Tự trào trong thơ Tú Xương

  • Thread starter Thread starter Cua Ta
  • Ngày gửi Ngày gửi

Cua Ta

New member
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Xuân Diệu đã có một nhận xét vô cùng hay về tác động của thời gian đối với tác phẩm văn học “Đối với các tác phẩm văn học, thời gian là người vặt lông vịt một cách rất tài tình, vịt khô xù lông ra vẻ béo, vịt ướt lông dính ra vẻ gày, thời gian đều vặt hết lông một cách thật khách quan và bao nhiêu thịt vịt đều hiện ra trần trụi trước mắt”. Thời gian chính là lửa để thử vàng, là thước đo kiểm chứng những giá trị đích thực. Và hơn một trăm năm qua, thời gian đã khẳng định giá trị đích thực của thơ văn Tú Xương. Vượt qua định luật băng hoại của thời gian, sự nghiệp văn chương của Tú Xương vẫn sung sức và tiếp tục băng mình về phía tương lai vô tận.
Bên cạnh việc “không từ một hạng người nào mà không đem ra phúng thế” thì mảng thơ tự trào trong các sáng tác của Tú Xương cũng chiếm một vị trí không nhỏ. Nó là tiếng nói đầy chua xót, tự cười tự chế giễu chính bản thân mình. Đó chính là sự bất lực trước hoàn cảnh thực tại.
Nếu như việc tìm hiểu hiện thực trào phúng trong thơ Tú Xương chúng ta sẽ hiểu được bức tranh hiện thực của cuộc sống đương thời thì việc tìm hiểu tự trào trong thơ Tú Xương chúng ta sẽ thấy rõ được bức tranh chân dung tự họa của con người của Tú Xương. Đó còn là những suy tư, trăn trở, những nỗi đau và trái tim tâm tình của nhà thơ. Thông qua việc tìm hiểu chúng ta sẽ thấy được những điểm mới trong thơ trào phúng Tú Xương, khẳng định giá trị đích thực của thơ văn ông phục vụ cho công việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau này. Cũng bởi niềm hứng thú với thơ Tú Xương và đặc biệt là mảng thơ tự trào của ông đã thôi thúc tôi lựa chọn đề tài Tự trào trong thơ Tú Xương.


2.Lịch sử vấn đề
Là một tác gia trào phúng xuất sắc con người và sự nghiệp sáng tác của Tú Xương đã được nhiều tác giả lưu tâm trong các công trình nghiên cứu.
Qua quá trình phân tích tổng hợp, chúng tôi nhận thấy có hai hướng chính nghiên cứu về con người cũng như sự nghiệp thơ văn Tú Xương:
Hướng thứ nhất: bao gồm những công trình, bài nghiên cứu chuyên luận về tiểu sử, sự nghiệp của Tú Xương. Ta có thể kể đến một số công trình lớn như: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX của Nguyễn Lộc (phần viết về Tú Xương), Tú Xương – tác phẩm và giai thoại của Đỗ Huy Vinh, Thơ Tú Xương của Phạm Vĩnh, Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm của Nguyễn Văn Sỹ,…
Hướng thứ hai là các công trình, bài viết đánh giá, bình luận về nội dung, nghệ thuật của qua các sáng tác của Tú Xương, nổi lên như: Thơ văn Trần Tế Xương – tác phẩm và lời bình của Tuấn Thành, Anh Vũ, các bài viết chuyên luận “Thơ văn Tú Xương” của Đỗ Đức Hiểu, “Nghệ thuật Tú Xương” của Trần Thanh Mai – Trần Tuấn Lộ, “Hiện thực và trữ tình trong thơ Tú Xương” của Nguyễn Tuân…
Nhìn chung các công trình nghiên cứu cũng như chuyên luận đều mang tính khoa học cao và góp phần làm sáng lên giá trị nghệ thuật, giá trị nội dung hiện thực,trữ tình trong thơ Tú Xương. Ở đó con người và tác phẩm của Tú Xương được khẳng định và phân tích.
Là một nhân tố làm nên tính chất trào phúng độc đáo ấy, yếu tố tự trào trong thơ Tú Xương nắm một vị trí không nhỏ. Trong bài viết “Nụ cười giải thoát và cá nhân tự khẳng định trong thơ Tú Xương” (Trần Đình Sử): “Tự cảm thấy không phải với vợ con và chính mình, nhà thơ đã dùng tiếng cười tự trào để giải thoát cho mình, tự khẳng định nhân cách của mình tạo thành một thế cân bằng mới”. Bài viết đã khái quát nguyên nhân dẫn đến sự hình thành yếu tố tự trào trong thơ Tú Xương.
Nguyên Lộc với bài “Cái tôi trong thơ Tú Xương, một điển hình nghệ thuật” đã nhận xét : “Tú Xương là một nhà thơ, có lẽ khác với các nhà thơ khác, ông không giấu giếm mà còn thích phô trương sự ăn chơi của mình” khẳng định tính chất thẳng thắn trong những bài thơ tự trào của Tú Xương.
Bài viết “Tú Xương với kiểu tự trào thị dân” Đoàn Hồng Nguyên đã đưa ra một số kiểu tự trào trong thơ Tú Xương và đi đến khẳng định “Trong cảm thức thị dân, bằng lối tự trào, tự vịnh, Tú Xương đã tạo nên một kiểu hình nhà nho thị dân, một kiểu trữ tình phúng thế thị dân”.
Các công trình, bài viết nghiên cứu đã giúp tôi có định hướng để tiếp tục nghiên cứu đề tài nhằm hoàn thành đề tài được có chất lượng hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài, đối tượng nghiên cứu mà tôi tập trung hướng đến là yếu tố tự trào, tự giễu những “thói hư, tật xấu” của chính bản thân trong thơ Tú Xương. Tôi tiến hành nghiên cứu trong phạm vi những bài thơ, câu thơ có chứa yếu tố tự trào của Tú Xương trong cuốn Thơ văn Trần Tế Xương của Nguyễn Đình Chú và Lê Mai (1984), NXB Giáo dục.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp so sánh – đối chiếu
- Phương pháp giải thích – chứng minh
- Phương pháp thống kê




NỘI DUNG
1. Một số nét về tác giả - tác phẩm
Tú Xương tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích. Tên bố mẹ đặt cho lúc đầu là Trần Duy Uyên, đến khi thi hương mới đổi là Trần Tế Xương. Tú Xương sinh ngày 10 tháng 8 năm Canh Ngọ (tức ngày 5 tháng 9 năm 1870). Cái tên Trần Tế Xương lại được đổi thành Trần Cao Xương để được gặp vận may trong thi cử nào ngờ vẫn hỏng thi:
“Tế” đổi thành “Cao” mà chó thế
“Kiện” trông ra “tiệp” hỡi trời ơi
Hỏng thi và nghèo túng, cuộc đời riêng của Tú Xương gặp rất nhiều trắc trở, khó khăn. Tuy nhiên, nhờ cuộc sống ấy nhà thơ đã thấu hiểu một cách sâu sắc cảnh ngộ của quần chúng, thấy rõ cảnh đời đen bạc, lố lăng của xã hội. Từ đó thơ ông nêu bật lên tiếng nói tố cáo đanh thép cái xã hội ấy.
Bức tranh xã hội trong thơ Tú Xương trước hết là bức tranh của thành phố Nam Định những năm giáp ranh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, khi viết về Nam Định, Tú Xương không hề bó hẹp trong một địa phương, mà có tính chất tiêu biểu cho bức tranh chung của xã hội Việt Nam trong buổi giao thời, từ một xã hội phong kiến chuyển sang xã hội thực dân bán phong kiến. Cái đặc sắc của ông là thông qua những bài thơ nhỏ như những bức ký họa, nhà thơ làm nổi bật lên sự chuyển hóa ấy.
Thơ Tú Xương phản ánh cái bộ mặt xấu xa của thời đại, đồng thời cũng phản ánh tâm sự của những người thất thế trước sự xa đọa của xã hội mới. Nó mô tả xã hội cũ đang tàn với những con người nghèo khổ, băn khoăn ấm ức và xã hội mới với những con người lố lăng giả dối không chút lương tâm, “rủng rỉnh” đồng tiền, ngoi lên địa vị thống trị.
Thơ Tú Xương đi bằng hai chân hiện thực và trữ tình, hiện thực và lãng mạn. Hiện thực là chân trái, lãng mạn là chân phải. Cái chân phải lãng mạn đã khiến cái chân trái hiện thực, để cả hai cùng đi về phái tương lai vô tận.
2. Nét đặc sắc tự trào trong thơ Tú Xương
Hầu như nhà thơ, nhà nho nào cũng có một vài bài để tự trào, tự thuật. Trong nụ cười mang tính chất tự tiếu và tiếu ngã ấy các nhà nho đã đem bản thân ra làm đối tượng để cười: cười bản thân mình để tự răn mình tránh vấy bẩn những điều ô trọc. Lịch sử văn học trước Tú Xương có các tên tuổi nổi tiếng trong làng tự trào như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến… nhưng cũng có khi tự cười là để tỏ thái độ phản kháng thực tại như trường hợp thơ văn của Phạm Thái.
Tuy nhiên do tính chất giáo hóa và quy phạm phi ngã hóa của văn chương nhà nho nên hình thức tự trào trong thơ trào phúng nhà nho không phát triển thành dòng thơ tự trào mà chỉ dừng lại ở mức độ như một kiểu “ngôn chí” của các nhà nho.
Đến với Tú Xương, nhà thơ đã thay những quy phạm có tính chất phi ngã ấy bằng một giọng điệu tự trào, tự vịnh đầy bản ngã. Tú Xương trở thành bậc thầy và là người khai sáng ra dòng thơ trào phúng trong bộ phận văn học viết nói chung và của văn chương nhà nho nói riêng qua kiểu tự trào đầy bản ngã.
Nếu như Nguyễn Khuyến với kiểu tự trào ý nhị, kín đáo thông qua hình ảnh để nói về mình tiểu biểu như một số bài: Vịnh tiến sĩ, Vịnh Kiều, Tạ người tặng hoa trà, Thân già… và Ông phỗng đá:
Ông đứng làm chi đó hỡi ông
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày giữ gìn cho ai đó
Non nước đầy vơi ông biết không?
Tú Xương tự trào một cách trực tiếp, không hề giấu giếm tật xấu của mình. Trong kiểu tự trào phủ định, Tú Xương có một lối trào lộng vô cùng độc đáo. Đó là bức chân dung hí họa về hình dung của chính bản thân mình. Trước hết đó là một hình dung xấu xí khác thường:
Râu rậm bằng chổi
Đầu to tày đình
(Thầy đồ dạy học)
Và rồi ông lôi “tất tần tật” những tật xấu của mình để mà tự giễu. Đó là sự ăn diện, nét phong lưu, tài ỷ lại…ông không tiếc lời để nói về những tật xấu của mình:
Vị Xuyên có Tú Xương
Dở dở lại ương ương
Cao lầu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường
Ở phố Hàng Nẫu có phỗng sành
Mắt thời thao láo mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ con bu nó,
Quắc mắt khinh đời, cái bồ anh
Bài bạc, kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè, trai giá đủ tam khoanh
Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi
Cứ việc ăn chơi chẳng học hành
(Tự cười mình)
Thường thì người ta “cái tốt khoe ra, xấu xa đậy lại”, đằng này, Tú Xương chẳng hề hấn gì hết, ông kể tất cả, không chút ngại ngần. Thậm chí, ông còn thích phô trương sự ăn chơi của mình:
Nghiện chè, nghiện rượu, nghiện cả cao lâu,
Hay hát, hay chơi, hay nghề xuống lõng
Quanh năm phong vận, áo hàng Tàu, khăn nhiễu tím, ô Nhật Bản xanh
Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng
(Phú hỏng thi)
Dưới ngòi bút của Tú Xương, mọi khía cạnh của bản thân ông đều trở nên xấu xí để làm đối tượng trào lộng. Hết những ăn chơi ông quay sang kể dến những sự dốt nát của bản thân để cợt nhả:
Có một thầy,
Dốt chẳng dốt nào,
Chữ hay chữ lỏng
(…)
Sách vở mập mờ
Văn chương lóng ngóng
(Phú hỏng thi)
Ý hẳn thầy văn dốt vũ dát,
Cho nên thầy luẩn quẩn loanh quanh
(Phú thầy đồ)
Tấp tểnh người đi tớ cũng đi
Cũng lều cũng chõng cũng đi thi
Tiễn chân cô mất ba đồng chẵn,
Sờ bụng thấy không một chữ gì…
(Đi thi)
“Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy” (Buồn hỏng thi), Tú Xương đã hăm hở thì những mong đem tài năng và sức lực của mình để phục vụ non sông đất nước. Thế nhưng, giấc mộng cao cả ấy không thành, ông cảm thấy chán nản, thất vọng. Và những bài thơ tự trào ra đời. Ông trách bản thân mình, cười vào tài năng của mình để vơi đi nỗi buồn hỏng thi đó. Nhưng sự thật, chúng ta biết, Tú Xương không phải là kẻ bất tài, mà do tính cách của ông thì làm sao lễ giáo phong kiến có thể chấp nhận cho được.
Trong cuộc đời của mình, một niềm may mắn lớn đã đến với ông. Ông đã lấy được bà Tú – bà Trần Thị Mẫn, một người phụ nữ đảm đang, tháo vát, hết mực yêu chồng thương con. Bà là người phụ nữ điển hình cho người phụ nữ Việt Nam “biết hi sinh nên chẳng nhiều lời”. Bà gánh trên vai gánh nặng “năm con với một chồng” (riêng ông Tú phải mắc ra một đầu đòn gánh mới cân), lo cho gia đình đủ ăn, ông Tú lại có tiền để mặc sức đi thi, mặc sức ăn chơi, phong lưu. Biết vợ mình “lặn lội thân cò” vất vả toan lo, Tú Xương không thể làm gì cho vợ. Ông đã giễu đức ông chồng vô tích sự, là một “thứ con cao cấp” của vợ:
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ
Đem chuyện trăm năm trở lại bàn
(Quan tại gia)
Ngồi đấy chả hơn gì chú Cuội,
Nói ra thì thẹn với ông Tơ
(Ta chẳng ra chi)
Thậm chí, ông đã cất lên một tiếng chửi đổng:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
(Thương vợ)
Đó là tiếng chửi đời, hay chính bản thân mình khi trở thành gánh nặng trên đôi vai nhỏ nhắn, cần biết bao sự che chở của người vợ đáng thương, nhận những đồng tiền mà vợ mình phải toan lo khó nhọc mới có được để nướng vào những cuộc ăn chơi của mình. Thế nhưng ông cũng đành bất lực. Chửi vậy thôi nhưng đâu có thay đổi được gì, có bớt được gánh nặng cho vợ được đâu. Tuy nhiên, việc Tú Xương cất lên câu chửi như vậy đã làm hả hê cho bà Tú biết bao. Nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại đã viết “Cách châm biếm của Tú Xương đối với vợ là một cách biểu lộ nỗi âu yếm thiết tha, lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ”.
Tuy có “ăn lương vợ” với những cuộc ăn chơi của mình, nhưng có những lúc Tú Xương nhận ra cảnh nghèo của bản thân của gia đình mình:
Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông,
Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không.
Một đàn rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
Thêm vào cảnh nghèo đói là nạn đông con:
Gạo cứ lệ ăn đong bữa một
Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi
Nghèo đến độ phải tính đến chuyện bán đi tất cả:
- Lúc túng toán lên bán cả trời
- Vợ lăm le ở vú
Con tấp tểnh đi bồi
Nói về cái nghèo của bản thân Tú Xương đã lên tiếng tự trào về sự bất lực của mình trước cảnh gia đình. Thậm chí đến lúc nghèo đã nghĩ đến cảnh vợ con đi “ở vú” và con “đi bồi”; Nói thì dễ dàng thôi nhưng chắc chắn khi thốt lên những câu như vậy chắc hẳn ông đã trải qua cảm giác vô cùng đau khổ. Bởi vì một người đàn ông là trụ cột trong gia đình lại đành bất lực nhìn vợ con quay quắt, thậm chí phải hi sinh cho mình quá nhiều.
Không chỉ tự trào chân dung của bản thân, Tú Xương cũng đã cười nhạo sự bất lực trước thời cuộc của ông trong tư cách công dân:
Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rông
(Giễu người thi đỗ)
Lôi thôi sĩ tử đeo vai lọ,
Âm vị quan trường miệng thét loa
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra
(Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu)
Tú Xương tả thực những cảnh đối chọi nhau chan chát: cái váy đối với cái lọng, cái đít vịt của mụ đầm đối với cái đầu rồng của ông cử. Như vậy thật là tuyệt xảo, hai từ “ngoi” và “ngỏng” đối nhau thật sướng vô cùng và cũng thật đau xót làm sao. Hình ảnh “váy lê quét đất” chốn quan trường lúc bấy giờ, khi có hình ảnh bà đầm xuất hiện đã làm mất hết tính chất uy nghiêm của trường thi. Không những thế, cảnh tượng bi hài ấy, trong hình ảnh “ông cử”, “sĩ tử” ấy có cả nhà thơ trong “đàn hỏng đứng mà trông”. Chế giễu đám “ông cử”, “sĩ tử” cũng chính là Tú Xương tự giễu cợt sự bất lực, kém cỏi của chính ông.
Cuộc đời Tú Xương lận đận về danh vọng, không tự khẳng định được mình bằng thi cử, cảm thấy thua kém bạn bè (Thua mãi anh em cánh Bắc Kỳ - Buồn hỏng thi). Đã không làm quan cho vẻ vang dòng họ và nuôi sống gia đình, lại còn thích ăn chơi: cao lâu, cô đầu, ăn diện thanh lịch, chẳng ra quan, chẳng ra dân túng thiếu thường xuyên. Tự cảm thấy không phải vợ con và với chính mình nhà thơ đã dùng tiếng cười tự trào để giải thoát cho mình, tự khẳng định nhân cách của mình, tạo thành một thế cân bằng mới.
Tự trào bằng cách tự chế giễu cái xấu của bản thân, trong sự tự cảm nhận không phải là Tú Xương muốn tự đề cao bản thân mình. Với một tiếng cười “phi ngôn chí” , tiếng cười của ông có mục đích, đối tượng rõ ràng. Ông chế giễu cái dốt nát, nhếch nhác, thảm hại của nhà nho phong kiến, chế giễu tính ăn bám của đức ông chồng trong chế độ gia trưởng phong kiến, chế giễu sự hèn kém của một kẻ sĩ trong tư cách công dân của một nước nô lệ. Bằng kiểu tự trào phủ định, Tú Xương đã chế giễu, đã phê phán tính chất hủ lậu của kẻ sĩ phong kiến và phủ nhận cả những khuôn phép lỗi thời của xã hội phong kiến. Không chỉ hết lời tự giễu mình, trong kiểu tự trào khẳng định ta thấy xuất hiện một hình ảnh Tú Xương hoàn toàn khác:
Kìa thơ tri kỉ đàn anh nhất,
Nọ khách phong lưu bậc thứ nhì
Ăn mặc vẫn ra người thiệp thế,
Giang hồ cho biết bạn tương tri
(Tự đắc)
Cũng lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo,
Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh, tự đốm, tam khoanh
Nhà lính tính quan: ăn rặt những thịt quay, lạp xường, mặc rặt những quần vân, áo xuyến;
Đất lề, quê thói: chỗ ngồi cũng án thư, bàn độc, ngoài hiên cũng cánh xếp, mành mành.
(Phú thầy đồ)
Đó là một hình ảnh ông Tú tài hoa phong lưu, thiệp thế của chốn thị thành. Một ông Tú nồng hậu trong tư cách làm chồng:
Mình đi tu cho thành tiên thành Phật, để rong chơi nơi Lãng Uyển, Bồng hồ
Tớ nuôi con cho có dâu có rể, để trọn vẹn đạo chồng, nghĩa vợ
(Văn tế sống vợ)
Một ông Tú tu chí, thiết tha với vận nước:

Năm nay ta học năm sau đỗ,
Chẳng những Lương Đường đỗ thủ khoa
(Than thân chưa đạt)
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
(Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu)
Qua những lời thơ trên, với việc xuất hiện hành ảnh Tú Xương hoàn toàn mới khác với bức chân dung hí họa ở trên, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh một con người đầy bản ngã. Một con người với những phẩm chất tốt đẹp, những ý trí và hoài mộng thiết tha muốn làm nên sự nghiệp phục vụ nước nhà. Mặc dù những hoài mộng không thành, Tú Xương chỉ có thể cất lên tiếng chửi đời, bó tay bất lực trước thời cuộc, nhưng với bản ngã ấy Tú Xương đã thực sự khẳng định được mình.
Tự phô mình trong mọi góc cạnh, Tú Xương đã phác họa nên một chân dung của chính mình một cách độc đáo và đặc sắc. Ở đó, người ta không thấy khinh ghét những tật xấu của ông Tú, không thấy coi thường sự nghiệp công danh “ăn lương vợ”, cũng không oán trách ông Tú bất lực trước hoàn cảnh gia đình và xã hội mà người ta có cái nhìn đúng đắn hơn về thời cuộc, hiểu được tấm lòng, con người của Tú Xương trong một thời đại đầy biến động như vậy.
Tú Xương đã khắc họa một cách sinh động chân dung ấy qua hình ảnh nhà nho phong mạt vận và hình ảnh một thị dân của buổi giao thời phong kiến tư sản. Tạo nên sự tồn tại song song hai con người nhà nho và thị dân làm nên một sự chênh vênh thảm hại vừa hài vừa bi trong chân dung tự họa của chính mình. Dù sao đem bản thân lên bàn mổ xẻ của trào phúng, đặt mình vào bình diện của đám đông, Tú Xương vừa tỏ ra biết điều, vừa vượt xa cái lối “tự trào” còn vướng chủ quan và tự ái của Hồ Xuân Hương, của Nguyễn Khuyến, lại đồng thời khơi rộng đối tượng của văn chương trào phúng tới một mức cao đáng phục.
Trong kiểu tự trào, Tú Xương đã sử dụng thành công nghệ thuật trữ tình. Nó đã giúp nhà thơ bày tỏ tập trung nhất, chân thành nhất, những vần thơ xót xa nhất, những tiếng lóng ai oán nhất của ông. Một nghệ thuật nữa được Tú Xương sử dụng đắc điệu chính là nghệ thuật hiện thực. Ông không hề dùng hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng mà là những hình ảnh chân thật xuất phát từ chính cuộc sống của ông. Những hình ảnh ấy rất gần gũi với cuộc sống lao động. sinh hoạt của nhân dân. Ngòi bút tương phản, nghệ thuật trào phúng bậc thầy đã chắp cánh cho những vần thơ Tú Xương trở thành những mũi kim, những đòn roi quất thẳng vào những tệ nạn trong xã hội. Thậm chí khi thể hiện bức tranh chân dung tự họa bản thân, ngòi bút châm biếm ấy cũng không tha cho chính bản thân mình. Chính vì vậy, bức tranh ấy hiện ra một cách chân thực, sắc sảo đầy khách quan. Nét nghệ thuật đó là tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Tú Xương. Đó cũng chính là lý do để thơ Tú Xương tồn tại lâu dài trong lòng người đọc.











KẾT LUẬN
“Đã vừa nửa thế kỷ nay nhà thơ non Côi sông Vị đã trả lại hình hài cho cát bụi, tiếng nói của ông, tiếng nói của thi ca, của trào phúng đạt đến mức Chân – Thiện – Mĩ vẫn còn vang dội non sông đất Việt. Trần Tế Xương là một thiên tài trào phúng đã đi vào cõi bất diệt” (Trần Sỹ Tế).
Tú Xương không phải là người mở đầu cho dòng thơ trào phúng nhưng ông là người có đóng góp rất lớn trong việc nâng thơ trào phúng lên một tầm cao mới, đặc biệt tự trào trong thơ Tú Xương đã vượt hẳn ra ngoài kiểu tự trào “ngôn chí”, “có phần phóng túng trong vòng cương tỏa của lý tưởng nhà nho”.
Với một bức chân dung tự họa đầy thật thà về bản thân, Tú Xương đã vẽ nên cả một tư tưởng, môt tâm hồn của một nhà nho trước hoàn cảnh thực tại của gia đình, đất nước. Ông phẫn chí vì thi hỏng, không mang tài năng của mình ra để trả “nợ công danh”, “nợ tang bồng” lại trở thành một ông chồng “vô tích sự” không giúp được gì cho vợ con bớt đói khổ. Tú Xương đã cất tiếng cười thật to, thật lớn, cái cười chỉ trực trào ra nước mắt về sự bất lực của bản thân. Nhưng chính cách đánh trực diện vào bản thân mình ông đã tìm được niềm đồng cảm xâu xa của người đọc.
Bên cạnh đó thái độ tự trào của Tú Xương là nụ cười sảng khoái của cá nhân muốn được tự khẳng định mình. Đóng góp to lớn của Tú Xương đã đưa dòng văn học hiện thực trào phúng lên đỉnh cao, đặc biệt với kiểu tự trào mới mẻ mà “nhà nho chưa hề có và cho đến nay văn chương trào phúng hiện đại cũng hiếm có một kiểu tự trào độc đáo như vậy”.
Sau này, đã có nhiều nhà thơ tiếp tục sáng tác thể thơ trào phúng, nhưng Tú Xương vẫn là “ông tổ” của làng thơ trào phúng Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Tú Xương còn sống mãi đến mai sau:
Kìa ai chín suối Xương không nát
Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn
(Nguyễn Khuyến)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đình Chú, Lê Mai (1984), Thơ văn Trần Tế Xương, NXB Giáo dục, H.
2. Nguyễn Văn Huyền (tuyển chọn) (1986), Tú Xương tác phẩm và giai thoại, NXB Hội VHNT Hà Nam Ninh.
3. Lê Đình Kỵ (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, H.
4. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX, NXB Giáo dục, H.
5. Đỗ Quang Lưu (tuyển chọn và giới thiệu) (1978), Tập nghị luận và phê bình văn học chọn lọc, NXB Giáo dục, H.
6. Nguyễn Đăng Na (chủ biên) (2007), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam tập 2, NXB Đại học sư phạm.
7. Nguyễn Phong Nam (2003), Giáo trình văn học Việt Nam (lưu hành nội bộ), Đà Nẵng.
8. Trần Đình Sử (tuyển chọn) (2006), Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
9. Vũ Văn Sỹ (2001), Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, H.
10. Tuấn Thành, Anh Vũ (2005), Thơ Trần Tế Xương, tác phẩm và những lời bình, NXB Văn học.
11. Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, H.
12. Lê Trí Viễn, Phan Côn, Đặng Thanh Lê, Phạm Văn Luận, Lê Hoài Nam (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, H.
13. Đỗ Huy Vinh (2001), Tú Xương và giai thoại, NXB Văn hóa dân tộc.
14. Phạm Vĩnh (1992), Thơ Tú Xương, NXB Văn học.
15. Phạm Tuẫn Vũ (2007), Văn học trung đại Việt Nam trong nhà trường, NXB Giáo dục, H.









:26::26::26::26:.Hãy để tâm hồn cuốn theo gió....
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top