Tư liệu: Thành ngữ và tục ngữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương

Bút Nghiên

ButNghien.com
Thành ngữ và tục ngữ trong thơ nôm Hồ Xuân Hương

Đặng Thanh Hòa


Người ta thường bảo “Nôm na là cha mách qué”, thế nhưng với thơ Hồ Xuân Hương thì đó lại là một ngoại lệ, bởi vì người đọc nhớ Xuân Hương, yêu Xuân Hương lại chính từ cái sự “mách qué” ấy. Nếu không có cái chất “nôm na”, “mách qué”, “xỏ xiên” đầy tinh quái này thì có lẽ đã không có một Xuân Hương để cho người đời chiêm ngưỡng và tôn vinh Bà thành Bà chúa thơ Nôm trong làng thơ Việt Nam. Chính cái chất nôm na trong thơ của Bà đã tạo nên một chất men xúc tác mãnh liệt trong lòng người đọc. Người ta ngây ngất, hỉ hả, khoái trá với cái thứ ngôn ngữ “nhà quê, mách qué” như: đỏ lòm lom, già tom, mân mó, tấp tênh, lún phún, le te, chín mõm mòm,... Tất cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với sự trau chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà người ta thường bắt gặp trong ngôn ngữ thơ. Ngoài những đặc trưng ấy, người ta còn bắt gặp ở Bà một biệt tài nữa trong việc vận dụng tiếng nói dân gian trong thơ. Đó là việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ, làm cho câu thơ trở nên giàu tính hình tượng, dễ nhớ, và độc đáo hơn.

Qua sự khảo sát trong số 39 bài thơ trong tập Thơ Hồ Xuân Hương do tác giả Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu được Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1987, chúng tôi đã phát hiện được 15 trường hợp có xuất hiện các yếu tố của thành ngữ, tục ngữ trong những câu thơ. Đây quả là một con số không nhỏ, nó cho thấy thành ngữ, tục ngữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng như thế nào. Quả là hiếm có một nhà thơ nào lại quan tâm đặc biệt đến vai trò của ngôn ngữ dân gian như Hồ Xuân Hương.

Việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào tác phẩm đã được nhà thơ xử lí rất tinh tế, tài tình và nhuần nhuyễn. Có những tác phẩm tuy rất ngắn nhưng chúng ta đã không khỏi ngạc nhiên khi thấy tác giả đã hai lần sử dụng đến yếu tố thành ngữ, tục ngữ. Chẳng hạn như: Bài Mời trầu có hai câu thành ngữ xanh như lá và bạc như vôi được áp dụng trong câu thơ "Đừng xanh như lá, bạc như vôi". Bài Khóc Tổng Cóc lại có hai câu thành ngữ khác là nòng nọc đứt đuôi và gọt gáy bôi vôi được áp dụng trong hai câu thơ “Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé, Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi”. Hoặc như ở bài Quan thị thì hai câu thơ "Đố ai biết đó vông hay trốc, Còn kẻ nào hay cuống với đầu" lại chính là hai hình ảnh hết sức ví von được rút ra từ hai câu tục ngữ[/i] ngồi lá vông, chổng mông lá trốc [/i]và đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên.

Thậm chí có bài như bài Làm lẽ, chỉ với tám câu thơ ngắn nhưng lại có tới ba câu thành ngữ đã góp phần vào trong ấy, đó là "Năm thì mười hoạ chăng hay chớ" lấy từ ý của câu thành ngữ năm thì mười hoạ; “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm" lấy từ ý của câu thành ngữ cố đấm ăn xôi; và câu "Cầm bằng làm mướn, mướn không công" lấy từ ý của thành ngữ làm mướn không công. Ngoài ra, còn có những bài khác cũng được vận dụng từ ý của thành ngữ, tục ngữ như: "Tài tử văn nhân ai đó tá?" (Tự tình I) lấy ý của thành ngữ tài tử giai nhân. "ấy ai thăm ván cam lòng vậy" (Tự tình III) lấy ý thành ngữ thăm ván bán thuyền. "Bảy nổi ba chìm với nước non" (Bánh trôi nước) ý của thành ngữ ba chìm bảy nổi (bảy nổi ba chìm). "Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo" (Đèo Ba Dội) ý của thành ngữ mỏi gối chồn chân. "Bán lợi mua danh nào những kẻ" (Chơi chợ chùa Thầy) ý của thành ngữ bán lợi mua danh (mua danh bán lợi). Và "Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi" (Con ốc nhồi) từ ý của thành ngữ lăn lóc như cóc bôi vôi.

Qua một số dẫn chứng trên, chúng ta có thể thấy rằng Hồ Xuân Hương khi đưa thành ngữ, tục ngữ vào thơ thường chủ yếu thông qua hai phương thức chính như sau:

Phương thức thứ nhất là vận dụng trực tiếp thành ngữ, tục ngữ vào thơ, tức là lấy nguyên văn, nguyên dạng những câu thành ngữ, tục ngữ vốn có của dân gian để đưa vào thơ như trường hợp: xanh như lá, bạc như vôi (Đừng xanh như lá, bạc như vôi - Mời trầu); nòng nọc đứt đuôi (Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé - Khóc Tổng Cóc); năm thì mười hoạ, (Năm thì mười hoạ chăng hay chớ - Làm lẽ); cố đấm ăn xôi (Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm - Làm lẽ); bảy nổi ba chìm (Bảy nổi ba chìm với nước non - Bánh trôi nước); mỏi gối chồn chân (Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo - Đèo Ba Dội); bán lợi mua danh (Bán lợi mua danh nào những kẻ - Chơi chợ chùa Thầy). Cách xử lí này phải nói là tương đối khó bởi vì nó đòi hỏi tác giả phải có một khả năng cảm nhận hết sức tinh tế về nghĩa của những câu thành ngữ, tục ngữ mà họ định sử dụng để xem nó có phù hợp với ý thơ mà mình định trình bày ở trong câu và trong bài hay không. Đồng thời, tác giả cũng phải là người hết sức giỏi về khả năng xử lí ngôn từ để có thể “ghép” những câu thành ngữ, tục ngữ, vốn là một “khối từ ngữ đúc sẵn”, vào với những từ ngữ chủ quan riêng của mình để tạo nên một câu thơ hoàn chỉnh mà không bị cứng nhắc, gượng ép về nghĩa cũng như về vần điệu.

Những khó khăn nói trên đã được Hồ Xuân Hương xử lí thành công một cách tuyệt vời. Chúng ta thử lấy một ví dụ nhỏ trong số các ví dụ trên thì sẽ thấy rõ hơn biệt tài của Bà trong vấn đề này. Ví dụ trong bài Làm lẽ, để miêu tả thân phận hẩm hiu, thua thiệt của người vợ lẽ trong cuộc sống vợ chồng, tác giả đã sử dụng hai câu thành ngữ năm thì mười hoạ và cố đấm ăn xôi trong hai câu thơ "Năm thì mười hoạ chăng hay chớ" và "Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm". Đối với tiềm thức văn hoá của người Việt thì hai câu thành ngữ này vốn rất quen thuộc vì nó thường được sử dụng để nói tới sự trái khoáy, trớ trêu của một điều gì đó. Vì vậy trong trường hợp này phải nói rằng Xuân Hương đã sử dụng nó rất hợp cảnh hợp tình.

Phương thức thứ hai là chỉ lấy ý của thành ngữ, tục ngữ để chuyển vào trong thơ chứ không áp dụng hoàn toàn như ở cách thứ nhất. Chẳng hạn như: thăm ván bán thuyền (ấy ai thăm ván cam lòng vậy - Tự tình III); gọt gáy bôi vôi (Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi - Khóc Tổng Cóc); làm mướn không công (Cầm bằng làm mướn, mướn không công - Làm lẽ); ngồi lá vông, chổng mông lá trốc (Đố ai biết đó vông hay trốc - Quan thị); đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên (Còn kẻ nào hay cuống với đầu - Quan thị); lăn lóc như cóc bôi vôi (Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi - Con ốc nhồi). Cách xử lí này thường tạo nên tính ẩn ý kín đáo cho câu thơ và đôi lúc khiến cho câu thơ như có hơi hướng của những câu đố, ví dụ như trường hợp của "Đố ai biết đó vông hay trốc" (Quan thị) hay như "Còn kẻ nào hay cuống với đầu" (Quan thị). Những câu thơ được sáng tác theo kiểu này thường tạo cho người đọc có những sự liên tưởng rộng hơn, thích thú hơn và đầy ấn tượng hơn bởi vì dấu ấn thành ngữ, tục ngữ thường chỉ tồn tại phảng phất trong câu thơ chứ không hiện hữu rõ ràng như ở cách thứ nhất. Do đó, muốn phát hiện ra trong câu thơ ấy tác giả có sử dụng các môtip của thành ngữ, tục ngữ để diễn đạt nội dung hay không thì người đọc phải có một vốn thành ngữ, tục ngữ nhất định để làm cơ sở quy chiếu so sánh thì mới nhận ra được.

Qua một số ví dụ trên, chúng ta thấy rằng ngôn ngữ dân gian nói chung và thành ngữ, tục ngữ nói riêng có một vai trò, giá trị rất lớn không chỉ trong đời sống ngôn ngữ nói hằng ngày mà còn cả trong ngôn ngữ viết, đặc biệt là thơ. Những câu thành ngữ, tục ngữ khi đi qua ngòi bút tài hoa của Hồ Xuân Hương dường như trở thành một thứ công cụ hết sức đắc dụng trong việc tạo hình, tạo nghĩa cho thơ mà không cần phải nhờ tới những thứ mĩ từ khác. Như chúng ta đã biết, thành ngữ, tục ngữ vốn là những đơn vị ngôn ngữ hết sức đặc biệt. Nó là một loại tổ hợp từ cố định quen dùng nên rất dễ nhớ dễ thuộc, và đặc biệt hơn là nghĩa của chúng thường có tính văn hoá, giáo dục cộng đồng, cũng như tính khái quát rất cao. Cho nên, khi xuất hiện trong thơ chúng thường đem lại tính gần gũi, bình dị và mộc mạc cho câu thơ. Đồng thời, cũng tạo nên những chiều sâu về nghĩa thông qua sự liên tưởng, suy luận của người đọc. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta phủ nhận giá trị của nền ngôn ngữ văn chương, hay ngôn ngữ phổ thông mà hiện nay chúng tađang phải học, phải tiếp xúc hằng ngày. Điều quan trọng hơn là qua đó giúp cho chúng ta thấy được những vẻ đẹp vốn có của ngôn ngữ dân gian. Và đặc biệt là thấy được cái biệt tài của Bà chúa thơ Nôm trong việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ giỏi như thế nào. Nói tóm lại, bất kể là ngôn ngữ dân gian hay ngôn ngữ văn chương cũng đều cần phải được tiếp thu có chọn lọc và phát huy đúng sở trường thì mới có thể làm giàu thêm cho kho tàng ngôn ngữ dân tộc. Điều đó có nghĩa là mọi cái chỉ tạo nên được giá trị thực sự khi và chỉ khi nó được đặt vào đúng vị trí của nó mà thôi./.

(Nguồn: Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 4 – 2001)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương là một thành tựu văn học đặc sắc trong kho tàng thơ ca Quốc âm Việt
Nam thời trung đại. Từ khi ra đời đến nay đã gần hai trăm năm nhưng thời gian vẫn không làm lu mờ những giá trị thẩm mỹ trong những bài thơ Nôm truyền tụng của nữ sĩ Xuân Hương.


Một trong những yếu tố góp phần tạo nên sự độc đáo trong hồn thơ của Bà chúa thơ Nôm là nữ sĩ đã vận dụng tài tình nhiều yếu tố văn học dân gian như điểm nhìn thẩm mỹ văn hoá dân gian, ngôn ngữ “tỏ lòng” gần gũi với ngôn ngữ nghệ thuật thơ ca dân gian, cách dùng nhiều đại từ nhân xưng “em”, đại từ phiếm chỉ “ai” rất giống với ca dao, cách sử dụng ngoa ngữ (tiếng chửi) trong văn hoá dân gian Việt Nam để sáng tác những câu thơ có tính chất bộc lộ thái độ mạnh mẽ. Đặc biệt, nhà thơ rất thành công trong việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo tục ngữ, thành ngữ, ca dao, câu đố vào thơ mình. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến nghệ thuật sử dụng tục ngữ, thành ngữ của Bà chúa thơ Nôm.



Trong các tác giả thơ Nôm Đường luật, Hồ Xuân Hương là người sử dụng thành ngữ, tục ngữ với tỉ lệ cao nhất. Tìm hiểu 41 bài thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, chúng ta thấy có 14 bài đã tiếp thu, vận dụng thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt (chiếm tỉ lệ 34%), trong đó có 8 bài thơ vận dụng thành ngữ, có 6 bài thơ vận dụng tục ngữ và 1 bài phối hợp sử dụng cả thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt.


1. Nghệ thuật sử dụng thành ngữ


Hồ Xuân Hương sử dụng thành ngữ rất linh hoạt. Không ít trường hợp nữ sĩ đã tiếp thu nguyên vẹn và sử dụng toàn phần thành ngữ bằng cách đặt nó vào vị trí trong hai vế của câu thơ bảy chữ.


Ví dụ:


-“Bảy nổi ba chìm” trong câu “Bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước).


- “ Bạc như vôi” trong câu “Đừng xanh như lá bạc như vôi” (Mời trầu).


- “ Cố đấm ăn xôi” trong câu “Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm” (Làm lẽ).


- “ Năm thì mười hoạ” trong câu “Năm thì mười hoạ hay chăng chớ” (Làm lẽ).


- "Nặng như đá đeo” trong câu “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo” (Kiếp tu hành).


Nhưng điều phổ biến trong quá trình tiếp thu và vận dụng thành ngữ của Hồ Xuân Hương để sáng tạo nghệ thuật là có rất nhiều thành ngữ tiếng Việt đã được nhà thơ “bẻ vụn đan cài vào” hệ thống ngôn ngữ tác phẩm, có nhiều bài thơ chỉ sử dụng một số chi tiết của thành ngữ.


Ví dụ:


- “Đỏ lòng xanh vỏ” và “Đỏ như son” trong bài Bánh trôi nước.


- “Phải duyên phải kiếp” và “Xanh như tàu lá” trong bài Mời trầu.


- “Đứt đôi con nòng nọc” trong bài Khóc Tổng Cóc.


- “Có tiếng không có miêng”, “Gặp chăng hay chớ”, “Làm mướn không công” trong bàiLàm lẽ.


- “Tài tử giai nhân” trong bài Tự tình I .


- “Trái gió trở trời” trong bài Kiếp tu hành.


Nhờ vận dụng linh hoạt thành ngữ tiếng Việt trong sáng tác nghệ thuật, Hồ Xuân Hương đã nêu bật, nhấn mạnh rõ hơn ý nghĩa của các từ cần biểu đạt trong từng câu thơ bảy chữ và làm cho hệ thống ngôn từ mỗi bài thơ Nôm Đương luật thêm đa dạng, biến hoá, sinh động, hấp dẫn. Không chỉ thế, “Hồ Xuân Hương đã “tâm trạng hoá” thành ngữ, làm cho thành ngữ in đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của bà”(Lã Nhâm Thìn).


Trong bài Bánh trôi nước, nhờ vận dụng thành ngữ tiếng Việt, Hồ Xuân Hương đã thể hiện rõ quan niệm tiến bộ về nữ giới. Dù phải sống cuộc đời gian truân vất vả, dù có thể bất lực trước số phận, trước hoàn cảnh nhưng trong tâm hồn người phụ nữ vẫn luôn luôn có ý thức vượt lên, vươn tới làm chủ nhân cách, làm chủ tình cảm để sống nhân hậu, thuỷ chung với cuộc đời.
Ở bài Mời trầu, bằng việc sử dụng tính từ chỉ màu sắc trong một số thành ngữ tiếng Việt để nhấn mạnh sự đối lập giữa màu trắng (“bạc”) của vôi, màu xanh của lá trầu khi miếng trầu mời khách vẫn chưa được khách ăn với màu đỏ (“thắm”) của miếng trầu khi đã được người ăn, Hồ Xuân Hương đã diễn tả thật tế nhị lời mời khách hãy nhận miếng trầu “của Xuân Hương” tự tay têm lấy và chân thành mời. Mặt khác, đằng sau lời mời niềm nở, thân tình ấy còn ngân vọng một lời tỏ tình kín đáo, giao duyên nồng nàn, đằm thắm của một cô gái - một Hồ Xuân Hương đang sống cô đơn giữa cuộc đời nhưng trong lòng đang ấp ủ biết bao khát vọng cháy bỏng về tình yêu đôi lứa, tình vợ chồng son sắt…


Ở bài Kiếp tu hành, nhờ kết hợp vận dụng thành ngữ với biện pháp “nói lái” (“đá đeo”, “ trái gió”), nữ sĩ đã đả kích sâu cay, mạnh mẽ chủ nghĩa diệt dục khổ hạnh của Phật giáo đẩy con người vào tình thế bi kịch.


Trong bài Làm lẽ, nhờ sử dụng khéo léo 5 đơn vị thành ngữ tiếng Việt: “Năm thì mười hoạ”, “có tiếng không có miếng”, “cố đấm ăn xôi”, “làm mướn không công”, “gặp chăng hay chớ” kết hợp với phép đối ngẫu của thi luật thơ Đường trong các câu thực và câu luận, nhà thơ đã phản ánh chân thực và xúc động những thiệt thòi, bất hạnh của phụ nữ trong thân phận lẽ mọn với thái độ bất bình, phản kháng chế độ đa thê ngự trị một cách dai dẳng và khắc nghiệt trong xã hội phong kiến.


2. Với tục ngữ tiếng Việt, Hồ Xuân Hương đã tiếp thu và vận dụng vào trong hệ thống cấu trúc ngôn ngữ của những bài thơ Nôm Đường luật viết về đề tài nhân sinh và xã hội là chủ yếu. Về mặt hình thức, tục ngữ tồn tại dưới dạng “một câu nói có vần hoặc không có vần”. Do đó, khi tiếp thu vận dụng vào quá trình sáng tạo nghệ thuật, Hồ Xuân Hương ít khi sử dụng toàn phần câu tục ngữ mà thường chẻ nhỏ, chắt lọc lấy những chi tiết nổi bật, những yếu tố cần thiết, những từ ngữ quan trọng cho việc thể hiện hình tượng và bộc lộ thái độ.


Ví dụ: - Ý câu tục ngữ “Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi” được đưa vào câu thơ “Nòng nọc đứt đuôi từ đấy nhé” (Khóc Tổng Cóc).


- Ý câu tục ngữ “Thăm ván bán thuyền” được đưa vào câu thơ “Ấy ai thăm ván cam lòng vậy”(Tự tình III).


- Ý câu tục ngữ “Không chồng có chửa mới ngoan/ Có chồng mà chửa thế gian sự thường” được đưa vào câu thơ “ Không có nhưng mà có mới ngoan”(Sự dở dang).


- Ý câu tục ngữ “Con vua vua dấu, con chúa chúa yêu” được đưa vào câu thơ “Chúa dấu, vua yêu một cái này”(Vịnh quạt).


- Ý câu tục ngữ “Hang hùm ai dám mó tay” được đưa vào câu thơ “Chốn ấy hang hùm chớ mó tay”(Trách Chiêu Hổ).


Trong số những bài thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương có vận dụng tục ngữ tiếng Việt để cấu trúc ngôn từ tác phẩm thì Khóc Tổng CócThiếu nữ ngủ ngày là hai bài thơ rất đậm nét dấu ấn cá tính sáng tạo nghệ thuật của Bà chúa thơ Nôm. Bài “Khóc Tổng Cóc”, nhờ phối hợp vận dụng thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt một cách sáng tạo cùng với nghệ thuật điệp từ (từ chàng được nhắc lại ba lần), nghệ thuật chơi chữ[ dùng từ đồng nghĩa cóc, chàng(chẫu chàng), bén (nhái bén), nòng nọc, chuộc (chẫu chuộc)], Hồ Xuân Hương đã thể hiện rất độc đáo và cảm động nỗi đau đớn, tuyệt vọng của người vợ trước tang chồng, người vợ đang sống trong một tâm trạng không bình thường, không còn làm chủ được lí trí cho nên vừa khóc vừa cười. Cười trong khóc, khóc bằng cười, vì khóc mà cười.


Bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày, Hồ Xuân hương không chỉ dùng nhiều từ thuần Việt mà còn dùng cả từ Hán Việt, không chỉ sử dụng điển cố Hán học mà còn vận dụng cả tục ngữ tiếng Việt để khắc hoạ vẻ đẹp thân thể của một thiếu nữ trẻ trung, đầy sức sống. Bằng nghệ thuật tương phản chiếu ứng, nữ sĩ đã miêu tả những rung động trong tâm hồn nhân vật người quân tử khi được chiêm ngưỡng một “toà thiên nhiên”. Trong bài có cụm từ “ngủ ngày” làm vị ngữ trong đầu đề bài thơ đồng âm với cụm động từ trong câu tục ngữ tiếng Việt:


+ “Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm”


+ “Đời người có một gang tay


Ai hay ngủ ngày thì được nửa gang”


Ngủ ngày trong tục ngữ là chỉ việc ngủ rốn, ngủ dậy muộn khi trời đã sáng rõ của kẻ lười nhác cần phê phán. Còn ngủ ngày trong đầu đề bài thơ chỉ việc ngủ buổi trưa của thiếu nữ. Việc này chẳng có gì phải phê phán cả. Cụm từ ngủ ngày trong bài thơ của Hồ Xuân Hương có ý nghĩa khác với ngủ ngày trong các câu tục trên. Vì vậy, bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày là một khám phá độc đáo của Hồ Xuân Hương về vẻ đẹp hình thể có giá trị nhân văn của con người trần thế.


Tóm lại: Hồ Xuân Hương là nhà thơ đã tiếp thu đến mức tối đa và vận dụng đến độ thành thạo, điêu luyện nhất những chất liệu của văn học dân gian vào cấu trúc nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Đây là một trong những nét đặc sắc của nghệ thuật thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top