Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Tư liệu : Khái quát về văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 13192" data-attributes="member: 699"><p><strong>2. Văn học hợp pháp. </strong></p><p><strong></strong></p><p><strong> 2.1. Lực lượng sáng tác: </strong></p><p></p><p> Lực lượng sáng tác tiêu biểu của dòng văn học hợp pháp là nhà nho và các bậc trí thức tân học. Dù là nhà nho hay trí thức tân học phần lớn họ là những người chú trọng đến văn hoá hơn chính trị. Việc đọc sách của họ là để hướng đến mục đích mở mang tầm nhìn cho người sáng tác, nhằm phát triển văn hoá nước nhà. Họ không chỉ đọc tân thư, tân văn mà còn đọc cả những sáng tác văn học phương Tây. Khách quan mà đánh giá thì họ là những người mạnh dạn đến với cái mới, tuy ở họ không tránh khỏi những dằn vặt, trăn trở khi chọn cho mình một hướng đi để phù hợp với sự phát triển của thời đại. Nhìn chung, họ đã tỏ ra là người nhanh chóng vứt bỏ cái cũ phong kiến lạc hậu. Họ đến với cái mới không vì muốn thỏa hiệp với Pháp mà vì sự phát triển của nền văn hoá dân tộc, vì ước nguyện muốn dung hòa hai nền văn hoá Âu - Á. </p><p> </p><p><strong> 2.2. Ðiều kiện ra đời và phát triển của văn học hợp pháp: </strong></p><p> </p><p>Văn học công khai hợp pháp là một bộ phận văn học quan trọng của nền văn học dân tộc trong giai đoạn này. Văn học công khai hợp pháp phát triển trong lúc văn học yêu nước đang bị trấn áp mạnh. Văn học hợp pháp ở buổi đầu đã được phát động từ hai phía đối lập nhau, nhằm hai mục đích trái ngược nhau nhưng lại đạt cùng một kết quả: Phía Pháp muốn có một công cụ để tuyên truyền cho chúng, để phục vụ cho việc khai hoá, do đó mở báo chí xây dựng nhà in, thành lập một số trường dạy quốc ngữ và chữ Pháp, cho dịch các tác phẩm văn học Pháp; phía Việt Nam, người yêu nước muốn thực sự khai hoá cho dân để tìm cách giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, cho nên cổ động học chữ quốc ngữ, giới thiệu tân thư, dạy và khuyên học khoa học kinh tế hiện đại.... Lúc đầu việc làm của hai bên tuy ý đồ đối lập nhau nhưng công việc được tiến hành có những điểm gần nhau. Khi mục đích chính trị của các nhà yêu nước lộ rõ thì Pháp đã tìm cách đối phó. Một đợt càn quét dã man được thực hiện đối với các nhà yêu nước. Các sĩ phu yêu nước rơi vào tình trạng tan tác, nhưng sức sống của dân tộc ta đã tiếp nhận những thành quả ban đầu và đẩy mãi nó lên. Nhất là trong lĩnh vực văn học, chúng ta đã tiến những bước lớn. Văn học hợp pháp đã được phát triển trong những điều kiện thuận lợi lớn: </p><p></p><p><strong>- Chữ quốc ngữ, báo chí, dịch thuật: </strong> </p><p> </p><p> + Vấn đề chữ quốc ngữ: </p><p></p><p>Chữ quốc ngữ đã có mặt ở Việt Nam từ các thế kỷ trước, nhưng đến đầu thế kỷ XX nó mới được đưa vào trong sáng tác văn học một cách phổ biến. Chữ quốc ngữ là một hệ thống ngôn ngữ - văn tự lý tưởng của văn học mới, vì nó mô tả cuộc sống bình thường, nó có thể đến với bất cứ loại độc giả nào từ tầng lớp quí tộc đến bình dân. </p><p> </p><p>Ði đôi với vấn đề sử dụng chữ quốc ngữ trong sáng tác là việc xây dựng văn xuôi quốc ngữ. Trong quá trình hình thành và phát triển của nền văn học mới, các tác giả không tránh khỏi việc ghi chép khẩu ngữ. Mặt khác, do ảnh hưởng của cách viết văn cũ (văn biền ngẫu), văn xuôi quốc ngữ trong giai đoạn này thường đối nhau. Ngoài ra còn có những trường hợp chịu ảnh hưởng của lối văn dịch, câu văn xuôi trở nên dài dòng, nửa Tây nửa Tàu như văn xuôi của Phạm Quỳnh. </p><p> </p><p>Trải qua những thí nghiệm, tìm tòi, người Việt Nam đã làm cho kho từ vựng tiếng Việt ngày thêm phong phú bằng cách sáng tạo thêm từ mới, tiếp nhận thêm từ mới của Trung Quốc, Nhật Bản đọc theo âm Hán Việt, Việt hóa một số từ Pháp, làm cho ngữ pháp tiếng Việt ngày càng mạch lạc, sáng sủa hơn nhờ nắm vững qui luật của ngôn ngữ dân tộc, đẩy lùi câu văn biền ngẫu, đồng hoá vào hệ thống ngữ pháp tiếng Việt một số yếu tố của ngữ pháp tiếng Pháp. Sau bao nhiêu cố gắng của các nhà báo, nhà văn, câu văn nghệ thuật nhằm mô tả chân thật cuộc sống bình thường được hình thành như chúng ta đã thấy trong tác phẩm của Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách, Hồ Biểu Chánh. </p><p> </p><p>+ Báo chí: </p><p> </p><p>Báo chí đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển dòng văn học hợp pháp ở giai đoạn này. Báo chí chính là nơi để các nhà văn công bố tác phẩm của mình, cũng là nơi để các nhà văn thử nghiệm, rèn luyện văn xuôi quốc ngữ. Báo chí là nơi sưu tầm và giới thiệu văn học trung đại Việt Nam, giới thiệu văn học Pháp và văn học Trung Quốc. Báo chí có tác dụng khích lệ, mơ ước về sự nghiệp văn học, kích thích những người cầm bút phỏng tác, sáng tác. Báo chí còn là nơi trao đổi ý kiến, tìm tòi cách làm giàu ngôn ngữ, và cũng là nơi để các nhà văn rèn luyện cách mô tả cuộc sống bằng các thể loại và hình thức mới để hình thành nhà văn và tập hợp thành đội ngũ nhà văn. </p><p></p><p>Báo chí ở giai đoạn này đã đi từ chỗ là một công cụ tuyên truyền của Pháp dần dần ngày càng gắn chặt hơn với văn học, thúc đẩy văn học phát triển. </p><p></p><p>+ Dịch thuật: </p><p> </p><p>Phong trào dịch thuật bắt đầu ở Nam bộ và nhanh chóng phát triển trong phạm vi cả nước. Công việc dịch thuật được thúc đẩy bởi nhiều động cơ và các tác phẩm dịch đã có sức hút lớn đối với độc giả thành thị lúc đó. Việc dịch thuật đã buộc các nhà văn vay mượn, sáng tạo làm cho tiếng ta thêm phong phú, rèn luyện văn xuôi nhanh chóng trưởng thành. Việc dịch thuật cũng giúp cho các nhà văn tiếp nhận nghệ thuật sáng tác mới, cụ thể là loại hình mới, từ đó các tác giả bắt đầu viết bút ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch.... </p><p></p><p><strong>- Cuộc sống ở thành thị và công chúng thành thị: </strong></p><p> </p><p>Những năm đầu thế kỷ XX, cuộc sống ở thành thị Việt Nam đã thay đổi nhiều. Tầng lớp tiểu tư sản ngày càng đông đảo, nhịp độ và tốc độ cuộc sống gấp và nhanh, một lối sống tư sản hóa được lan tràn khắp các ngõ ngách của phố phường. Các tầng lớp khác nhau trong xã hội tuy có mức sống, cách sống khác nhau, thậm chí còn đối lập nhau nhưng vẫn gần nhau về những nét tâm lý, thị hiếu: thích đua đòi, ăn chơi hưởng lạc, muốn sống và giải trí trong môi trường náo nhiệt, khao khát cái lạ, cái luôn luôn thay đổi. Chính cuộc sống mới đưa đến cho con người thế giới quan và nhân sinh quan mới và cũng vì thế đặt ra cho văn học những yêu cầu khác trước. </p><p></p><p>Con người Việt Nam lúc bấy giờ đang sống giữa cuộc sống đua chen cạnh tranh, cần sống thực, không thể thỏa mãn với những lời giáo huấn về đạo lý cương thường. Người ta cần hiểu rõ, hiểu kỹ cuộc sống với tất cả những tình tiết đầy đủ, những chi tiết cụ thể, gây được cảm giác, thỏa mãn được sự tò mò. Người ta cần sống những cảnh ngộ của kịch, những số phận của tiểu thuyết, những cảnh ngộ, số phận của con người cụ thể trong cuộc sống bình thường. Ngưòi ta muốn nếm trải cái có thật chứ không phải được khích lệ bằng những gương trung hiếu minh họa đạo nghĩa. Ngưòi ta cũng muốn rút ra từ đó những bài học quí giá về cuộc sống chứ không phải là bài học đạo lý. Người ta muốn xúc cảm, muốn mở mang như những người cá nhân, chứ không phải xúc động như khi chiêm ngưỡng những tấm gương cao của vị thánh xuất chúng. </p><p></p><p>Thế là vào khoảng trước và sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, một lối sống thành thị tư sản hóa và một công chúng thành thị đã hình thành. Ðó không chỉ là đối tượng mô tả, phục vụ mà còn là nhân tố làm nảy sinh nền văn học mới. </p><p></p><p><strong>- Vấn đề đổi mới về quan niệm sáng tác: </strong></p><p> </p><p>Sự thay đổi về quan niệm sáng tác đã dẫn đến nhiều đổi mới trong nền văn học giai đoạn này. Nó không chỉ là một đặc điểm của giai đoạn văn học mang tính chất giao thời như đã trình bày ở phần trên, mà nó còn là một trong những nhân tố thúc đẩy sự ra đời của văn học mới, đẩy mạnh sự phát triển của cả bộ phận văn học hợp pháp. </p><p> </p><p>Bấy giờ vì muốn đáp ứng nhu cầu thị hiếu và thẩm mỹ của công chúng thành thị nhà văn sáng tạo tác phẩm như một kế sinh nhai. Ðộc giả trước đây đi tìm văn phẩm, bây giờ tác phẩm phải chạy theo người tiêu thụ. Nhà văn thành một nghề, văn học trở thành hàng hoá. Người sáng tác đã xa dần quan niệm "trước thư lập ngôn" sáng tác để thể hiện "tâm, chí, đạo" dùng tác phẩm văn chương để di dưỡng tinh thần và giáo dục con cháu. </p><p></p><p>Trước kia nhà nho không chú ý đến vấn đề phản ánh chân thực, cụ thể cuộc sống đời thường. Các tác giả của bộ phận văn học mới để hết tâm lực vào mô tả sao cho "chân tình, chân cảnh" con người và cuộc sống xã hội, chủ yếu là con người bình thường và cuộc sống bình thường. Ðối tượng được tập trung miêu tả trong tác phẩm bấy giờ là cuộc sống thực, cuộc sống đời thường và những con người cũng có thực trong cuộc sống. </p><p></p><p>Sự thay đổi quan niệm văn học và sự hình thành phương pháp sáng tác mới là cả một quá trình lâu dài giằng co, tranh chấp giữa cái cũ và cái mới. Hiện tượng này tìm thấy trong toàn bộ đời sống một nền văn học mới. </p><p></p><p><strong>- Chính sách văn hóa nô dịch của thực dân: </strong></p><p></p><p>Thực dân Pháp đã thực hiện chính sách văn hoá nô dịch ở Việt Nam, nhằm làm cho nhân dân Việt Nam đoạn tuyệt với những truyền thống tốt đẹp đồng thời phục hồi những mặt lạc hậu phản động trong văn hoá xưa. Tuy nhiên, sự mở mang tương đối của thực dân đã đem lại nhà máy giấy, nhà máy in, một số trường học mới dạy chữ quốc ngữ, báo chí... Ðấy là những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của văn học hợp pháp. </p><p> </p><p>Thế nhưng chính sách văn hoá nô dịch của thực dân cũng tạo nên nhiều lực cản đối với phát triển của văn học hợp pháp, làm hạn chế nội dung tư tưởng của bộ phận văn học này. Vì lưỡi kéo kiểm duyệt quá ngặt nghèo của thực dân, các tác giả khi phản ánh hiện thực cuộc sống xã hội phải bỏ qua hiện thực của cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân. Bị lôi cuốn vào quỹ đạo của chính sách văn học thực dân, nhiều nhà văn đã mang ảo tưởng dùng hoạt động nghệ thuật để bảo tồn nền văn hoá dân tộc, đó là một giải pháp cứu nước lúc bấy giờ. </p><p> </p><p> <strong>2. 3. Một số nội dung tiêu biểu của văn học hợp pháp: </strong></p><p></p><p><strong>* Văn học hợp pháp phản ánh hiện thực xã hội trên con đường tư sản hóa </strong></p><p></p><p>Vào đầu thế kỷ XX có nhiều vấn đề mới đặt ra cho người cầm bút. Hiện thực cuộc sống ngày càng đa dạng, phức tạp với biết bao vấn đề mới lạ đập vào mắt nhà văn. Họ có thể nào làm ngơ trước nó. Cần phải mô tả chân thật, sinh động cuộc sống xã hội, đó là điều làm cho nhà văn luôn trăn trở và hướng đến. </p><p> </p><p>Với ý thức không "tô điểm sai cảnh thực" ý thức mô tả "chân tình, chân cảnh", "khiến người ta nghe câu văn như trông thấy cảnh, tai nghe thấy người mà sinh ra cái lòng quan cảm" giúp các nhà văn viết về xã hội tư sản hoá với những con người, tình huống, cảnh ngộ, sự việc cụ thể. </p><p> </p><p>Xã hội được miêu tả trong văn học hợp pháp là một xã hội náo nhiệt, xô bồ mà đồng tiền tư sản, lối sống tư sản, đạo đức tư sản đang dần dần chiếm địa vị ưu thắng ở thành thị. Trong khi đó ở nông thôn bọn cưòng hào, quan lại, địa chủ cấu kết nhau hà hiếp dân lành. Cuộc sống của người dân nghèo vốn đã lam lũ, khốn khó lại phải chịu đựng thêm bao nhiêu tai hoạ do chúng gây ra. </p><p> </p><p>Xã hội tư sản trong sáng tác của nhà văn lúc đó như một xã hội mục nát, không hề có những con người ưu tú. Ở vào giai đoạn này, ý thức hệ tư sản đang lấn dần vị trí của ý thức hệ phong kiến, nhưng nó vẫn chưa giành được phần thắng về mình. Vì vậy khi giải quyết các vấn đề của xã hội, nhà văn thường rơi vào hiện tượng lưỡng phân. Họ chưa thể khẳng định xã hội tư sản, cũng không thể khẳng định một lý tưởng xã hội khác. Nhà văn chỉ mới nhìn thấy sự đau khổ, đổ vỡ, sự không hài hòa của con người và xã hội. Mang tâm trạng của người trí thức tiểu tư sản bấp bênh, hoang mang, dễ dao động, lại bị lép vế trong xã hội thời đó, nhà văn chỉ dừng lại ở mức độ xót thương, cảm động và đau khổ. </p><p> </p><p>Hiện thực được mô tả trong văn học hợp pháp có tính chất chân thực, cụ thể đa dạng nhưng chưa phải là những vấn đề mấu chốt của xã hội hiện thời. Chưa có ai đi sâu và lưỡi kéo kiểm duyệt của thực dân cũng không cho phép đi sâu vào đời sống cùng khổ của nhân dân lao động để moi ra những mâu thuẫn sâu sắc giữa địa chủ phong kiến tư bản đế quốc với người dân cùng khổ trong xã hội. Giá trị tố cáo, phê phán của văn học hợp pháp còn nhiều hạn chế. Văn học hợp pháp không hề đặt vấn đề đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến thống trị hay bọn tư bản đế quốc. Các tác giả chỉ muốn cải tạo chúng về mặt đạo đức. </p><p> </p><p>Nhìn chung, văn học hợp pháp phản ánh hiện thực trên lập trường đạo đức là chính. Ðây là yếu tố làm nên hạn chế trong nội dung hiện thực của bộ phận văn học này, vì nó đã giới hạn con mắt quan sát của tác giả không cho tác giả trực tiếp và toàn tâm toàn ý nhìn vào hiện thực, phân tích và lý giải hiện thực. </p><p></p><p><strong>* Cái tôi và chủ nghĩa cá nhân trong văn học hợp pháp: </strong></p><p> </p><p>Xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX đang trên con đường tư sản hóa, con người không thể tiếp tục nép mình vào cái ta chung, xã hội tư sản không dành chỗ cho những con người chỉ sống theo trật tự trên dưới, theo quan hệ họ tộc, làng xã. Cái tôi của chủ nghĩa cá nhân rất phù hợp với xã hội hiện thời. Nhà văn, nhà thơ cần phải đưa nó vào trong tác phẩm. </p><p></p><p>Sự tiếp nhận nền văn hoá phương Tây ở các tác giả thời này có nhiều mức độ khác nhau. Riêng đối với các tác giả tân học hoặc chịu ảnh hưởng của nền học vấn mới như Hoàng Ngọc Phách, Hồ Biểu Chánh, Tản Ðà, Ðông Hồ, Tương Phố... hay cả Tân Dân Tử, Trần Thiên Trung... thì cùng một lúc họ phải chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Ðông lẫn phương Tây. Ðiều này đặt ra cho họ một sự lựa chọn hết sức gay go. Ði theo chủ nghĩa cá nhân của ý thức tư sản hay giữ gìn đạo đức phong kiến. Chủ nghĩa cá nhân mở ra cho con người một chân trời tự do: tự do trong quan hệ tình cảm, nhất là tình yêu đôi lứa, chủ nghĩa cá nhân giải phóng con người khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến khắt khe. Nhưng nó mới quá! Làm sao tránh được những bỡ ngỡ, người ta không thể không đến với nó trong sự dè dặt, ngại ngùng. Trong khi đó, đạo đức phong kiến lại vốn là khuôn vàng thước ngọc, quyết định mọi giá trị đạo đức trong xã hội hàng nghìn năm qua, chưa thể dứt bỏ trong chốc lát. Người sáng tác bị đặt vào tình thế lưỡng phân. Ðối với họ cả hai phía đều có sức hấp dẫn và thu hút lạ kỳ, ngay cả trong thị hiếu của công chúng cũng thế. </p><p></p><p>Thơ văn hợp pháp giai đoạn đầu thế kỷ XX đã bắt đầu nói đến những tình cảm riêng tư, sâu kín của con người. Những bài thơ nặng sầu mộng lần lượt ra đời. Người ta bắt đầu nói đến cái khổ của yêu đương, xa cách, nhớ nhung. Nhà văn, nhà thơ đã cất lên tiếng than não ruột cho những mối tình tan vỡ. Chủ nghĩa cá nhân đã xuất hiện nhưng mang một đặc điểm riêng biệt, nó khác với chủ nghĩa cá nhân trong văn học ở giai đoạn 30-40 và cũng không giống với chủ nghĩa cá nhân trong văn học giai đoạn 40-45. Nhìn chung, ở vào thời điểm này, cái tôi và chủ nghĩa cá nhân tuy đã xuất hiện nhưng nó chưa đủ sức để chống đối những ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Các tác giả còn chịu ảnh hưởng của nhân sinh quan phong kiến, cho nên cái tôi còn nhiều màu sắc phong kiến. Chủ nghĩa cá nhân còn rất yếu ớt bởi các tác giả còn đứng về phía đạo đức phong kiến can ngăn con người khỏi phải rơi vào hố cá nhân chủ nghĩa. </p><p></p><p><strong>* Nội dung yêu nước và vấn đề cứu nước của văn học hợp pháp:</strong> </p><p> </p><p>Các tác giả của văn thơ hợp pháp phần lớn là những người đứng ngoài cuộc đấu tranh cứu nước của dân tộc. Họ không được sưởi ấm bởi ngọn lửa của các phong trào cách mạng lúc bấy giờ. Tuy nhiên, ở họ vẫn tiềm tàng một tinh thần dân tộc cao cả. Họ sáng tác không để tuyên truyền, vận động cứu nước như các tác giả của dòng văn học cách mạng, nhưng trong tác phẩm của họ vẫn phảng phất một tinh thần yêu nước. Chính từ những trang viết chất chứa tình cảm đau xót, căm hờn hay tiếc nuối về đất nước đã cho ta thấy được tình yêu quê hương đất nước ở họ. Nói chung, nội dung yêu nước trong văn học hợp pháp được thể hiện một cách mờ nhạt, bóng gió xa xôi. Vấn đề cứu nước cũng được đặt ra nhưng nó không mang tính thiết thực, thậm chí thể hiện tính chất cải lương. </p><p> </p><p><strong> 2. 4. Ðặc điểm nghệ thuật của văn học hợp pháp: </strong></p><p> </p><p>Văn học hợp pháp vừa kế thừa nghệ thuật sáng tác của các nhà nho thời trung đại, vừa tiếp nhận nghệ thuật hiện đại của nền văn học phương Tây. Các tác giả đã tiến hành một cuộc cách tân trong nghệ thuật, lấy truyền thống làm cơ sở và nền văn học hiện đại phương Tây như một chất xúc tác thúc đẩy quá trình cách tân đó. Trong lịch sử văn học Việt Nam, đây là giai đoạn duy nhất có hiện tượng đan xen giữa hai hình thức nghệ thuật: nghệ thuật của văn học trung đại và nghệ thuật của văn học hiện đại. Chính sự lắp ghép và pha tạp các yếu tố cũ và mới đã làm cho nhiều tác phẩm ra đời trong giai đoạn này mang tính chất trung gian, vừa thể hiện chất hiện đại nhưng vẫn mang dáng dấp truyền thống. </p><p> </p><p>Nhìn chung, văn học hợp pháp giai đoạn này có xu hướng tiến gần đến văn học hiện đại. Ðối với các tác gia,í văn học hiện đại là một khu vườn quyến rũ đầy những hoa thơm cỏ lạ. Phát hiện nó là một chuyện nhưng đến với nó là một chuyện khác. Bởi vì họ "không có đủ độ sâu và độ đúng của lý luận, không đủ học vấn để kế thừa truyền thống và tiếp thu ảnh hưởng của văn học nước ngoài một cách hợp lý và sáng tạo" (Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời - Trần Ðình Hượu và Lê Chí Dũng, trang 337). Ðối với người sáng tác, cảm xúc thẩm mỹ có thay đổi, thế giới quan và nhân sinh quan đã khác trước, nhưng họ chưa được trang bị chu đáo về mặt lý luận. Họ đã đến với văn học hiện đại trong sự nhận thức chưa trọn vẹn về mọi phương diện, trong đó có cả phương diện nghệ thuật.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 13192, member: 699"] [B]2. Văn học hợp pháp. 2.1. Lực lượng sáng tác: [/B] Lực lượng sáng tác tiêu biểu của dòng văn học hợp pháp là nhà nho và các bậc trí thức tân học. Dù là nhà nho hay trí thức tân học phần lớn họ là những người chú trọng đến văn hoá hơn chính trị. Việc đọc sách của họ là để hướng đến mục đích mở mang tầm nhìn cho người sáng tác, nhằm phát triển văn hoá nước nhà. Họ không chỉ đọc tân thư, tân văn mà còn đọc cả những sáng tác văn học phương Tây. Khách quan mà đánh giá thì họ là những người mạnh dạn đến với cái mới, tuy ở họ không tránh khỏi những dằn vặt, trăn trở khi chọn cho mình một hướng đi để phù hợp với sự phát triển của thời đại. Nhìn chung, họ đã tỏ ra là người nhanh chóng vứt bỏ cái cũ phong kiến lạc hậu. Họ đến với cái mới không vì muốn thỏa hiệp với Pháp mà vì sự phát triển của nền văn hoá dân tộc, vì ước nguyện muốn dung hòa hai nền văn hoá Âu - Á. [B] 2.2. Ðiều kiện ra đời và phát triển của văn học hợp pháp: [/B] Văn học công khai hợp pháp là một bộ phận văn học quan trọng của nền văn học dân tộc trong giai đoạn này. Văn học công khai hợp pháp phát triển trong lúc văn học yêu nước đang bị trấn áp mạnh. Văn học hợp pháp ở buổi đầu đã được phát động từ hai phía đối lập nhau, nhằm hai mục đích trái ngược nhau nhưng lại đạt cùng một kết quả: Phía Pháp muốn có một công cụ để tuyên truyền cho chúng, để phục vụ cho việc khai hoá, do đó mở báo chí xây dựng nhà in, thành lập một số trường dạy quốc ngữ và chữ Pháp, cho dịch các tác phẩm văn học Pháp; phía Việt Nam, người yêu nước muốn thực sự khai hoá cho dân để tìm cách giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, cho nên cổ động học chữ quốc ngữ, giới thiệu tân thư, dạy và khuyên học khoa học kinh tế hiện đại.... Lúc đầu việc làm của hai bên tuy ý đồ đối lập nhau nhưng công việc được tiến hành có những điểm gần nhau. Khi mục đích chính trị của các nhà yêu nước lộ rõ thì Pháp đã tìm cách đối phó. Một đợt càn quét dã man được thực hiện đối với các nhà yêu nước. Các sĩ phu yêu nước rơi vào tình trạng tan tác, nhưng sức sống của dân tộc ta đã tiếp nhận những thành quả ban đầu và đẩy mãi nó lên. Nhất là trong lĩnh vực văn học, chúng ta đã tiến những bước lớn. Văn học hợp pháp đã được phát triển trong những điều kiện thuận lợi lớn: [B]- Chữ quốc ngữ, báo chí, dịch thuật: [/B] + Vấn đề chữ quốc ngữ: Chữ quốc ngữ đã có mặt ở Việt Nam từ các thế kỷ trước, nhưng đến đầu thế kỷ XX nó mới được đưa vào trong sáng tác văn học một cách phổ biến. Chữ quốc ngữ là một hệ thống ngôn ngữ - văn tự lý tưởng của văn học mới, vì nó mô tả cuộc sống bình thường, nó có thể đến với bất cứ loại độc giả nào từ tầng lớp quí tộc đến bình dân. Ði đôi với vấn đề sử dụng chữ quốc ngữ trong sáng tác là việc xây dựng văn xuôi quốc ngữ. Trong quá trình hình thành và phát triển của nền văn học mới, các tác giả không tránh khỏi việc ghi chép khẩu ngữ. Mặt khác, do ảnh hưởng của cách viết văn cũ (văn biền ngẫu), văn xuôi quốc ngữ trong giai đoạn này thường đối nhau. Ngoài ra còn có những trường hợp chịu ảnh hưởng của lối văn dịch, câu văn xuôi trở nên dài dòng, nửa Tây nửa Tàu như văn xuôi của Phạm Quỳnh. Trải qua những thí nghiệm, tìm tòi, người Việt Nam đã làm cho kho từ vựng tiếng Việt ngày thêm phong phú bằng cách sáng tạo thêm từ mới, tiếp nhận thêm từ mới của Trung Quốc, Nhật Bản đọc theo âm Hán Việt, Việt hóa một số từ Pháp, làm cho ngữ pháp tiếng Việt ngày càng mạch lạc, sáng sủa hơn nhờ nắm vững qui luật của ngôn ngữ dân tộc, đẩy lùi câu văn biền ngẫu, đồng hoá vào hệ thống ngữ pháp tiếng Việt một số yếu tố của ngữ pháp tiếng Pháp. Sau bao nhiêu cố gắng của các nhà báo, nhà văn, câu văn nghệ thuật nhằm mô tả chân thật cuộc sống bình thường được hình thành như chúng ta đã thấy trong tác phẩm của Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách, Hồ Biểu Chánh. + Báo chí: Báo chí đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển dòng văn học hợp pháp ở giai đoạn này. Báo chí chính là nơi để các nhà văn công bố tác phẩm của mình, cũng là nơi để các nhà văn thử nghiệm, rèn luyện văn xuôi quốc ngữ. Báo chí là nơi sưu tầm và giới thiệu văn học trung đại Việt Nam, giới thiệu văn học Pháp và văn học Trung Quốc. Báo chí có tác dụng khích lệ, mơ ước về sự nghiệp văn học, kích thích những người cầm bút phỏng tác, sáng tác. Báo chí còn là nơi trao đổi ý kiến, tìm tòi cách làm giàu ngôn ngữ, và cũng là nơi để các nhà văn rèn luyện cách mô tả cuộc sống bằng các thể loại và hình thức mới để hình thành nhà văn và tập hợp thành đội ngũ nhà văn. Báo chí ở giai đoạn này đã đi từ chỗ là một công cụ tuyên truyền của Pháp dần dần ngày càng gắn chặt hơn với văn học, thúc đẩy văn học phát triển. + Dịch thuật: Phong trào dịch thuật bắt đầu ở Nam bộ và nhanh chóng phát triển trong phạm vi cả nước. Công việc dịch thuật được thúc đẩy bởi nhiều động cơ và các tác phẩm dịch đã có sức hút lớn đối với độc giả thành thị lúc đó. Việc dịch thuật đã buộc các nhà văn vay mượn, sáng tạo làm cho tiếng ta thêm phong phú, rèn luyện văn xuôi nhanh chóng trưởng thành. Việc dịch thuật cũng giúp cho các nhà văn tiếp nhận nghệ thuật sáng tác mới, cụ thể là loại hình mới, từ đó các tác giả bắt đầu viết bút ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch.... [B]- Cuộc sống ở thành thị và công chúng thành thị: [/B] Những năm đầu thế kỷ XX, cuộc sống ở thành thị Việt Nam đã thay đổi nhiều. Tầng lớp tiểu tư sản ngày càng đông đảo, nhịp độ và tốc độ cuộc sống gấp và nhanh, một lối sống tư sản hóa được lan tràn khắp các ngõ ngách của phố phường. Các tầng lớp khác nhau trong xã hội tuy có mức sống, cách sống khác nhau, thậm chí còn đối lập nhau nhưng vẫn gần nhau về những nét tâm lý, thị hiếu: thích đua đòi, ăn chơi hưởng lạc, muốn sống và giải trí trong môi trường náo nhiệt, khao khát cái lạ, cái luôn luôn thay đổi. Chính cuộc sống mới đưa đến cho con người thế giới quan và nhân sinh quan mới và cũng vì thế đặt ra cho văn học những yêu cầu khác trước. Con người Việt Nam lúc bấy giờ đang sống giữa cuộc sống đua chen cạnh tranh, cần sống thực, không thể thỏa mãn với những lời giáo huấn về đạo lý cương thường. Người ta cần hiểu rõ, hiểu kỹ cuộc sống với tất cả những tình tiết đầy đủ, những chi tiết cụ thể, gây được cảm giác, thỏa mãn được sự tò mò. Người ta cần sống những cảnh ngộ của kịch, những số phận của tiểu thuyết, những cảnh ngộ, số phận của con người cụ thể trong cuộc sống bình thường. Ngưòi ta muốn nếm trải cái có thật chứ không phải được khích lệ bằng những gương trung hiếu minh họa đạo nghĩa. Ngưòi ta cũng muốn rút ra từ đó những bài học quí giá về cuộc sống chứ không phải là bài học đạo lý. Người ta muốn xúc cảm, muốn mở mang như những người cá nhân, chứ không phải xúc động như khi chiêm ngưỡng những tấm gương cao của vị thánh xuất chúng. Thế là vào khoảng trước và sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, một lối sống thành thị tư sản hóa và một công chúng thành thị đã hình thành. Ðó không chỉ là đối tượng mô tả, phục vụ mà còn là nhân tố làm nảy sinh nền văn học mới. [B]- Vấn đề đổi mới về quan niệm sáng tác: [/B] Sự thay đổi về quan niệm sáng tác đã dẫn đến nhiều đổi mới trong nền văn học giai đoạn này. Nó không chỉ là một đặc điểm của giai đoạn văn học mang tính chất giao thời như đã trình bày ở phần trên, mà nó còn là một trong những nhân tố thúc đẩy sự ra đời của văn học mới, đẩy mạnh sự phát triển của cả bộ phận văn học hợp pháp. Bấy giờ vì muốn đáp ứng nhu cầu thị hiếu và thẩm mỹ của công chúng thành thị nhà văn sáng tạo tác phẩm như một kế sinh nhai. Ðộc giả trước đây đi tìm văn phẩm, bây giờ tác phẩm phải chạy theo người tiêu thụ. Nhà văn thành một nghề, văn học trở thành hàng hoá. Người sáng tác đã xa dần quan niệm "trước thư lập ngôn" sáng tác để thể hiện "tâm, chí, đạo" dùng tác phẩm văn chương để di dưỡng tinh thần và giáo dục con cháu. Trước kia nhà nho không chú ý đến vấn đề phản ánh chân thực, cụ thể cuộc sống đời thường. Các tác giả của bộ phận văn học mới để hết tâm lực vào mô tả sao cho "chân tình, chân cảnh" con người và cuộc sống xã hội, chủ yếu là con người bình thường và cuộc sống bình thường. Ðối tượng được tập trung miêu tả trong tác phẩm bấy giờ là cuộc sống thực, cuộc sống đời thường và những con người cũng có thực trong cuộc sống. Sự thay đổi quan niệm văn học và sự hình thành phương pháp sáng tác mới là cả một quá trình lâu dài giằng co, tranh chấp giữa cái cũ và cái mới. Hiện tượng này tìm thấy trong toàn bộ đời sống một nền văn học mới. [B]- Chính sách văn hóa nô dịch của thực dân: [/B] Thực dân Pháp đã thực hiện chính sách văn hoá nô dịch ở Việt Nam, nhằm làm cho nhân dân Việt Nam đoạn tuyệt với những truyền thống tốt đẹp đồng thời phục hồi những mặt lạc hậu phản động trong văn hoá xưa. Tuy nhiên, sự mở mang tương đối của thực dân đã đem lại nhà máy giấy, nhà máy in, một số trường học mới dạy chữ quốc ngữ, báo chí... Ðấy là những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của văn học hợp pháp. Thế nhưng chính sách văn hoá nô dịch của thực dân cũng tạo nên nhiều lực cản đối với phát triển của văn học hợp pháp, làm hạn chế nội dung tư tưởng của bộ phận văn học này. Vì lưỡi kéo kiểm duyệt quá ngặt nghèo của thực dân, các tác giả khi phản ánh hiện thực cuộc sống xã hội phải bỏ qua hiện thực của cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân. Bị lôi cuốn vào quỹ đạo của chính sách văn học thực dân, nhiều nhà văn đã mang ảo tưởng dùng hoạt động nghệ thuật để bảo tồn nền văn hoá dân tộc, đó là một giải pháp cứu nước lúc bấy giờ. [B]2. 3. Một số nội dung tiêu biểu của văn học hợp pháp: [/B] [B]* Văn học hợp pháp phản ánh hiện thực xã hội trên con đường tư sản hóa [/B] Vào đầu thế kỷ XX có nhiều vấn đề mới đặt ra cho người cầm bút. Hiện thực cuộc sống ngày càng đa dạng, phức tạp với biết bao vấn đề mới lạ đập vào mắt nhà văn. Họ có thể nào làm ngơ trước nó. Cần phải mô tả chân thật, sinh động cuộc sống xã hội, đó là điều làm cho nhà văn luôn trăn trở và hướng đến. Với ý thức không "tô điểm sai cảnh thực" ý thức mô tả "chân tình, chân cảnh", "khiến người ta nghe câu văn như trông thấy cảnh, tai nghe thấy người mà sinh ra cái lòng quan cảm" giúp các nhà văn viết về xã hội tư sản hoá với những con người, tình huống, cảnh ngộ, sự việc cụ thể. Xã hội được miêu tả trong văn học hợp pháp là một xã hội náo nhiệt, xô bồ mà đồng tiền tư sản, lối sống tư sản, đạo đức tư sản đang dần dần chiếm địa vị ưu thắng ở thành thị. Trong khi đó ở nông thôn bọn cưòng hào, quan lại, địa chủ cấu kết nhau hà hiếp dân lành. Cuộc sống của người dân nghèo vốn đã lam lũ, khốn khó lại phải chịu đựng thêm bao nhiêu tai hoạ do chúng gây ra. Xã hội tư sản trong sáng tác của nhà văn lúc đó như một xã hội mục nát, không hề có những con người ưu tú. Ở vào giai đoạn này, ý thức hệ tư sản đang lấn dần vị trí của ý thức hệ phong kiến, nhưng nó vẫn chưa giành được phần thắng về mình. Vì vậy khi giải quyết các vấn đề của xã hội, nhà văn thường rơi vào hiện tượng lưỡng phân. Họ chưa thể khẳng định xã hội tư sản, cũng không thể khẳng định một lý tưởng xã hội khác. Nhà văn chỉ mới nhìn thấy sự đau khổ, đổ vỡ, sự không hài hòa của con người và xã hội. Mang tâm trạng của người trí thức tiểu tư sản bấp bênh, hoang mang, dễ dao động, lại bị lép vế trong xã hội thời đó, nhà văn chỉ dừng lại ở mức độ xót thương, cảm động và đau khổ. Hiện thực được mô tả trong văn học hợp pháp có tính chất chân thực, cụ thể đa dạng nhưng chưa phải là những vấn đề mấu chốt của xã hội hiện thời. Chưa có ai đi sâu và lưỡi kéo kiểm duyệt của thực dân cũng không cho phép đi sâu vào đời sống cùng khổ của nhân dân lao động để moi ra những mâu thuẫn sâu sắc giữa địa chủ phong kiến tư bản đế quốc với người dân cùng khổ trong xã hội. Giá trị tố cáo, phê phán của văn học hợp pháp còn nhiều hạn chế. Văn học hợp pháp không hề đặt vấn đề đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến thống trị hay bọn tư bản đế quốc. Các tác giả chỉ muốn cải tạo chúng về mặt đạo đức. Nhìn chung, văn học hợp pháp phản ánh hiện thực trên lập trường đạo đức là chính. Ðây là yếu tố làm nên hạn chế trong nội dung hiện thực của bộ phận văn học này, vì nó đã giới hạn con mắt quan sát của tác giả không cho tác giả trực tiếp và toàn tâm toàn ý nhìn vào hiện thực, phân tích và lý giải hiện thực. [B]* Cái tôi và chủ nghĩa cá nhân trong văn học hợp pháp: [/B] Xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX đang trên con đường tư sản hóa, con người không thể tiếp tục nép mình vào cái ta chung, xã hội tư sản không dành chỗ cho những con người chỉ sống theo trật tự trên dưới, theo quan hệ họ tộc, làng xã. Cái tôi của chủ nghĩa cá nhân rất phù hợp với xã hội hiện thời. Nhà văn, nhà thơ cần phải đưa nó vào trong tác phẩm. Sự tiếp nhận nền văn hoá phương Tây ở các tác giả thời này có nhiều mức độ khác nhau. Riêng đối với các tác giả tân học hoặc chịu ảnh hưởng của nền học vấn mới như Hoàng Ngọc Phách, Hồ Biểu Chánh, Tản Ðà, Ðông Hồ, Tương Phố... hay cả Tân Dân Tử, Trần Thiên Trung... thì cùng một lúc họ phải chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Ðông lẫn phương Tây. Ðiều này đặt ra cho họ một sự lựa chọn hết sức gay go. Ði theo chủ nghĩa cá nhân của ý thức tư sản hay giữ gìn đạo đức phong kiến. Chủ nghĩa cá nhân mở ra cho con người một chân trời tự do: tự do trong quan hệ tình cảm, nhất là tình yêu đôi lứa, chủ nghĩa cá nhân giải phóng con người khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến khắt khe. Nhưng nó mới quá! Làm sao tránh được những bỡ ngỡ, người ta không thể không đến với nó trong sự dè dặt, ngại ngùng. Trong khi đó, đạo đức phong kiến lại vốn là khuôn vàng thước ngọc, quyết định mọi giá trị đạo đức trong xã hội hàng nghìn năm qua, chưa thể dứt bỏ trong chốc lát. Người sáng tác bị đặt vào tình thế lưỡng phân. Ðối với họ cả hai phía đều có sức hấp dẫn và thu hút lạ kỳ, ngay cả trong thị hiếu của công chúng cũng thế. Thơ văn hợp pháp giai đoạn đầu thế kỷ XX đã bắt đầu nói đến những tình cảm riêng tư, sâu kín của con người. Những bài thơ nặng sầu mộng lần lượt ra đời. Người ta bắt đầu nói đến cái khổ của yêu đương, xa cách, nhớ nhung. Nhà văn, nhà thơ đã cất lên tiếng than não ruột cho những mối tình tan vỡ. Chủ nghĩa cá nhân đã xuất hiện nhưng mang một đặc điểm riêng biệt, nó khác với chủ nghĩa cá nhân trong văn học ở giai đoạn 30-40 và cũng không giống với chủ nghĩa cá nhân trong văn học giai đoạn 40-45. Nhìn chung, ở vào thời điểm này, cái tôi và chủ nghĩa cá nhân tuy đã xuất hiện nhưng nó chưa đủ sức để chống đối những ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Các tác giả còn chịu ảnh hưởng của nhân sinh quan phong kiến, cho nên cái tôi còn nhiều màu sắc phong kiến. Chủ nghĩa cá nhân còn rất yếu ớt bởi các tác giả còn đứng về phía đạo đức phong kiến can ngăn con người khỏi phải rơi vào hố cá nhân chủ nghĩa. [B]* Nội dung yêu nước và vấn đề cứu nước của văn học hợp pháp:[/B] Các tác giả của văn thơ hợp pháp phần lớn là những người đứng ngoài cuộc đấu tranh cứu nước của dân tộc. Họ không được sưởi ấm bởi ngọn lửa của các phong trào cách mạng lúc bấy giờ. Tuy nhiên, ở họ vẫn tiềm tàng một tinh thần dân tộc cao cả. Họ sáng tác không để tuyên truyền, vận động cứu nước như các tác giả của dòng văn học cách mạng, nhưng trong tác phẩm của họ vẫn phảng phất một tinh thần yêu nước. Chính từ những trang viết chất chứa tình cảm đau xót, căm hờn hay tiếc nuối về đất nước đã cho ta thấy được tình yêu quê hương đất nước ở họ. Nói chung, nội dung yêu nước trong văn học hợp pháp được thể hiện một cách mờ nhạt, bóng gió xa xôi. Vấn đề cứu nước cũng được đặt ra nhưng nó không mang tính thiết thực, thậm chí thể hiện tính chất cải lương. [B] 2. 4. Ðặc điểm nghệ thuật của văn học hợp pháp: [/B] Văn học hợp pháp vừa kế thừa nghệ thuật sáng tác của các nhà nho thời trung đại, vừa tiếp nhận nghệ thuật hiện đại của nền văn học phương Tây. Các tác giả đã tiến hành một cuộc cách tân trong nghệ thuật, lấy truyền thống làm cơ sở và nền văn học hiện đại phương Tây như một chất xúc tác thúc đẩy quá trình cách tân đó. Trong lịch sử văn học Việt Nam, đây là giai đoạn duy nhất có hiện tượng đan xen giữa hai hình thức nghệ thuật: nghệ thuật của văn học trung đại và nghệ thuật của văn học hiện đại. Chính sự lắp ghép và pha tạp các yếu tố cũ và mới đã làm cho nhiều tác phẩm ra đời trong giai đoạn này mang tính chất trung gian, vừa thể hiện chất hiện đại nhưng vẫn mang dáng dấp truyền thống. Nhìn chung, văn học hợp pháp giai đoạn này có xu hướng tiến gần đến văn học hiện đại. Ðối với các tác gia,í văn học hiện đại là một khu vườn quyến rũ đầy những hoa thơm cỏ lạ. Phát hiện nó là một chuyện nhưng đến với nó là một chuyện khác. Bởi vì họ "không có đủ độ sâu và độ đúng của lý luận, không đủ học vấn để kế thừa truyền thống và tiếp thu ảnh hưởng của văn học nước ngoài một cách hợp lý và sáng tạo" (Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời - Trần Ðình Hượu và Lê Chí Dũng, trang 337). Ðối với người sáng tác, cảm xúc thẩm mỹ có thay đổi, thế giới quan và nhân sinh quan đã khác trước, nhưng họ chưa được trang bị chu đáo về mặt lý luận. Họ đã đến với văn học hiện đại trong sự nhận thức chưa trọn vẹn về mọi phương diện, trong đó có cả phương diện nghệ thuật. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Tư liệu : Khái quát về văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930
Top