắc.
Vương Quan, em nàng, khi kể truyện kỹ nữ Đạm Tiên, cũng nói :
"Phận hồng nhan có mong manh".
(ĐTTT câu 65)
Chính Thúy Kiều cũng tự xác nhận điều đó :
”Đau đớn thay ! Phận đàn bà !
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".
(ĐTTT câu 83-84)
........................
”Rằng : hồng nhan tự ngàn xưa,
Cái điều bạc mênh có chừa ai đâu”.
(ĐTTT câu 107-108)
Tâm niệm như thế, nàng nằm mộng thấy Đạm Tiên và tự cho mình có số bạc mệnh giống âm hồn, rồi nghe âm hồn xác nhận :
“Vâng trình hội chủ xem tường :
Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội một thuyền đâu xa?”
(ĐTTT câu 199-202)
Bị ám ảnh bởi lời âm hồn, nàng thâm tín với số phận mình :
"Đoạn trường là số thế nào ?
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
Cứ trong mộng triệu mà suy :
Phận con thôi có ra gì mai sau”.
(ĐTTT câu 231-34)
Cho tới khi nàng đã thâm giao với Kim Trọng qua khoé mắt với bàn tay, qua những cuộc giao duyên thơ đàn, mà nàng vẫn đinh ninh một cung đàn bạc mệnh :
"Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay.
Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời :
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Trông người lại nghĩ đến ta,
Một dầy một mỏng biết là có nên”
(ĐTTT câu 411-16)
Bản chất bạc mệnh của Thúy Kiều đã phát tiết ra ngôn từ, hành động và cả tiếng đàn giọng ca, khiến cho Kim Trọng đã phải thốt nên lời hoài cảm :
"Rằng : hay thì thực rằng hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào...
So chi những bậc tiêu tao,
Dột lòng mình, cũng nao nao lòng người".
(ĐTTT câu 489-493)
Nàng trả lời với một ý thức trọn vẹn :
"Rằng : quen mất nết đi rồi,
Tẻ vui thôi cũng tính Trời biết sao".
(ĐTTT câu 493-94)
Thực ra tận bản tính, Thúy Kiều đã mang nợ đoạn trường, tức là nàng đã mắc vào luật vay trả của trời đất : lãnh thụ nhiều thì phải đền trả nhiều. Đó không phải là định mệnh, mà là luật thiên nhiên. Cuộc đoạn trường càng da diết cũng một phần do mặc cảm của nàng và phần nào do tính tình của nàng, mà ta gọi là cái nhi nữ thường tình của nàng. Nói cách khác : chính Thúy Kiều cũng tự tay tạo nên cái nghiệp của mình. Sau này Đạo Cô Tam Hợp cũng phải xác nhận cách hợp lý rằng :
"Sư rằng : phúc họa đạo Trời,
Cõi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có Trời mà cũng tại ta,
Tu là cõi phúc tình là dây oan.
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng.
Ma đưa lối quỷ đưa đường,
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi".
(ĐTTT câu 2655-66)
Ta thấy rằng nguyên nhân bạc phận ở đây là do Mệnh, lại do tự tính tức tài năng, mà còn do tự tình, tức là tự do của mình.
Qua bài Độc Tiểu thanh ký, Nguyễn Du cũng xác nhận như vậy :
"Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh cũng dở dang.
Nỗi hờn kim cổ Trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang"
(Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư)[28]
Nhưng còn một nguyên nhân đoạn trường không thể tránh né được, đó là hoàn cảnh xã hội nhân sinh, cuộc sống chung đụng giữa người với người : người là nguyên nhân đoạn trường cho người, người là đao phủ cho người.
2 - Cuộc hiện sinh đoạn trường - Quan niệm cổ truyền vẫn cho rằng : kiếp nhân sinh là bể khổ. Thực ra kiếp nhân sinh cũng chỉ là một khung cảnh thiên nhiên, tự nó không có sướng khổ hay tội phúc, mà đó chỉ là môi trường tội phúc hay sướng khổ của con người tiếp xúc với con người mà thôi.
Đạm Tiên, Tiểu Thanh hay Thúy Kiều, ngoài cái lý "hồng nhan bạc mệnh" mà mắc nợ đoạn trường, cũng còn cái lý ”nhân sinh phiền não" nữa. Trong kiếp hiện sinh phiền não, thanh trọc tương phản tương tranh, thì những bậc thanh khí thường là nạn nhân của phường trọc khí. Những con người thanh khí thường đoạn trường do những cái tham sân si của phường trọc khí. Những nỗi tham sân si đó là những cung đàn bạc mệnh não nề nhất.
-Tham dục - Đó là lòng ham muốn nhau của trai gái và lòng mê tham lợi lộc của những kẻ lợi dụng tiền tài hoặc sắc đẹp nữ nhi. Tôi không muốn đề cập đến thiện ác ở đây theo những nguyên tắc luân lý - chính Nguyễn Du cũng không chủ ý nói tới luân lý - mà chỉ có ý nhận xét khách quan về tâm lý thường tình và cuộc hiện sinh của xã hội loài người. Trai gái ham luyến nhau là truyện tâm lý thường tình, và những kẻ lợi dụng sự yếu hèn của kẻ khác để lấp đầy hố tham vọng của mình là những thực tại “buồn nôn" của xã hội, bất cứ ở đây hay ở đâu.
Đạm Tiên là một điển hình cụ thể. Trời cho nàng sắc đẹp, một thứ sắc đẹp khiêu khích dục vọng của đàn ông, như một bông hoa có bao nhiêu ong bướm qua lại, tất nhiên phải tan nát sa rụng. Vì nàng "nổi danh tài sắc một thì", cho nên mới có cảnh giành giật "xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến oanh". Cũng vì có nhiều yến oanh tranh chiếm xôn xao náo động, nàng mới mắc nợ đoạn trường :
"Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay! Thác xuống làm ma không chồng".
(ĐTTT câu 87-88)
Nếu xét theo luân lý khách quan, phải coi Đạm Tiên là kẻ vô luân. Nhưng như trên vừa nói : chính Nguyễn Du cáng không chủ ý nói tới luân lý, nên ông mới để Thúy Kiều biện hộ cho nàng :
"Kiều rằng : những đấng tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh".
(ĐTTT câu 115-116)
Nàng còn tự cho mình là hiện thân của Đạm Tiên :
”Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u uẩn mới là chị em".
(ĐTTT câu 127-128)
Trong suốt cuộc đời Thúy Kiều, lúc nào Đạm Tiên cũng như ẩn ẩn hiện hiện một bên, theo đúng lẽ "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”[29]. Mỗi lúc bế tắc hoặc hanh thông trong đời Thúy Kiều, Đạm Tiên lại xuất hiện như anh hồn hộ mệnh. Trong giấc mơ đầu tiên, nàng báo cho biết : Thúy Kiều được liệt vào bậc nhất trong sổ đoạn trường :
"Ví đem vào bậc đoạn trường,
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai".
(ĐTTT câu 209-210)
Tại lầu xanh của Tú Bà, vì quá nhục nhã nàng dùng dao tự vẫn; trong cơn mê mẩn, nàng lại thấy Đạm Tiên xuất hiện :
"Rỉ rằng : nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao.
Số còn nặn nợ má đào,
Người dù muốn quyết, Trời nào đã cho.
Hãy xin hãy xin hết kiếp liễu bồ,
Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau”.
(ĐTTT câu 995-1000)
Sau cùng tại sông Tiền Đường, Thúy Kiều nhớ lời thần mộng, tưởng mượn dòng nước để rửa sạch nợ đoạn trường, thì Đạm tiên lại xuất hiện như một sứ giả, để rửa tội cho Thúy Kiều, giải thoát nàng cho khỏi nghiệp chướng :
”Mơ màng phách quế hồn mai,
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
Rằng : tôi đã có lòng chờ,
Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
Chị sao phận mỏng đức dầy,
Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai.
Tâm thành đã thấu đến Trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân.
Một niềm vì nước vì dân,
Âm công cất một đồng cân đã già.
Đoạn trường sổ rút tên ra,
Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau”.
(ĐTTT câu 2711-22)
Vì có số đoạn trường, nên đời nàng mới chết chìm nhiều lần trong hố tình duyên. Nàng gắn bó với Kim Trọng, lại phải xa cách chàng :
"Ông Tơ gàn quải chi nhau,
Chưa vui xum họp đã sầu chia ly".
(ĐTTT câu 549-50)
Trên chặng đường đầu của bước lưu ly, nàng đã phải héo tàn dưới bàn tay vũ phu của Mã Giám sinh. Rồi tiếp đến những ngày "liễu ngõ hoa tường" trong thanh lâu, nơi chôn vùi tất cả nhân vị nhân phẩm. Giờ đây nàng chỉ còn là cánh hoa úa tàn :
”Xưa sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dầy gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?”
(ĐTTT câu 1235-38)
Cánh hoa càng úa tàn dưới bàn tay Bạc Hạnh và trong thanh lâu của chàng, để sau cùng một phen tan nát dưới bàn tay vô đạo của Hồ Tôn Hiến. Cung đàn bạc mệnh lúc này càng vang lên một âm thanh não nuột cuối cùng để chờ giải thoát :
”Một cung gió tủi mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Ve ngâm vượn hót nào tầy ?"
(ĐTTT câu 2569-71)
- Sân dục - Đây là nộ khí của những mẫu người lệch lạc, thiên về tính ác hơn tính thiện. Đây cũng là nguyên nhân gia hình cho khách má hồng. Mà nộ khí do sân dục phát xuất thường lại do chính người đồng phái tính. Có thể kể ít mẫu người dưới ngòi bút Nguyễn Du, như Tú Bà, Hoạn Thư.
Tú Bà thật là bàn tay sắt đè nặng trên cuộc đời giai nhân. Thúy Kiều vừa giáp mặt lần đầu tiên, tác giả đã cho nàng thấy một thái độ vô nhân của mụ :
"Mụ nghe nàng nói hay tình,
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên".
(ĐTTT câu 961-962)
Lời lẽ của mụ càng như những mũi tên độc áp đảo giai nhân :
"Con kia đã bán cho ta,
Nhập gia phải cứ phép nhà ta đây.
Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao.
Phải làm cho biết phép tao,
Chặp bì tiên rắp sấn vào ra tay".
(ĐTTT câu 971-978)
Và cứ thế đôi bàn tay oan khốc của mụ cứ tăng thêm đau khổ cho kẻ nữ nhi đọa đầy. Nàng vừa tủi nhục vì bị Sở Khanh lừa dối, lại vừa rước lấy tai họa vào thân. Tú Bà lúc này hiện lên như một ác thần trước mắt giai nhân :
"Tú Bà tốc thẳm đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,
Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời.
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau.
Hết lời thú phục khẩn cầu,
Uấn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa".
(ĐTTT câu 1133-40)
Nhưng có lẽ oan khốc nhất là lửa hờn ghen của Hoạn Thư. Thúy Kiều đã hiểu cảnh chồng chung vợ chạ, mà phải chăng vì có số đoạn trường, nàng vẫn "tìm những chốn đoạn trường mà đi". Trong cuộc ân ái với Thúc Sinh, nàng đã ý thức về số phận và hoàn cảnh của mình.
Nàng đã thổ lộ tâm can với Thúc Sinh :
"Vả trong thềm quế cung trăng,
Chủ trương đã có chị Hằng ở trong.
Bấy lâu khăng khít giải đồng,
Thêm người, người cũng chia lòng riêng tây.
Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho.
Như chàng có vững tay co,
Mười phân cũng đắp điếm cho một vài.
Thế trong dù lớn hơn ngoài,
Trước hàm sư tử gửi người đằng la.
Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng".
(ĐTTT câu 1339-52)
Có lẽ không còn cách nào khác, để mong thoát ly cảnh lầu xanh bỉ ổi, nàng đành chấp nhận mùi giấm chua vậy. Vả nữa nàng cũng có đủ khôn ngoan để đề phòng cơn sóng gió, nhưng vì Thúc Sinh quá yếu lòng, nên đã gây thêm tan nát cho nàng. Vì sự giấu quanh của chàng, Hoạn Thư càng tăng lửa giận :
"Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa.
Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên".
(ĐTTT câu 1537-40)
Hoạn Thư quyết tỏ hết cái "nữ nhi thường tình" cho hai kẻ lén lút biết bàn tay gang thép của nàng :
"Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đoạ cất đầu chẳng lên.
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay".
(ĐTTT câu 1549-52)
.............................
"Làm cho, cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi.
Trước cho bõ ghét những người,
Sau cho để một trò cười về sau”.
(ĐTTT câu 1617-20)
Thế là cung đàn bạc mệnh lại vang lên ai oán. Hoạn Thư ép buộc Thúy Kiều hầu rượu và gảy đàn trước mặt Thúc Sinh, như một nữ tì, cho bõ lòng hờn ghen. Tiếng đàn lúc này là những mũi giùi đâm sâu trong gan ruột, cho đúng ý nghĩa đoạn trường :
”Nàng đà tán hoán tê mê,
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng".
(ĐTTT câu 1851-54)
Sự giận hờn của con người quả thật là một nguyên nhân gây đau khổ tan nát cho con người không kém gì lòng đam mê tham vọng.
- Si dục - Đó là thứ tình yêu thuần trữ, nó tràn lan thúc bách bên trong, để phát ra những cử chỉ khác thường, mà văn chương thường gọi là trữ tình, yêu đến độ si mê, mà không nói nên lời. Dục vọng làm ê chề thể xác, còn trữ tình thường hay dày vò tâm tư. Dục vọng là những nhịp sóng huyết nhục bồng bột, dễ vỡ bờ và mau qua, còn trữ tình hay si tình là những dằn vặt của một mối tình thâm; nó tàng ẩn thúc bách tận tâm can, như một con sâu rúc rỉa trường miên.
Theo quan niệm Nho gia, thì trữ tình si tình là trường hợp của những bậc tài tử giai nhân, mà thâm tình đôn tình là của bậc quân tử. Còn dục tình là của phàm phu tục tử hay tiểu nhân.
Kinh Lễ viết :
"Người quân tử phản lại thường tình, để điều hoà chí lực... cho nên tình bên trong mà thâm hậu, thì phát lộ ra bên ngoài bằng những vẻ đẹp trong sáng" (Quân tử phản tình dĩ hoà kỳ chí... Thị cố tình thâm nhi văn minh)[30].
Theo phái Huyền Học đời Tấn, thì yếu tố tình cảm là căn bản nếp sống của người phong lưu tài tử.
Vương Nhung (234-305) thường nói với các bạn văn nhân :
"Thánh nhân thì quên tình, thứ dân thì chưa biết tới tình, còn như bọn ta mới có tình vàng đá" (Thánh nhân vong tình, tối hạ bất cập tình, tình chi sở chung chính tại ngã bối)[31].
Đạm Tiên, Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hãi đều là những khách phong lưu trữ tình: Tình cảm của tài tử giai nhân gây cho họ nhiều xúc cảm mãnh liệt, mà thường nhân không có.
Sách Thế thuyết tân ngữ kể rằng :
"Vương Khâm khóc cảnh phong lưu của mình, mà than rằng : Vương Bá Dư (tức chính mình) ở đất Lang Da, rồi ắt phải chết vì tình" (Lang Da Vương Bá Dư chung đương vi tình tử)[32].
Những tài tử giai nhân của Nguyễn Du cũng như chính Nguyễn Du đều thuộc loại trữ tình và si tình như vậy. Thúy Kiều khóc vì quá xung động tình cảm, trước nấm mồ vô chủ, trong khi Thúy Vân, người bất cập tình, thì trách chị "khéo dư nước mắt khóc người đời xưa". Tới khi nàng gặp Kim Trọng và đôi bên cảm nhau, thì ôi thôi ! Tình cảm tràn đầy lênh láng, nào là "chập chờn cơn tỉnh cơn mê" hay "rộn đường gần với nỗi xa bời bời", nào là '”ngổn ngang trăm mối bên lòng" hay "nỗi lòng canh cánh bên lòng biếng khuây", rồi hơn nữa "sầu đong càng lắc càng đầy" hay "mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng"...
Cho tới lúc hai người tái ngộ, đi sâu vào tâm tình nhau, thì khúc tình ca càng chơi vơi tràn bờ :
”Từ phen đá biết tuổi vàng,
Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ.
Sông Tương một giải nông sờ,
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia”.
(ĐTTT câu 363-66)
Mối tình tràn đầy tính cách âm dương này khiến nhân tính hầu như không thể cưỡng lại được nữa; cả hai đã mở đầu bài ca chung tình bằng những cung đàn bạc mệnh đầu tiên :
"Khi tựa gối, khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày.
Rằng : hay thì thực là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào".
(ĐTTT câu 487-90)
Từ đó bài ca chung tình lỡ dở, để cho mối tình tài tử giai nhân càng đi sâu vào bi thiết rối loạn. Tới khi Thuý Kiều gặp Thúc sinh và cùng chàng tiếp nối bài ca dang dở, thì tình sâu thẳm vẫn giữ nguyên màu thẳm sâu :
"Một nhà xúm họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông".
(ĐTTT câu 1381-82)
Đường đời lại đưa nàng đến cuộc dang dở thứ hai:
"Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san".
(ĐTTT câu 1519-20)
Thế rồi cuộc tình dang dở sê còn dang dở mãi :
"Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại cách mười quan san".
(ĐTTT câu 1937-38)
Cho đến khi Thúc Sinh nói lên một câu dứt tình, thì thật là hết :
”Liệu mà cao chạy xa bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi".
(ĐTTT câu 1971-72)
Thế là hết những gặp gỡ trao tình. Nhưng tình càng đi sâu vào tâm tư, để chờ bộc phát trong những kỳ ngộ mai sau. Phải kể cuộc kỳ ngộ với người hùng Việt Đông : Từ Hải. Người ta trách Thúy Kiều là kẻ ngoại tình, không phải một lần, mà là hết kẻ nọ đến người kia. Nhưng Nguyễn Du đã trả Thuý Kiều về với nguyên lý âm dương thuần túy và nguyên lý "tương ứng tương cầu”, khi gặp Từ Hải :
"Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cỡi rồng".
(ĐTTT câu 2211-12)
Đây hẳn là cực đỉnh của danh vọng và cũng là cực đỉnh của mối tình vớt vát trong đời nàng. Nhưng chính ở điểm cực đỉnh ấy, nàng đã gảy khúc đàn bạc mệnh đến âm điệu chót :
"Thân sao thân đến thế này,
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi.
Đã không biết sống là vui,
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương.
Một mình cay đắng trăm đường,
Thôi thì nát ngọc, tan vàng thì thôi".
(ĐTTT câu 2611-16)
Kim Trọng cũng thế. Tình yêu là hơi thở là nhịp sống trọn đời của chàng, chứ không phải chỉ là những rung động, những nồng bốc trong giây lát. Đúng theo nghĩa âm dương vàng đá, thanh khí của chàng một khi đã tương ứng tương cầu với Thúy Kiều, thì đôi bên thanh khí như đã giao hoà cấu kết, không ly tán được. Thể xác họ xa nhau, nhưng đôi tâm hồn mãi mãi như ràng buộc lấy nhau. Vì thế sau những ngày phân kỳ, chàng trở về quyết tìm cho được hình ảnh bản ngã thứ hai (le double moi) của mình qua Thúy Kiều. Tìm đến nhà họ Vương, biết Thúy Kiều đã lưu lạc vô tăm tích, tình cảm chan chứa dồn ép từ bao năm, bỗng giàn giụa trên đôi mắt đôi môi chàng :
"Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai.
Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi,
Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê".
(ĐTTT câu 2795-98)
Cho đến khi, vì thể hiện ý của Thúy Kiều mà kết hợp với Thúy Vân, mối tình tinh túy âm dương nguyên thủy vẫn không nguôi được :
”Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng".
(ĐTTT câu 2847-48)
Có thể người ta nghĩ rằng : Kim Trọng là mẫu người lãng mạn ướt át. Nhưng đó là kiểu nói thông thường của văn chương bình dân, nó không hợp với tâm hổn nhân bản của chàng, và không đúng với lẽ tương ứng tương cầu. Tình lãng mạn ướt át là một thứ tình trôi nổi, không mục đích, chỉ lắt lay theo đà lòng bột khởi trong lúc nào đó, và thường thường thiếu thực tế. Ở đây tình của Kim Trọng là tình cốt tủy vàng đá, do bản tính tạo thành; nó mãnh liệt, mà trung kiên bền vững; tuy nhiên nó không mấy khi thoát nổi đoạn trường. Nó không thể lãng mạn lắt lay được, mà chính cuộc đoạn trường da diết lâu dài mới là men nồng cho tình yêu thêm cường độ.
Chung quy, ta chỉ muốn nhấn mạnh rằng : những đau khổ hay những nổi đoạn trường chỉ là những hiện tượng tự nhiên của kiếp sống chung đụng. Nói theo nhân bản thuyết, đó không phải là một điều ác, mà chỉ là một khía cạnh của đời sống xã hội loài người, một xã hội hiện sinh. Trong đó con người với con người, con người với mọi công việc, con người với muôn nghìn hoàn cảnh diễn biến, đã làm thành cái ta gọi là nhân sinh, nhằm phát triển toàn diện con người vật thể, tức là con người hình nhi hạ.
Theo Vũ Đình Trác, Triết lí nhân bản Nguyễn Du