Tư liệu về anh hùng Tây Sơn-Nguyễn Huệ

kastryas

Member
Xu
0
Mình có dự định viết 1 bài trường luận về người anh hùng áo vải của phong trào Tây Sơn cho học trò. Bạn nào có tư liệu, hay giai thoại độc về ông ấy hỗ trợ mình được ko?
 
Quang trung (nguyễn huệ) 1789-1792

QUANG TRUNG (NGUYỄN HUỆ) 1789-1792​

Nguyễn Huệ là con trai của ông bà Hồ Phi Phúc, Nguyễn Thị Đồng, quê ở thôn Kiên Mỹ, ấp Kiên Thạnh, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, thường gọi là ấp Tây Sơn (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Hồ Phi Phúc đi theo nhóm chúa Nguyễn vào vùng miền Nam Trung Bộ, lập cơ nghiệp mới ở ấp Tây Sơn, huyện An Khê, đổi sang họ Nguyễn. Gia đình này có ba con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ, trong đó Nguyễn Huệ là em út. Lúc nhỏ ông có tên là Hồ Thơm, tức chú Ba Thơm. Cái tên Huệ là do thầy giáo Hiến đặt cho. Thầy giáo vốn là người Huế, vào dạy học ở đất An Thái, phát hiện ra tài nǎng của mấy cậu bé này, thường khuyến khích lớp trẻ bằng một câu sấm - không rõ ông lấy từ đâu: "Tây khởi nghĩa, Bắc thu công" (nổi lên ở Tây Sơn sẽ lập công lớn ở miền Bắc).

Các tài liệu xưa đều cho biết Nguyễn Nhạc xuất thân chỉ là một viên biện lại, thường gọi là biện Nhạc, có nghề buôn trầu. Bất bình với sự chuyên quyền của Trương Phúc Loan và chúa Nguyễn đàng trong, ông đã cùng các em nổi dậy, cướp được Quy Nhơn, rồi dựng nên cơ nghiệp nhà Tây Sơn. Nǎm 1776, Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương, cho Nguyễn Huệ làm phụ chính, lúc này Nguyễn Huệ mới 24 tuổi. Hai nǎm sau (1778) Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thái Đức, Nguyễn Huệ nhận chức vị là Long Nhương tướng quân.

Nguyễn Huệ là nhà quân sự thiên tài. Trong suốt hơn 20 nǎm đời chinh chiến, Nguyễn Huệ chưa hề chùn bước. Ông tin tưởng vào quần chúng biết trọng dụng nhân tài, có niềm tin tuyệt vời vào khả nǎng của mình. Ông còn là vị danh tướng chỉ đánh thắng, không có bại.

Giúp anh là Nguyễn Nhạc, ông đã 4 lần vào đánh Gia Định, bắt Nguyễn Ánh (sau này là vua Gia Long) phải mấy phen chạy trốn ra biển. Nǎm 1784, Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm. Nguyễn Huệ dùng kế phục binh đã đánh thắng một trận rất vẻ vang tại Xoài Mút, tiêu diệt hai vạn quân Xiêm và 300 chiến thuyền. Nǎm 1786, ông dùng Nguyễn Hữu Chỉnh đưa đường ra Bắc, liên tiếp thắng lợi ở Thuận Hóa rồi Quảng Trị, Quảng Bình. Tiếp đó kéo quân ra Bắc giương cao ngọn cờ "Phù Lê diệt Trịnh", chiếm Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn Nam, tiến thẳng ra Thǎng Long... Các tướng tá Lê Trịnh hoàn toàn đại bại. Chúa Trịnh Khải chết.

Ngày 21-7-1786 Nguyễn Huệ và đại quân tiến vào Thǎng Long. Cuộc tiến công Bắc Hà đã kết thúc thắng lợi rất vẻ vang. Ngày 31-7-1786 Nguyễn Huệ cùng các tướng sĩ Tây Sơn và các quan vǎn võ Bắc Hà vào triều chúc mừng vua Lê Hiển Tông. Sau đó vua Lê Hiển Tông đã sắc phong Nguyễn Huệ làm "Nguyên soái phù dực chính dực vũ Uy quốc công và gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Binh quyền Bắc Hà hoàn toàn trong tay Nguyễn Huệ người lãnh tụ kiệt xuất của phong trào Tây Sơn. Nguyễn Huệ nhà chiến lược và là nhà quân sự thiên tài vǎn võ kiêm toàn đã có công lao lớn trong việc đặt cơ sở lập lại nền thống nhất nước nhà ở cuối thế kỷ 18. Nước nhà được thống nhất trên một phạm vi rộng.

Tiếp đó ông phải theo Nguyễn Nhạc rút quân về Nam, đóng tại Thuận Hóa, được phong làm Bắc Bình Vương. Nguyễn Huệ rút đi, miền Bắc lại trở nên loạn. Vua Lê Chiêu Thống nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh dẹp tay chân của họ Trịnh, thì đến lượt Nguyễn Hữu Chỉnh lại có ý chuyên quyền. Từ Huế, Nguyễn Huệ sai Vũ Vǎn Nhậm ra diệt được Chỉnh, rồi thấy Nhậm có ý khác, ông lại giết Vũ Vǎn Nhậm, giao cho Ngô Vǎn Sở quản lĩnh Thǎng Long. Trước tình hình đó bọn vua quan nhà Lê, chạy sang Tàu cầu cứu rước mấy chục vạn quân Thanh, do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, vào chiếm Thǎng Long, lấy danh nghĩa là giúp nhà Lê, nhưng sự thực là mưu toan thôn tính nước ta. Lập tức, Nguyễn Huệ chọn ngày, lập đàn tế trời đất, thần sông, thần nước tại núi Bân Sơn ( Huế) , rồi lên ngôi hoàng đế, đặt hiệu là Quang Trung, đem quân ra Bắc. Ông tuyên bố: Chỉ trong 10 ngày sẽ quét sạch quân xâm lược và hẹn trước sẽ cùng quân sĩ ǎn tết với nhân dân Thǎng Long vào ngày 7 tháng giêng.

Nhưng mới đến ngày 5, ông đã thu được hoàn toàn thắng lợi, đánh trận Ngọc Hồi, giết Hứa Thể Hanh, đánh thắng Đống Đa, bắt Sầm Nghi Đống phải tự tử, đuổi Tôn Sĩ Nghị phải vứt bỏ cả ấn tín chạy về nước. Bọn vua quan bán nước Lê Chiêu Thống cũng phải chạy theo lũ tàn binh, sang đất Trung Hoa nương náu làm khách ngụ cư vong quốc. Sau chiến thắng, Quang Trung Nguyễn Huệ thực hiện những biện pháp ngoại giao tích cực, để giữ gìn hòa bình, được vua Càn Long nhà Thanh chấp nhận. Vua Thanh phải phong vương cho ông và mời ông sang thǎm Yên Kinh, và hoàn toàn chấm dứt ý đồ xâm lược. Việc giao hảo với nhà Thanh trong giai đoạn này cũng là những trang sử đẹp, làm vẻ vang cho triều đại Quang Trung và cho nước ta.

Dẹp yên Bắc hà, Quang Trung lo lắng việc nội trị. Đất nước do ông cai quản lần này trải rộng từ Thuận Hóa trở ra, chấm dứt nạn phân tranh từ thời kỳ Lê-Mạc và Trịnh-Nguyễn. Vùng miền Nam Trung Bộ do Nguyễn Nhạc thống lĩnh, vùng Nam Bộ ở dưới quyền của Nguyễn Lữ. Song những vị cầm đầu ở đây đều không có khả nǎng giữ vững chính quyền. Nhất là ở miền Nam, Nguyễn Lữ không chống nổi Nguyễn Ánh. Do đó, Quang Trung đã sắp đặt một kế hoạch tiến quân vào Nam để giúp việc bình định vùng này, diệt hẳn thế lực của họ Nguyễn. ở phía Bắc ông cũng có ý phải khôi phục lại những vùng đất mà trước đây bị các triều đình Minh, Thanh chiếm cứ. Ông đã soạn sửa việc cầu hôn (xin lấy công chúa nhà Thanh) và đòi lại vùng Lưỡng Quảng. Nhưng các dự định ấy chưa thực hiện được, thì ông bị bệnh qua đời vào đêm 29 tháng 7 nǎm Nhâm Tí (1792). Cuộc đời hoạt động của ông đều gắn liền với tuổi trẻ. Quang Trung mất vào nǎm 40 tuổi, cơ đồ nhà Tây Sơn cũng suy thoái luôn từ đó. Con trai nối ngôi ông là Nguyễn Quang Toản còn quá bé (mới có 9 tuổi). Tướng tá không có người cầm đầu.

Không đầy mười nǎm sau, nhà Tây Sơn chấm dứt vai trò lịch sử của mình để Nguyễn Ánh, lập nên đế nghiệp nhà Nguyễn. Có lẽ, có một bình diện lâu nay thường ít được chú ý, nên cũng không giúp cho ta thấy được đầy đủ nét đẹp của Quang Trung. Đó là ở chỗ, ông thực sự là một nhà vua trẻ, đã phát huy cao độ bản lĩnh trẻ trung của mình. Làm tướng - chủ yếu là tướng chỉ huy, trong khoảng tuổi hai mươi. Làm vương rồi làm vua trong khoảng tuổi ba mươi. Ông đã hiến dâng trọn vẹn tuổi thanh xuân của mình cho đất nước, cho dân tộc. Đây là sự tình cờ của qui luật sống nơi ông, hay đó chính là cái đẹp dành riêng để ông phục vụ đất nước.

Ông thực sự là con người luôn luôn tươi trẻ. Trẻ đồng nghĩa với khỏe mạnh cường tráng, là có sức hàng phục thú dữ; hàng phục con người. Trẻ là phải tung hoành đây đó, ra Bắc vào Nam, lai vô ảnh khứ vô hình. Nguyễn Huệ là một ông vua trẻ hội tụ được đầy đủ những ưu điểm ấy. Và trẻ là ở chỗ biết yêu, khi yêu là yêu hết mình? Trẻ cũng đồng nghĩa với ham thích vǎn nghệ, mê say học hỏi. Quang Trung hình như không thua ai về điểm này. Và thông thường những chàng trai của chúng ta, những con người anh hùng, luôn luôn có sẵn mà cũng sẵn sàng bộc lộ một niềm kiêu hãnh.

Tự phụ kiêu cǎng của tuổi trẻ là không hay, song kiêu hãnh thì rất đáng quí, và đẹp vô cùng. Ông kiêu hãnh nhắc nhở Ngọc Hân khắc sâu sự vinh hạnh của nàng do ông đem lại. Ông kiêu hãnh coi khinh tất cả những đối phương của mình, sẵn sàng dẹp chúng như bẻ gãy cành khô, củi mục. Và ông nói được thì ông sẽ làm được, để chứng tỏ sự kiêu hãnh là có cơ sở, chứ không phải là khoác lác, là nói cho sướng miệng mà thôi. Sức trẻ của vua Quang Trung còn được biểu hiện ở chỗ ông có tầm nhìn xa, không chịu bằng lòng với những thắng lợi đã đạt được. Cái khác của tuổi già và tuổi trẻ là ở đó. Ông anh già là Nguyễn Nhạc thì bằng lòng với mấy phủ quanh đất Qui Nhơn, nhưng ông em trẻ thì muốn trông Bắc trông Nam, trông suốt cõi nước nhà. Nói rằng Nguyễn Huệ có ý thức và đã đặt được cơ sở cho việc thống nhất, là hiểu vấn đề theo khía, cạnh đó.

Ở Nguyễn Huệ còn có một nét độc đáo, chứng tỏ ông là một thanh niên, có nghị lực, rất xứng đáng cho tuổi trẻ noi theo. Trong đời, có khá nhiều người và cũng nhiều thanh niên một khi đạt đến sự thành công nào đó thì rất dễ dàng bị tha hóa. Nhiều chàng trai trẻ, khi nghèo nàn cơ cực thì chǎm chỉ, giữ gìn tư cách vững vàng, nhưng một khi giàu lên, hoặc đỗ cao, vinh hoa phú quí v.v.. . thì cũng mau chóng biến chất. Nhiều vua chúa trong lịch sử đã mắc bệnh này, nếu tuổi trẻ có biết hạn chế ít nhiều, thì tuổi già lại hay ǎn chơi trác táng. Điều rất đáng quí là từ Nguyễn Huệ đến vua Quang Trung, lúc nào cũng trong sạch. Ông chỉ biết lo lắng cho sự nghiệp, cho dân tộc. Không thấy ai nói về những chuyện rượu chè, cờ bạc, dâm bạo. Và trong số các cận thần, các hoạn quan (chắc phải có!) của nhà vua, không nghe nói có ai lợi dụng hay cầu cạnh được điều gì. Có lẽ đây là ông vua trẻ mà cũng đường đường chính chính nhất so với tất cả các ông vua từ Đinh Tiên Hoàng đến Bảo Đại!

===============
Sưu tầm
 
Thân thế anh em Tây Sơn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ

I) Xác định thứ bậc: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ

Xác định thứ bậc của anh em Tây Sơn : trưởng là Nguyễn Nhạc, thứ đến Nguyễn Huệ, thứ ba là Nguyễn Lữ.

Đây là thứ bậc theo truyền thuyết nhân gian

Trong VNSL, Ông Trần Trọng Kim nói rằng Nguyễn Lữ là anh Nguyễn Huệ. Tôi tìm ra hai lý do tại sao TTK lại lầm tưởng như vậy.

II) Sự lầm tưởng của Ông Trần Trọng Kim: ‘‘Ông Ba Thơm’’

Tên tục của Quang Trung Nguyễn Huệ là Hồ Thơm ; do đó người đương thời thường gọi Nguyễn Huệ là‘‘Ông Ba Thơm’’. Do đó gây ra sự lầm tưởng của Ông Trần Trọng Kim: ‘‘Ông Ba Thơm’’ dĩ nhiên là đứng thứ ba.

Sự thực thì ‘‘Ông Ba Thơm’’ đứng thứ hai và ông hai Nhạc là ông trưởng. Vì gọi theo phong tục miền Nam là như vậy.

( Phong tục này là do một ông chúa Nguyễn đã cắc cớ đặt tên cho con trai trưởng của mình là ‘Cả’, và ông chúa đã bắt dân chúng gọi con trưởng của họ là ‘Hai’)

III) Sự lầm tưởng của Ông Trần Trọng Kim: Chức ‘Long Nhương tướng quân’ và Tiết Chế

Nguyễn Nhạc lên ngôi, phong thưởng cho các đại tướng như sau :

_Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.

_Nguyễn Lữ làm Tiết Chế

_Tây Sơn thập hổ tướng (trong đó có Trần Quang Diệu) đều làm Đô Đốc

_và Bùi Thị Xuân làm Nữ Đô Đốc.

Long Nhương tướng quân, chức của Quan Hưng đời Tam Quốc, chẳng phải là một chức đại thần lớn, trong khi Tiết Chế là Nguyên soái từ đời Trần . Vì vậy, TTK nghĩ rằng Tiết Chế cao hơn Long Nhương tướng quân và Long Nhương tướng quân do đó là em út. VNSL viết :

‘‘phong Nguyễn Lữ làm Tiết Chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.’’

( Tên của Tiết Chế Nguyễn Lữ được kể trước Nguyễn Huệ )

Lẽ ra TTK phải áp dụng lý luận trên cho cả Đô Đốc : Đô Đốc là chức rất lớn, từ Triều Lê Thái Tông, chức Nguyên soái là Nhập nội Đại Đô Đốc, Đô Đốc là Phó Nguyên soái , dĩ nhiên là cao hơn Long Nhương tướng quân . Do đó đáng lẽ TTK phải viết :

‘‘phong Nguyễn Lữ làm Tiết Chế, 11 đại tướng làm Đô Đốc và Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.’’

Nghĩa là Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân, chức thấp hơn12 đại tướng . ( !!!)

Sự thực là vua Tây Sơn, vì đố kỵ tài năng Nguyễn Huệ, nên phong Nguyễn Lữ làm Tiết Chế, nắm giữ binh quyền

Sau đó, vua Tây Sơn mới chế ra chức Long Nhương tướng quân này, mà phong cho Nguyễn Huệ. Thế là vào thời đó , Long Nhương tướng quân lại cao hơn Tiết Chế!!! Một điều quái dị !

Cái lợi của sự sắp đặt này , đối với Nguyễn Nhạc, là Nguyễn Huệ lúc bình thường không làm Nguyên soái. Khi nào có cuộc chiến mà NL không đảm đương nổi, TĐNN mới sai Nguyễn Huệ làm nguyên soái.

Sự lầm tưởng của Ông Trần Trọng Kim: Chức ‘Long Nhương tướng quân’ thấp hơn Tiết Chế, do đó Nguyễn Lữ là anh Nguyễn Huệ.

IV) Họ Hồ đổi sang họ Nguyễn

Anh em Tây Sơn vốn họ Hồ , là con của ông Hồ Phi Phúc.

Sau họ đổi sang họ Nguyễn, để dấy binh, vì họ Hồ ở nước ta thời đó không được lòng dân _người nước ta vẫn còn nhớ việc Hồ Quí Ly lộng quyền, giết vua, giết hại người trung lương , cướp ngôi nhà Trần và rốt cuộc bị nhà Minh diệt một cách dễ dàng ! (Theo TSBHT, thì thầy học của họ là ông Trương văn Hiến đã khuyên Hồ Nhạc đổi họ )

Nguyễn Nhạc lớn tuổi hơn Nguyễn Huệ nhiều (khoảng 15 tuổi) , Nguyễn Nhạc làm nghề buôn trầu để nuôi mẹ và em.

V) Học trò của ông Trương văn Hiến (văn võ toàn tài)

Anh em Tây Sơn là học trò của TvH (ông Trương văn Hiến). Ông Trương là người văn võ toàn tài, vì lánh nạn Trương Phúc Loan, nên chạy đến vùng Tây Sơn. Theo TSBHT, sau một cuộc gặp gỡ với Nguyễn Nhạc, ông mở trường dạy học, mà anh em Tây Sơn là học trò đầu tiên của ông.

Học trò của TvH còn có : Phan văn Lân, Đặng văn Long và Vũ văn Dũng, danh tướng Tây Sơn sau này.

Vì TvH là người văn võ toàn tài, nên anh em Tây Sơn chẳng dốt văn chương :

_vì bận sinh kế, nên Nguyễn Nhạc học ít nhất, song cũng võ nghệ cao cường

_Nguyễn Huệ võ nghệ cao cường (vô địch ?) , xử dụng đại đao, giỏi binh pháp

_Nguyễn Lữ có khiếu về võ, sau này sáng tác ra nhiều món võ lạ, dạy cho binh sĩ.

VI) Ông Trương văn Hiến làm quân sư cho Nguyễn Nhạc

Khi Nguyễn Nhạc ‘khởi nghĩa’ ( quân Tây Sơn tự cho là nghĩa quân, đánh kẻ độc ác là Trương Phúc Loan), Ông Trương văn Hiến làm quân sư cho Nguyễn Nhạc. TvH làm quân sư chẳng được bao lâu thì tạ thế, có lẽ vì tuổi già.

Vì TvH là thầy của Nguyễn Nhạc nên Nguyễn Nhạc rất kính nể và nghe lời ông. Chính TvH đã bảo Nguyễn Nhạc tạm tôn phù Đông Cung của chúa Nguyễn

VII) Nguyễn Nhạc có đố kỵ Nguyễn Huệ, nhưng . . .

Nguyễn Huệ có tài cầm quân, dần dần chứng tỏ tài năng lỗi lạc.

Nguyễn Nhạc đố kỵ Nguyễn Huệ, sợ em mình dần dần nắm hết quyền bính. Sự đố kỵ này hiện rõ trong việc phong Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân và Nguyễn Lữ làm Tiết Chế.

Dầu vậy, Nguyễn Nhạc có hiếu với mẹ, làm nghề buôn trầu để nuôi mẹ và em, Anh em Tây Sơn cũng không đến nỗi nồi da nấu thịt .. .

VIII) Anh em Tây Sơn không nồi da nấu thịt: giải thích việc Nguyễn Huệ vây thành Qui Nhơn

Ngay từ mấy mươi năm về trước, khi đọc việc Nguyễn Huệ vây thành Qui Nhơn, tôi rất ngạc nhiên :

_VNSL viết : ‘‘. . . Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ có chuyện hiềm khích với nhau, Nguyễn Huệ đem binh vào vây đánh thành Qui Nhơn’’

_thật lạ ! Nguyễn Huệ đóng quân ở Thuận Hóa, muốn đánh thành Qui Nhơn thì phải qua bao nhiêu cửa ải, sao chẳng thấy đánh đấm gì cả mà bỗng dưng đến vây thành Qui Nhơn ?

Trong TSBHT, Lê Đình Danh đã giải thích được việc này như sau :

1) Khi Nguyễn Huệ đem quân ra đánh Thuận Hóa thì sáu người trong Tây Sơn thập hổ tướng và Bùi Thị Xuân tháp tùng, vì đánh nhau với nhà Trịnh thì phải đem lực lượng lớn như vậy.

(sáu người này, và Đặng văn Long, sau được gọi là Tây Sơn thất hổ tướng )

Bẩy tướng này ở lại với Nguyễn Huệ, không về thành Qui Nhơn nữa.

2) Nhưng gia quyến của họ đều ở trong thành Qui Nhơn

3) Ít lâu sau khi được phong làm Bắc Bình Vương, Nguyễn Huệ đòi vua Thái Đức Nguyễn Nhạc phải trả lại gia quyến cho các tướng rồi động binh. Trước hết, Nguyễn Huệ truyền hịch cho các tướng Tây Sơn đóng quân ở phía Nam Thuận Hóa, rằng Nguyễn Huệ chỉ đem quân về làm áp lực chớ hoàn toàn không có ý chống lại anh mình. Tướng Tây Sơn vốn tin phục Nguyễn Huệ, đều không có ý chống lại ; không những thế Lê Trung , một trong thập hổ tướng và chủ sóai của các ải, lại ra lịnh để cho quân Nguyễn Huệ ‘mượn đường’, rồi đem quân bản bộ về yết kiến vua. Lê Trung tâu với vua Thái Đức rằng nếu vua trả lại gia quyến cho các tướng và nếu NH không lui binh thì ông sẽ tự tử để đền tội. Thái Đức giam LT lại rồi tự mình làm tướng lo việc phòng thủ.

4) Thành Qui Nhơn bị vây đưởc mấy tháng thì Nguyễn Lữ và Đặng văn Long về đến. NH bảo NL vào thành tìm cách gặp mẹ, để Thái hậu bảo vua trả lại gia quyến cho các tướng. Khi NL vào thành, thì bị vua Thái Đức giam lại, vì TĐNN đoán được ý này.

5) Cuối cùng ĐvL bắn súng đại bác vào mặt thành của Tử Cấm Thành ( đạn súng đại bác ngày xưa không nổ tung ra, nên chỉ như cục sắt, bắn chính xác thì không chết ai) . Thái hậu lúc ấy mới biết là thành có biến loạn, đến gặp vua Thái Đức, và cùng TĐNN lên thành nói chuyện với NH

6) Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ trình bày lý do động binh, lạy mẹ và anh, rồi ra lịnh giải vây. Vua Thái Đức cũng tuân lời mẹ , trả lại gia quyến cho các tướng.

(NH dẫn quân về Thuận hóa, đem theo ĐvL vì ĐvL sợ bị TĐNN trừng phạt ( vì đã gíúp NH) . Đây là một sự kiện quan trọng, vì thiếu ĐvL, NL không đủ sức chống lại quân tướng Nguyễn Ánh , vài năm sau)

Những điều trên giải thích được:

_ tại sao Nguyễn Huệ từ Thuận Hóa kéo đến thành Qui Nhơn chẳng cần phải đánh đấm gì cả

_ tại sao Nguyễn Huệ lại vây thành

_ tại sao xưa nay Nguyễn Huệ hành quân thần tốc, mà lần này vây thành đến mấy tháng.

Rõ ràng Nguyễn Huệ không có ý định đánh nhau.

Anh em Tây Sơn không nồi da nấu thịt !

=================
Sưu tầm
 
Quang Trung Nguyễn Huệ (1752-1792)

Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1752), là em của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm, là em thứ hai trong nhà. Trong ba anh em, Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm nổi trội nhất: tóc quăn, tiếng nói sang sảng như chông, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối.

Dưới quyền của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc, ông được phong làm Long Nhương tướng quân khi mới 26 tuổi. Là một tay thiện chiến, hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy, Nguyễn Huệ nhanh chóng trở thành vị tướng trụ cột của vương triều Tây Sơn. Khi mà vua Thái Đức đang phải lo củng cố xây dựng triều đình, thì Nguyễn Huệ là người được trao cầm quân đánh Đông dẹp Bắc. Tất cả những chiến thăng lớn vang dội của quân Tây Sơn đều gắn liền với tên tuổi của vị tướng trẻ tài ba này.

Đem quân ra Thăng Long lật nhào họ Trịnh chuyên quyền, Nguyễn Huệ tỏ ý tôn phò nhà Lê. Cùng với thuộc tướng là Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vào điện Vạn Thọ tiếp kiến vua Lê. Lê Hiển Tông trân trọng mời Nguyễn Huệ ngồi ở sập bên giường ngự mà hỏi thăm yên ủi. Nguyễn Huệ thưa:

- Tôi vốn là kẻ áo vải ở Tây Sơn, nhân thời thế mà nổi dậy. Bệ hạ tuy không cho cơm ăn, áo mặc, nhưng tôi ở cõi xa, bấy lâu vẫn kính mến thánh đức. Bữa nay được nhìn thấy mặt trời, đủ thoả được tấm lòng khao khát. Họ Trịnh vô đạo, hiếp đáp hoàng gia, nên trời mượn tay tôi một trận phá ngay được, ấy là nhờ ở oai đức của bệ hạ.

Vua Lê ôn tồn đáp:

- Ấy là võ công của tướng quân cả, chứ quả nhân nào có tài đức gì!
Nguyễn Huệ khiêm tốn thưa:

- Tôi chỉ tôn phò, đau dám kể tới công lợi. Việc ngày nay đã xảy ra như thế thật bởi lòng trời xui nên hết thảy... Thế là trời có ý xui bệ hạ chấn kỷ cương, nảy mực, khiến cho trong ấm ngoài êm, tôi đây cũng được ơn nhờ.

Vua Lê sai các cựu thần Trần Công Sáng, Phan Lê Phiêu, Uông Sĩ Điển ra tiếp chủ suý Tây Sơn. Sau cuộc gặp gỡ này, thiên hạ yên lòng, chợ lại họp, ruộng lại cày, tình hình trong nước dần dần ổn định.
Theo lời Nguyễn Hữu Chỉnh chỉ vẽ, Nguyễn Huệ xin vua Lê cho thiết lễ đại triều ở điện Kính Thiên để Huệ dâng sổ sách quân dân, tỏ cho toàn thiên hạ rõ việc tôn phò đại thống. Cử chỉ này của Nguyễn Huệ khiến ông vua cao tuổi Lê Cảnh Hưng vô cùng xúc động, chứng kiến việc ban bố chiếu thư "nhất thống".

Đáp lại công lao của chủ súy Tây Sơn, vua Lê sai sứ sang tận doanh quân thứ phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyễn Súy Dực chính phù vận Uy Quốc công. Nguyễn Huệ sai người sang cảm tạ vua Lê theo đúng lễ nhưng trong lòng không vui. Nguyễn Huệ nói với Nguyễn Hửu Chỉnh rằng:

- Ta mang vài vạn quân ra đây, một trận dẹp yên Bắc Hà. Vậy thì một thước đất, một người dân bây giờ không phải của ta thì của ai vào đây nữa? Dẫu ta muốn xưng đế, xưng vương chi chi, ai còn dám làm gì nổi ta? Thế mà ta còn nhường nhịn không làm, chẳng quan hậu đãi nhà Lê đó thôi, danh mệnh Nguyên súy, quốc công có làm cho ta thêm hơn gì? Các đình thần Bắc Hà muốn lấy nước miếng cho cái danh hão, chực lung lạc ta sao? Đừng bảo ta là mán mọi, được thế đã lấy làm vinh rồi đâu! Ta không nhận lấy, chắc người ta bảo ta thất lễ; ta nhận mà không nói ra, người ta lại cho ta là không biết gì!

Dứt lời, Nguyễn Huệ hầm hầm tức giận. Nhờ có Nguyễn Hữu Chỉnh là tay khéo dàn xếp, Huệ mới nguôi lòng. Sau khi trở thành phò mã nhà Lê, Nguyễn Huệ không trực tiếp can dự vào nội bộ triều Lê vì còn giữ tiếng. Khi vua Lê bị bệnh nặng, công chúa Ngọc Hân giục phò mã Nguyễn Huệ vào thăm song ông từ chối:

- Tôi chẳng sớm thì chầy rồi cũng về Nam; việc nước không dám dự đến. Vả, tôi xa xôi tới đây, chắc người ngoài Bắc hãy còn chưa tin mấy, nếu vô nội thăm hỏi vua cha, muôn một xa giá chầu Trời, chẳng hóa ra tự mình chuốc lấy cái tiếng hiềm nghi không bao giờ giãi toả được?"

Vào một đêm mưa to, gió dữ của tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), thành Thăng Long nước ngập đến một thước, vua Lê Cảnh Hưng qua đời ở tuổi thọ 70. Trước khi nhắm mắt ông còn kịp trối lại cho Hoàng tôn Duy Kỳ:
- Quân bên ngoài đang đóng ở đây; truyền nối là việc quan trọng, cháu nên bàn cùng Nguyên suý (Nguyễn Huệ), chứ đừng tự tiện làm một mình.

Trái với những người muốn lập Hoàng tôn Duy Kỳ, công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đã nghiêng về Lê Duy Cận. Nghe lời vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng quang của Duy Kỳ. Cả triều đình nao núng ngờ vực. Các tôn thất nhà Lê cho rằng công chúa Ngọc Hân cố tình làm lỡ việc lớn của triều đình và bảo sẽ từ mặt công chúa. Ngọc Hân sợ, vội nhân nhượng mà nói lại với Nguyễn Huệ thu xếp cho Duy Kỳ được nối ngôi.

Đến ngày lễ thành phục của nhà vua quá cố Lê Hiển Tông ở nội điện, Nguyễn Huệ thực hiện đầy đủ nghi lễ của phò mã: rể mặc áo tang trắng, đứng trong điện dự lễ. Thấy viên tiểu lại có cử chỉ bất kính trọng lúc làm lễ, Nguyễn Huệ lập tức sai lôi ra chém. Từ đó triều thần khiếp sợ và nghi lễ được cử hành hết sức tôn nghiêm. Ngày đưa linh cữu vua xuống thuyền về Thanh Hoá để an táng, Nguyễn Huệ mặc tang phục đi hộ tang đến tận bờ sông, lại sai bộ tướng là Trần Văn Kỷ và Nguyễn Hữu Chỉnh mặc áo tang trắng đi hộ tống đến tận bến sông, lại sai bộ tướng là Trần Văn Kỷ và Nguyễn Hữu Chỉnh mặc áo tang trắng đi hộ tống đến lăng Bàn Thạch. Mặc dù vừa mới trải qua binh đao, tang phục tuy đơn sơ, giản dị nhưng lễ nghi thì đầy đủ và trang trọng khác thường. Xong tang trở về, Nguyễn Huệ tự hào nói với công chúa Ngọc Hân:

- Tiên đế có hơn 30 người con, thế mà không người nào bằng một mình nàng là gái. Trong việc tang tiên đế, mình với các anh em khác, ai hơn nào?

Một thời gian sau Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam, rồi được phong làm Bắc Bình Vương.

Lần ra Bắc lần thứ hai năm Mậu Thân (1788), khi Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh thành chạy ra ngoài, Bắc Bình Vương cũng đã nghĩ đến chiếc ngai vàng bỏ trống, đã triệu tập các cựu thần nhà Lê để tính việc, song không thuận lợi. Ông cho tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa những danh sĩ có tên tuổi đã được Bắc Bình Vương trọng dụng như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích ra đảm đương công việc. Trí thức Bắc Hà lần lượt ra giúp Bắc Bình Vương như Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn...
Sau khi đãlập Sùng Nhượng công Lê Duy Cận lên làm Giám quốc, sắp đặt các quan coi việc Bắc Hà, một lần nữa Nguyễn Huệ lại rút quân về Nam. Trước khi trở về Nam, Bắc Bình Vương đã dặn bảo cận thần rằng:

- Đại Tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân là nanh vuốt của ta; Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Hộ bộ thị lang Trần Thuận Ngôn là tâm phúc của ta. Lại bộ thị lang Ngô Thì Nhậm tuy là người mới, nhưng là bậc tân thần, ta coi như khách. Nay ta giao cho các khanh hết thảy mọi việc quân quốc, coi quản 11 trấn trong toàn hạt. Hễ có điều chi, ta cho cứ được tiện nghi làm việc. Song các khanh cần phải hợp bàn với nhau, chứ đừng phần bì kẻ mới người cũ, miễn sao làm cho được việc, ta mới yên lòng...

Thế rồi không đầy 6 tháng sau, Bắc Bình Vương đang ở thành Phú Xuân thì được tin Lê Chiêu Thống đã dẫn đội quân xâm lược Mãn Thanh vào chiếm đóng kinh thành Thăng Long, quân đội Tây Sơn do Đại Tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy phải tạm rút lui về đóng ở Tam Điệp-Biện Sơn chờ lệnh. Nguyễn Huệ lại lần thứ ba ra Thăng Long. Lần này ông ra Bắc với tư cách là Quang Trung hoàng đế. Thể theo lời khuyên của tướng lĩnh và lòng mong mỏi của ba quân cùng thần dân, Bắc Bình Vương cho chọn ngày, lập đàn tế trời đất, thần sông, thần nước và lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân, ngay hôm đó kéo cả quân bộ, quân thuỷ ra Bắc diệt quân xâm lược Thanh, giải phóng Thăng Long và Bắc Hà.

Dự tính trước mọi khả năng tiếp theo của thời cuộc, vua Quang Trung đã nõi với quan quân ngay trước khi bước bào chiến dịch:

- Nay ta tới đây, thân đốc viện binh, chiến thư ra sao đã có phương lược sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh. Song, ta nghĩ: nước Thanh lớn hơn nước ta gấp mười lần, Thanh bị thua tất lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài mãi, thật không phải là phúc trăm họ, lòng ta không nỡ! Nên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa binh tranh, việc từ lệnh đó, ta sẽ giao cho Ngô Thì Nhậm.

Đúng như dự kiến và lời hứa hẹn của vị tổng binh, ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân đội của hoàng đế Quang Trung đã vui vẻ ăn tết khai hạ tại thành Thăng Long. Hoa đào làng Nhật Tân còn đang nở rộ đón chào chiến thắng.

Việc binh lại giao cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân, việc ngoại giao và chính trị giao cho Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích, lần thứ ba Nguyễn Huệ đã ra Bắc rồi lại về Nam. Lần này với tư thế là Hoàng đế, Quang Trung gấp rút tiến hành việc xây dựng kinh đô mới ở Nghệ An, nơi mà từ xưa là quê gốc của anh em Tây Sơn và trong con mắt của Quang Trung là trung gian Nam và Bắc. Mặt khác, theo kế hoạch ngoại giao đã được Quang Trung vạch ra: bình thường mối bang giao với nhà Thanh. Triều đình Quang Trung đã buộc sứ Thanh phải vào tận Thuận Hoá phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi Hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long nhà Thanh. Dưới thời trị vì ngắn ngủi của triều Quang Trung, nhiều chính sách về xã hội, chính trị và kinh tế được ban hành khá độc đáo, mở ra những triển vọng cho một xã hội năng động hơn. Song chưa được bao lâu, căn bệnh đột ngột và hiểm nghèo đã cướp đi cuộc sống của ông vua đầy tài năng, có những dự định lớn lao, mới ở tuổi 40.

Năm Nhâm Tý (1792), sau nhiều lần bắn tin rồi lại gửi thư trực tiếp đến vua nhà Thanh xin được sánh duyên cùng một nàng công chúa Bắc quốc và mượn đất đóng đô, vua Quang Trung đã sai toàn sứ bộ do Vũ Văn Dũng làm chánh sứ sang triều kiến vua Thanh Càn Long. Trong một cuộc bệ kiến của sứ thần Vũ Văn Dũng ở Ỷ lương các, những yêu cầu của vua Quang Trung đã được vua Thanh chấp thuận. Vua Càn Long đang chuẩn bị cho cô công chúa khuê các sang đẹp duyên cùng Quốc vương nước Nam; Quảng Tây được hứa sẽ nhường cho Quốc vương phò mã đóng đô để cho gần "Thánh Giáo". Giữa lúc sứ thần đang mừng vui vì sắp hoàn thành một trọng trách quá sức mình, thì được tin sét đánh: vua Quang Trung từ trần. Mọi việc đều bị gác lại, Vũ Văn Dũng đành ôm hận trở về. Rồi từ đó, việc xin lại đất Lưỡng Quảng chỉ là câu chuyện lịch sử mà cơ đồ của vương triều Tây Sơn cũng dần dần tan theo giấc mộng xuân của nàng công chúa Mãn Thanh. Một chiều đầu thu, vua Quang Trung đang ngồi bỗng thấy hoa mắt, sầm tối mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi đó là chứng "huyễn vận" còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Khi tỉnh dậy được, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua dặn Trần Quang Diệu và các quần thần:

- Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử "Nguyễn Quang Toản" tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn Ánh) là quốc thù; mà Thái Đức (Nguyễn Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Lũ người nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh ngày nay) để khống chế thiên hạ. Bằng không, quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn đâu!

Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) vào khoảng 11 giờ khuya, Quang Trung từ trần, ở ngôi 5 năm, thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái tổ Vũ hoàng đế. Thi hài ông được táng ngay trong thành, tại phủ Dương Xuân. Sau khi Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân đã sai quật mồ mả lên để trả thù.

Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong. Vua Càn Long thương tiếc tặng tên hiệu là Trung Thuần, lại thần làm một bài thơ viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Sứ nhà Thanh đến tận mộ ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng.

(Sưu tầm)
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top