Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Tư liệu : Khái quát về văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 13191" data-attributes="member: 699"><p><strong>III.- Ðầu thế kỉ XX văn học Việt Nam đi vào con đường hiện đại hóa. </strong></p><p><strong> </strong></p><p><strong>1. Khái niệm về văn học hiện đại : </strong> </p><p></p><p>Văn chương hiện đại là nền văn chương mới về nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật mà theo chúng tôi đã có mầm mống từ đầu thế kỉ XIX song hình thành và phát triển chủ yếu trong phạm vi thế kỉ XX (chuyên đề "Sự chuyển biến của văn học Việt Nam sang thời kỳ hiện đại") (Trần Thanh Ðạm, trang 25). </p><p></p><p><strong>2. Vấn đề hiện đại hoá của văn học :</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong> 2.1 Thế nào là hiện đại hóa của văn học ? </strong></p><p></p><p>- Giáo sư Trần Thanh Ðạm có viết : "Vì tính chất hiện đại của nó không được hình thành trong một ngày, một tháng, một năm cho nên mới đặt vấn đề : Hiện đại hóa và tiến trình hiện đại hóa" (Tài liệu đã dẫn). </p><p></p><p>- Giáo sư Trần Ðình Hượu đã giải thích cụ thể hơn : "Quá trình hiện đại hóa văn học là quá trình xóa bỏ quan niệm xã hội luân thường với con người đạo đức và chức năng hình thành quan niệm xã hội, quan niệm con người, quan niệm cuộc sống chi phối việc thay đổi đề tài văn học. Người sáng tác phải chú ý đến người, đến việc và phải quan tâm đến cốt truyện, đến nhân vật, phải quan tâm đến nhận thức, đến xây dựng. Ðó là quá trình biến dạng, tha hóa ba mẫu nhân vật : Nho gia, người ẩn sĩ và người tài tử tồn tại mấy trăm năm trong văn học bác học. Ðó là cụ thể hóa, đa dạng hóa các nhân vật của xã hội cũ : Vua, quan Tuần, quan Huyện, quan Nghè, Thầy Ðồ, ông Lý, người nông dân. Ðó là quá trình xuất hiện ngày càng nhiều những nhân vật thành thị : Thầy Thông, Thầy Ký, ông Thầu Khoán, cậu học trò, người dân lao động, người công nhân, cô tiểu thư và cô gái mới. Cuộc sống trong văn học cũng dần dần phức tạp, đa dạng, nhiều màu sắc như cuộc sống thực và để thể hiện nó, thể loại, phương pháp sáng tác, tiêu chuẩn thẩm mĩ cũng kịp thời thay đổi theo" (Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, trang 25) </p><p></p><p><strong>2.2-Vì sao có yêu cầu hiện đại của văn học Việt Nam ở đầu thế kỉ XX ? </strong></p><p></p><p> + Khách quan : hoàn cảnh xã hội, sự thay đổi trong tư tưởng, văn hóa đã tạo cơ sở cho việc hiện đại hóa của nền văn học Việt Nam ở đầu thế kỉ XX. </p><p></p><p>- Xã hội : Sự thay đổi về hình thái xã hội là một yếu tố quan trọng đã ảnh hưởng đến sự thay đổi của nền văn học Việt Nam. Ðó là sự thay đổi từ xã hội <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a> sang xã hội thực dân nửa <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a>. Ðặc trưng của xã hội thực dân nửa <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a> là có sự hiện diện của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mang hình thức thuộc địa, đã gây biến đổi lớn trong cơ cấu xã hội, làm ảnh hưởng đến tâm lý sống, điệu sống, cách sống, nhịp sống của toàn xã hội, trước hết là ở thành thị. Nhà văn sống trong xã hội có những biến đổi lớn lao như thế cũng bị chi phối cách sống, cách nghĩ, cách cảm. </p><p></p><p>- Xã hội thực dân nửa <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a>, thành thị, đã phát triển nhanh tạo nên lối sống thành thị hiện đại, sôi động, khẩn trương. Từ điều kiện của văn minh thành thị sự giao lưu mọi mặt trong nước và ngoài nước cũng được thay đổi, không còn bị giới hạn trong phạm vi khu vực mà vươn tới phạm vi tòan cầu. </p><p></p><p>- Tư tưởng, văn hóa : </p><p></p><p>Từ đầu thế kỉ XX, trong phạm vi cả nước, đời sống văn hóa tư tưởng của người Việt Nam đã bắt đầu thay đổi. Có sự chuyển biến từ ý thức hệ <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a> sang ý thức hệ tư sản. Ý thức hệ <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a> vẫn còn tồn tại nhưng mất địa vị độc tôn, độc quyền. Ý thức hệ tư sản mới được hình thành và bắt đầu mâu thuẫn với ý thức hệ <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a>, đang từng bước chiếm dần vị trí trong xã hội. </p><p></p><p>Ðầu thế kỉ XX nền văn hóa phương Tây đã được du nhập vào Việt Nam ồ ạt, trong phạm vi cả nước. Cuộc giao lưu văn hóa lần này có nhiều mới mẻ so với trước kia, mà nổi bật là vượt ra khỏi phạm vi khu vực để vươn đến toàn cầu. </p><p></p><p> + Chủ quan : sự vận động và phát triển của văn học là một nhu cầu tất yếu.</p><p> </p><p><strong>3. Vấn đề hiện đại hóa của văn học Việt Nam ở 30 năm đầu thế kỉ XX : </strong> </p><p></p><p>- Vấn đề hiện đại hóa của văn học Việt Nam ở đầu thế kỉ XX đã diễn ra theo hai bước : </p><p> </p><p> + Bước 1 -Từ năm 1900 đến 1920: Ở giai đoạn này văn học đã đổi mới về nội dung. Các vấn đề thuộc về ý thức hệ, lý tưởng chính trị xã hội, tình cảm cụ thể... là những vấn đề mà chúng ta có thể nhận thấy dễ dàng. Ví dụ : về ý thức hệ, văn học ra đời trong giai đoạn này phần lớn chiûu sự chi phối bởi ý thức hệ tư sản, trong khi các sáng tác ở thời trung đại chịu sự chi phối của ý thức hệ <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a>; về lý tưởng chính trị xã hội, chủ nghĩa yêu nước đã gắn với lý tưởng cách mạng dân chủ tư sản, khác với văn học trung đại chủ nghĩa yêu nước không thể tách rời lý tưởng tôn quân... </p><p></p><p>Về mặt nghệ thuật, văn học giai đoạn 1900 - 1920, trong phạm vi cả nước, chưa có những đổi mới đáng kể. Các tác giả chỉ dừng lại ở mức độ cách tân nghệ thuật sáng tác của nhà nho trước kia. Tiêu biểu nhất là thơ văn yêu nước và cách mạng. Còn nhiều tác phẩm thể hiện những vấn đề mới của cách mạng bằng hình thức nghệ thuật cũ. Các tác giả còn ít dùng chữ Quốc ngữ để sáng tác ,chưa bỏ được lối văn biền ngẫu, thơ vẫn là một thể loại được ưa chuộng, ngôn ngữ vẫn còn mang tính chất cầu kỳ, bóng bẩy... </p><p></p><p>Trường hợp những bài thơ bị pha trộn một vài câu hoặc một đoạn thơ chữ Hán cầu kỳ, khó hiểu khá phổ biến trong giai đoạn này. Ví dụ : "Bài hát khuyên nhà nho" - (Khuyết danh) là một minh chứng cụ thể: </p><p></p><p>"Chữ duy tân gác để ngoài tai </p><p>Những tấp tễnh đua tài nô lệ </p><p>Ðãn ngôn vũ trụ giai ngô sự </p><p>Khẳng hứa sơn hà thuộc bỉ cường </p><p>Khuyên ai mà có chí cải lương </p><p>Nên phải biết tự cường mới được" </p><p></p><p>+ Bước 2 - Từ năm 1920 - 1930: Văn học ở giai đoạn này không chỉ đổi mới về nội dung mà cả nghệ thuật cũng đã khác trước rất nhiều. Văn học đã mang tính hiện đại rõ rệt nhưng yếu tố trung đại vẫn còn tồn tại xen kẽ, khá phổ biến từ nội dung đến hình thức. Ví dụ : "Tố Tâm" - Hoàng Ngọc Phách, các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, thơ Tản Ðà đều có mang đặc điểm nói trên. </p><p></p><p>Ðề cập đến công cuộc hiện đại hóa văn học ở giai đoạn này, chúng ta thấy vai trò của văn học hợp pháp được thể hiện rất rõ. Ở bộ phận văn học này, tất nhiên không thể tránh được hạn chế do hoàn cảnh hoạt động văn học trong vòng luật pháp của chính quyền thực dân. </p><p></p><p>- Kết quả của quá trình hiện đại hóa văn học ở giai đoạn 1900 - 1930 : Mặc dù đây chỉ là chặng đường đầu của tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nhưng nó cũng gặt hái được những kết quả đáng kể, tạo cơ sở vững chắc cho chặng đường tiếp theo. Trước hết, nó đã đóng góp tích cực vào công cuộc hiện đại hóa văn học bằng sự thay đổi hệ ý thức trong văn học theo hướng tiên tiến. Nó cũng có vai trò trong việc đổi mới thi pháp văn học. Mặt khác, công cuộc hiện đại hóa văn chương ở giai đoạn này đã đưa nền văn học nước ta đi vào quỹ đạo của nền văn học thế giới. </p><p></p><p><strong>VI.- Các dòng văn học: </strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>1. Văn học yêu nước và cách mạng</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong> 1.1- Lực lượng sáng tác :</strong> Lực lượng sáng tác chủ yếu của dòng văn học yêu nước và cách mạng giai đoạn 1900 - 1930 là các nhà Nho. Nhưng đây là những nhà nho có tư tưởng tiến bộ. Họ là những người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các phong trào cách mạng lúc bấy giờ. Họ cũng từng là những "chí đồ đệ" của Khổng Tử nhưng lập trường tư tưởng của họ khác với lớp nhà nho trước kia. Họ đã được tiếp nhận các luồng tư tưởng tiến bộ từ nước ngoài truyền vào, thông qua sách báo, mà tiêu biểu là tân thư và tân văn. Họ quan niệm văn chương cũng là một loại vũ khí đánh giặc cứu nước, cho nên họ đã sáng tác văn chương để phục vụ cho hoạt động chính trị. Ðó là những người như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền,..... </p><p></p><p>Quần chúng lao động cũng là những người sáng tác tích cực của bộ phận văn học yêu nước và cách mạng ở giai đoạn này. </p><p></p><p>Ngoài ra còn có một lực lượng không nhỏ những tác giả mà chúng ta chưa được biết tên tuổi. Tác phẩm của họ có nội dung thể hiện tinh thần yêu nước thiết tha, ý chí đấu tranh chống giặc đến cùng, Vì muốn tránh sự theo dõi của mật thám, họ thường dấu tên họ và bí mật phổ biến tác phẩm của mình. </p><p></p><p><strong>1.2- Những bước thăng trầm của văn học yêu nước và cách mạng giai đoạn 1900 - 1930 : </strong> </p><p></p><p>- Từ năm 1905 đến 1908, thơ văn yêu nước và cách mạng theo xu hướng dân chủ tư sản phát triển cao. Có văn thơ của phong trào Ðông Du, có văn thơ của Ðông Kinh nghĩa thục, văn thơ chống thuế ở Trung Kỳ. Người sáng tác bao gồm cả sĩ phu và quần chúng lao động. </p><p></p><p>Văn thơ Ðông Du chủ yếu từ nước ngoài gửi về nên có điều kiện nói mạnh, nói trực tiếp những vấn đề muốn nói, nhìn chung thể hiện tinh thần lao động chống Pháp. Hai cây bút trụ cột của văn thơ Ðông Du là Phan Bội Châu và Nguyễn Thượng Hiền. </p><p></p><p>Văn thơ của phong trào Duy Tân, tiêu biểu là Ðông kinh nghĩa thục thiên vào nội dung cải cách xã hội, thể hiện tinh thần yêu nước, nêu lên các quan niệm mới mẻ về đất nước, xã hội, nhân sinh... Ðóng góp nhiều cho văn thơ của phong trào Duy Tân phải kể đến Phan Chu Trinh, Nguyễn Phan Lãng, Lê Ðại, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Ðức Kế... Bên cạnh đó còn có một số tác giả không cho biết tên, như tác giả của các bài "Văn minh tân đọc sách", "Cáo hủ lậu văn", Bài ca Aï tế á"...... </p><p></p><p>Văn thơ của phong trào chống thuế ở Trung Kỳ phần lớn không rõ tên tác giả và dần dần nó đã hòa nhập vào kho tàng văn học dân gian. Số văn thơ này như: Ca dao chống áp bức bóc lột, Bài vè sưu thuế lạm thu, Vè thuế nặng, Bài hát xin xâu.v.v... Ðặc điểm nổi bật của bộ phận thơ văn chống thuế ở Trung Kỳ là phản ánh một cách sâu sắc nỗi khổ của nhân dân. </p><p></p><p>Nhìn chung, trong khoảng thời gian này số người tham gia sáng tác thơ văn yêu nước rất đông, lượng tác phẩm ra đời cũng rất nhiều. Hơn nữa, vấn đề lưu truyền phổ biến cũng khá rầm rộ. Người ta làm đủ mọi cách để các tác phẩm đến được với độc giả. Người ta dịch ra quốc âm, chép tay rồi chuyền cho nhau hoặc còn đưa vào chương trình giảng dạy ở trường Ðông Kinh nghĩa thục.v.v... Với nội dung yêu nước tiến bộ, hừng hực tinh thần cách mạng, ý chí quyết tâm đánh giặc, thơ văn yêu nước ra đời trong giai đoạn này đã tạo ra những ảnh hưởng lớn, có lợi cho phong trào cách mạng. </p><p> </p><p>- Từ năm 1908 đến năm 1912, văn thơ yêu nước và cách mạng rơi vào tình trạng bế tắc. Cuối năm 1908, cách mạng bị khủng bố, chính lúc đó thơ văn yêu nước cũng bắt đầu lâm vào tình thế khó khăn. Số lượng tác phẩm ra đời rất ít, chất lượng cũng giảm sút rõ rệt. </p><p></p><p>Các nhà nho tham gia phong trào Ðông Du, trong cơn thất vọng nhất thời, không còn cảm hứng để sáng tác. Phan Bội Châu phải chạy trốn sang Thái Lan, nghiên mực tàu của ông dường như khô cạn. </p><p></p><p>Các sĩ phu thuộc nhóm Ðông kinh nghĩa thục thì phần lớn bị bắt, bị đày ra Côn Ðảo. Lúc đầu thơ văn yêu nước theo các chí sĩ vào nhà tù cũng được phát triển khá cao, nhưng dần dần về sau cũng giảm sút cả về số lượng lẫn chất lượng. </p><p></p><p>- Năm 1912, Việt Nam quang phục hội ra đời, khí thế cách mạng có chiều hướng bùng lên sau những ngày tạm lắng. Một số thơ văn hiệu triệu cách mạng lại xuất hiện. Văn học yêu nước và cách mạng ra đời trong thời điểm này, tiếp tục thể hiện những nội dung cũ, nhưng đã bắt đầu mang âm điệu khác trước, tính chất cổ động, khích lệ đấu tranh có phần giảm sút, để rồi sau đó bộ phận văn học này trở về với tình trạng lơ thơ, khí thế sôi nổi, hừng hực tinh thần cách mạng mất dần. </p><p></p><p> Nhìn chung thơ văn cách mạng từ sau khủng bố của giặc Pháp, năm 1909 vẫn tồn tại, nhưng chất lượng và số lượng không bằng những năm trước đây. Trong khi đó văn thơ châm biếm thời thế, đả kích bọn quan lại, tay sai, thổ lộ chút lòng thương nước, thương dân, khóc những nhà cách mạng hy sinh trong các cuộc khủng bố của quân thù.... của những cây bút không tham gia cách mạng nhưng ít nhiều có tinh thần dân tộc vẫn tiếp tục ra đời, mặc dù không có những bài thật xuất sắc. Tuy nhiên, số tác phẩm nói trên chưa sưu tầm được đầy đủ, nói chung là chưa thể khôi phục lại đầy đủ bộ mặt văn học của quần chúng yêu nước hồi này. Nhưng có thể khẳng định ở chặng này cũng như các chặng khác, dòng văn học dân gian tố cáo sự bóc lột của kẻ thù, phơi bày tội ác của quần chúng vẫn không vơi cạn. </p><p></p><p> - Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, phong trào ái quốc dân chủ lại sôi nổi trong cả nước nhưng chỉ giới hạn ở các đô thị. Văn thơ yêu nước lại phát triển cùng với phong trào cách mạng mang tính chất đòi tự do dân chủ theo xu hướng tư sản. Văn thơ cách mạng bấy giờ trở lại thời kỳ sôi nổi, rầm rộ, có thơ văn trong nước và cả thơ văn từ nước ngoài đưa về, có thơ văn phổ biến bí mật và cả thơ văn phổ biến công khai. Văn thơ công khai phần lớn xuất hiện trong phong trào ái quốc dân chủ 1925 - 1926, xoay quanh các sự kiện chính, đòi thả Phan Bội Châu, để tang Phan Chu Trinh, học sinh bãi khóa, cùng với việc Khải Ðịnh đi Pháp và việc hắn làm lễ tứ tuần đại khánh. Ngoài ra, trên văn đàn công khai, Ngô Ðức Kế và Huỳnh Thúc Kháng còn đả kích quyết liệt bọn bồi bút của Pháp. Mặc dù văn học cách mạng ở giai đoạn này có chiều hướng khởi sắc, phát triển về số lượng và chất lượng, mang nhiều sắc thái mới nhưng vẫn không sao sánh bằng giai đoạn 1905 - 1908. </p><p></p><p> - Những năm cuối của thập niên thứ ba, văn học yêu nước và cách mạng theo xu hướng cách mạng tư sản dần dần xuống dốc. Trước khi mất hẳn, nó cũng góp phần sưởi ấm cho những tâm hồn buốt lạnh và là tiếng nói của dân tộc trong những ngày chờ đón luồng tư tưởng mới nhất của thời đại, tư tưởng cách mạng vô sản. </p><p></p><p> Cũng trong thời gian này, mầm mống của văn học cách mạng theo xu hướng vô sản đã được nảy nở. Ðặc điểm của văn học này là còn ít tính chất văn nghệ, nhiều tính chất chính trị nhưng nội dung đã tiến bộ hơn hẳn dòng văn học tư sản cùng giai đoạn. </p><p> </p><p><strong>1.3- Nội dung của văn học yêu nước và cách mạng : </strong></p><p></p><p> <strong>* Thể hiện tư tưởng yêu nước tiến bộ: </strong></p><p></p><p> Văn học yêu nước và cách mạng đã nêu lên quan niệm mới về đất nước, về yêu nước. Các nhà nho yêu nước và cả nhân dân ta sống trong điều kiện ý thức hệ <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a> thống trị không thể nào quan niệm có nước lại không có vua. Nước là của vua, yêu nước tất phải yêu vua, yêu vua là yêu nước. Vấn đề là cần có vua sáng để có tôi hiền. Sang đến đầu thế kỷ XX, chế độ thực dân nửa <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a> đã ra đời và thay thế chế độ <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a>, trạng thái ý thức của xã hội cũng chuyển biến theo. Sự có mặt của ý thức hệ tư sản là một nhân tố mới có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội. Quan niệm của các tác giả văn thơ cách mạng về quốc gia đã khác trước. Nước không còn là của vua, vua và nước không còn là một. Có thể có nước mà không có vua. Yêu nước không nhất thiết phải yêu vua. "Trung quân ái quốc" hai cái tách rời nhau. Chủ nghĩa tôn quân đang dần dần bị loại trừ và như thế, nói đến nước sẽ là nói đến non sông, nòi giống, nói đến dân tộc, đồng bào. Trước kia, nghĩa quân thần, đạo thần tử có thể là động lực kích thích tinh thần đấu tranh: </p><p></p><p> Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi </p><p> Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi </p><p></p><p>bắt đầu trở thành vô nghĩa. Văn thơ yêu nước đi tìm sức mạnh từ nhiều nguồn. Từ những truyền thuyết thần thoại đề cao nòi giống, từ lòng tha thiết với vẻ đẹp của non sông gấm vóc, từ thái độ trân trọng cái địa vị của đất nước, cơ nghiệp của cha ông đã nhiều thế hệ nối tiếp nhau xây dựng, đặc biệt là niềm tự hào về truyền thống anh hùng chống giặc ngoại xâm. </p><p></p><p>Nọ thuở trước đánh tàu mấy lớp </p><p>Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang </p><p>Sông Ðằng lớp sóng Trần vương </p><p>Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê </p><p>Quang Trung đế từ khi độc lập </p><p>Khí anh hùng đầy lấp giang san </p><p> </p><p>Tự hào về đất nước các tác giả không còn ca ngợi các bậc thánh đế anh hùng xuất chúng, mà họ đã đi đến khẳng định vai trò của nhân dân, của "ức triệu anh hùng vô danh." Nhìn chung, văn thơ yêu nước đã khẳng định một vấn đề rất mới mẻ: Ðất nước là của dân, yêu nước là phải yêu dân. </p><p></p><p>"Nước Việt Nam là của gia tài, </p><p>Cả quyền lợi với đất đai </p><p>Của dân nào phải riêng ai một nhà." </p><p> (Lời tuyên cáo của Việt Nam quang phục hội- Hoàng Trọng Mậu). </p><p></p><p>Hoặc : </p><p></p><p>Nước có mạnh thì dân mới mạnh </p><p>Dân có khôn thì nước mới khôn </p><p>( Kinh đạo nam _ khuyết danh ) </p><p></p><p>Trong thơ văn yêu nước ở đầu thế kỷ XX, vấn đề yêu nước còn được gắn liền với vấn đề cách mạng. Chống giặc ngoại xâm, giải phóng đất nước đó là chuyện chung của nhiều thời đại có ngoại xâm. Nhưng chống giặc để rồi không trở lại chế độ <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a> mà tiến lên xây dựng chế độ dân chủ tư sản là một đổi mới trong lịch sử của dân tộc. Ðó cũng là nội dung chủ yếu của văn thơ cách mạng giai đoạn 1900 - 1930. Ðiều này đã được khẳng định trong "Lời tuyên cáo của Việt Nam quang phục hội": </p><p></p><p>Muốn cho ích nước lợi nhà </p><p>Muốn cho ích nước lợi nhà (Hoàng Trọng Mậu) </p><p></p><p>nhưng chuẩn bị cho nó thì đã từ văn thơ của phong trào Duy Tân, Ðông Kinh Nghĩa Thục và phần nào cả văn thơ Ðông Du.... Ở đây song song với nội dung kêu gọi chống Pháp, còn có nội dung cải cách xã hội nhằm làm cho nước giàu dân mạnh. Hai nhiệm vụ đó quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. </p><p></p><p>Yêu nước bấy giờ được biểu hiện bằng hành động cụ thể là tham gia đánh giặc cứu nước và tiến hành cải cách xã hội. </p><p> </p><p>Vào đầu thế kỷ XX ,vấn đề cãi cách xã hội được đặt ra với mục đích làm cho dân giàu nước mạnh , được thực hiện song song với nhiệm vụ đánh Pháp </p><p></p><p>Trong thơ văn yêu nước, đầu thế kỷ XX, yêu nước và vấn đề dân chủ gắn liền nhau. Xuất phát từ quan niệm mới về đất nước, yêu nước các tác giả đã đi đến khẳng định quyền làm chủ của người dân trong xã hội, đồng thời cũng khẳng định vai trò của người dân trong sự nghiệp cứu nước. Mục đích cứu nước lúc bấy giờ là vì dân chứ không phải vì vua. Phan Bội Châu đề cao địa vị của người dân trong công cuộc xây dựng nước nhà : </p><p></p><p>Nghìn muôn ức triệu người chung góp </p><p>Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà. </p><p>Người dân ta của dân ta, </p><p>Dân là dân nứơc , nước là nước dân </p><p></p><p>Và khẳng định : </p><p></p><p>Sông xứ Bắc ,bể phương Ðông </p><p>Nếu không dân cũng là không có gì </p><p></p><p>Người dân đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước là thực hiện bổn phận đồng thời thể hiện tinh thần làm chủ của mình. Thơ văn yêu nước thường nhắc đến các khái niệm "đồng bào, đồng quốc" xác lập nên một chữ "nghĩa" - nghĩa đồng bào khác hẳn với chữ "nghĩa" trong văn học trung đại. </p><p></p><p><strong>* Thời sự chính trị trong văn chương đầu thế kỷ XX. </strong></p><p> </p><p>Xã hội Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX là một bầu trời đen kịt. Chính quyền <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a> đương thời có thể làm ngơ, ngồi yên trên ngai vàng để hưởng thụ, nhưng nhân dân Việt Nam những người yêu nước Việt Nam thì không thể nào nhắm mắt, khoanh tay. Ngọn cờ Cần vương vừa ngã xuống, thanh niên lại xông xáo đi tìm một hướng cứu nước mới. Phong trào yêu nước Duy Tân và cách mạng như một tia sáng bừng lên vào đầu thế kỷ XX. Tia sáng ấy dù mong manh, yếu ớt và sớm tắt đi nhưng cũng đủ xoa dịu những khó khăn, căng thẳng, đợi chờ của đồng bào Việt Nam sau nhiều năm dài chống giặc liên tiếp thất bại. Văn chương yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ đã phản ánh kịp thời và phát ngôn cho các phong trào cách mạng lúc bấy giờ. Ðó là phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu cấp tiến đi theo con đường cách mạng dân chủ tư sản. </p><p> </p><p>Như những thước phim thời sự hấp dẫn, sinh động, văn chương yêu nước đầu thế kỷ XX đã ghi nhận kịp thời các diễn biến và tái hiện trọn vẹn gương mặt của xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX. Sau khi kết thúc công cuộc bình định ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Pháp đã bắt tay ngay vào việc khai thác thuộc địa tại Việt Nam. Một chế độ cai trị và bóc lột hà khắc đã diễn ra. Người dân Việt Nam mất hết chủ quyền. Mọi thứ đều do người Pháp cai quản, giai cấp thống trị <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a> đương thời chỉ giữ nổi vai trò bù nhìn mà thôi. Ðể thực hiện chủ trương vơ vét, bóc lột ở các thuộc địa, thực dân Pháp đã thi hành chính sách thuế khóa rất nặng nề, hàng trăm thứ thuế cay nghiệt đã được áp dụng. Nó như những sợi dây thòng lọng vô hình xiết chặt lấy người dân Việt Nam vô tội. (Hải ngoại huyết thư- Phan Bội Châu). </p><p> </p><p>Thực dân Pháp còn tìm cách đẩy những người dân vô tội vào nơi ma thiêng nước độc để đào sông, đào mỏ, làm đường. Thân phận của người đi phu không khác gì anh tù khổ sai: </p><p></p><p>"Ông Tây áp trước </p><p>Cậu lính áp sau." </p><p></p><p>do bị vắt kiệt sức lao động, sống trong màn trời chiếu đất, "ăn cơm với muối, uống nước chè trâm." </p><p> </p><p>Ðiều đáng sợ, làm cho con người kinh hãi là chính sách ngu dân bằng con đường "khai hóa" của thực dân. Song song với những lời lẽ mỵ dân thâm độc là hàng loạt chủ trương nham hiểm, xảo quyệt được thực hiện. Một mặt chúng tỏ ra như muốn bảo vệ những giá trị văn hóa của dân tộc, nhưng mặt khác chúng lại ra sức xây dựng một nền giáo dục mới. Nội dung của chương trình học mới tất nhiên là nhằm mục đích đào tạo những phần tử tay sai trung thành, phục vụ cho chế độ bảo hộ. Ngoài ra các cơ quan báo chí do Pháp thành lập lần lượt ra đời ở cả ba kỳ Nam, Trung, Bắc. Báo chí là cơ quan tuyên truyền của thực dân, nơi phổ biến đường lối, chính sách cai trị của chúng. Tất cả những việc làm của thực dân đã biến Việt Nam từ một quốc gia <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a> tự chủ trở thành một thuộc địa của chủ nghĩa tư bản. Ðó là tấn bi kịch của dân tộc Việt Nam khi bước vào thế kỷ XX. </p><p> </p><p>Thế kỷ XX được mở đầu bằng trang sử đau thương mà rất hào hùng. Cao trào cách mạng đầu thế kỷ XX như một làn gió mạnh thổi khắp ba miền của đất nước. Các nhà nho ta trước kia chỉ biết nghiên cứu sách vở thánh hiền, "Chăm chăm theo lối học Tàu", không biết gì xa hơn ngoài văn minh Á Ðông, tiêu biểu là Trung Quốc. Ngày nay, qua Tân thư, Tân văn, tầm nhìn của các cụ mở rộng ra tận năm châu bốn biển. Các cụ được biết đến khoa học kỹ thuật hiện đại. Các cụ đã thấy được một điều rất quan trọng: Cứu nước không chỉ là đánh đuổi giặc ngoại xâm mà còn là đánh đuổi nghèo nàn và lạc hậu, là xây dựng một xã hội cường thịnh bắt kịp đà tiến triển của văn minh Âu Mỹ. Cũng chính vì vậy mà nếu như phong trào yêu nước ở cuối thế kỷ XIX kết hợp với tinh thần bài ngoại thì tư tưởng Duy Tân ở giai đoạn đầu thế kỷ XX lại đi đôi với tinh thần vọng ngoại. Chủ nghĩa yêu nước thời này thắm đượm màu sắc duy tân. Tinh thần dân tộc được đi đôi với ý thức cách mạng. Duy tân và cách mạng là tinh thần của thời đại, và duy tân và cách mạng cũng là xu thế hiện đại của tư tưởng và văn hóa dân tộc. Thực tế đã được phản ánh trong văn chương giai đoạn này. Ðó là một không khí cách mạng đầy hào hứng. </p><p></p><p>"Ðội tiên phong đâu tá, gió duy tân từ Ðông hải thổi vào </p><p>Gương ngoại quốc kia là, sóng cách mạng bởi Âu châu dồn tới." </p><p> ("Văn tế Phan Chu Trinh" - Phan Bội Châu) </p><p></p><p>Nhìn chung, thơ văn yêu nước giai đoạn đầu thế kỷ XX nổi bật nội dung khai sáng dân tộc đúng như nhận định của ông Trần Thanh Ðạm: "Có người gọi rất đúng rằng văn học đầu thế kỷ XX có tính chất của một phong trào ánh sáng như ở Âu châu vào thế kỷ XVIII". (Chuyên đề "Sự chuyển biến của văn học Việt Nam sang thời kỳ hiện đại" trang 37). </p><p> </p><p>Có thể khẳng định rằng thời sự là một đặc điểm của văn chương yêu nước và cách mạng giai đoạn này. Khi làn sóng cách mạng trong nước lên cao, thơ văn yêu nước được sống trong không khí chính trị sôi nổi, quyết liệt cho nên không ngừng phát triển về số lượng lẫn chất lượng. Các sáng tác đó đã dõi theo hoạt động của các tổ chức yêu nước, cùng với Ðông Kinh nghĩa thục, Ðông Du, đến với mọi người qua những buổi diễn thuyết, bình văn hay hiện diện ngay trong bài học của các học sinh ở những trường học do các nhóm này tổ chức. Khi các tổ chức cách mạng lần lượt bị thất bại, những người tham gia bị cầm tù. Văn thơ yêu nước theo bước chân của người tù chính trị đi vào nhà giam. Văn thơ trong tù có thời điểm đã được phát triển về số lượng và chất lượng, nhưng rất tiếc là đến nay số lượng đó còn lại rất ít, chủ yếu là văn vần. </p><p>Thơ văn trong tù đã góp phần không nhỏ cùng với thơ văn yêu nước và cách mạng ở giai đoạn này làm tái hiện lại lịch sử chính trị xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX. Ðó là lịch sử của những phong trào chống Pháp theo ngọn cờ cách mạng dân chủ tư sản, có lúc sôi nổi quyết liệt nhưng cũng có hồi mất mát hy sinh, mặc dù đau thương vẫn hào hùng bất khuất. </p><p> </p><p>Bức tranh thời sự đầu thế kỷ XX được các tác giả chấm phá bằng những nét sinh động, chân thực thể hiện được cái đa dạng của cuộc sống, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đầy gian khổ đau thương mà rất hào hùng. Các thi sĩ, văn gia thời này đâu chỉ nhằm tái hiện lịch sử. Họ còn dùng ngòi bút để tuyên truyền vận động cứu nước, để giác ngộ "xã hội đang còn mê mẩn, đánh thức cả một làng nho còn chìm đắm trong vòng danh lợi." </p><p></p><p><strong>* Văn học yêu nước và cách mạng là lời tuyên truyền vận động cứu nước. </strong></p><p> </p><p>Sống trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, dân khổ nhục, nhà nho luôn có ý thức về trách nhiệm và rất mong muốn tìm ra con đường cứu nước và làm cho đất nước giàu mạnh, sánh kịp các nước châu Âu. Nhưng họ chỉ có trong tay một thứ vũ khí là văn chương, họ muốn biến nó thành công cụ vạn năng "vừa là trống vừa là chiêng thức tỉnh người mê ngủ, vừa là gươm là súng đánh đổ cường quyền." (Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX -Ðặng Thai Mai, trang 20). Trong thời điểm này các nhà nho nhận thấy văn chương chân chính có một khả năng to lớn, một chức năng quan trọng: Tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, tập hợp lực lượng để chống giặc cứu nước. </p><p></p><p>Tuyên truyền những gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền như thế nào? Ðây là vấn đề cần bàn đến: Các nhà chí sĩ ái quốc thời này hướng đến lực lượng nhà nho là trước hết. Vì nhà nho là tiêu biểu cho tinh thần, văn hóa của dân tộc. Bởi nhà nho có nhiều mối thù sâu nặng với thực dân. Nhưng chủ trương khai dân trí, đoàn kết dân tộc khiến những người làm cách mạng lúc bấy giờ cần phải đưa tư tưởng mới đến đông đảo quần chúng. Nhưng xét cho cùng thì tầng lớp trí thức <a href="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html" target="_blank">phong kiến</a> vẫn được xem là đối tượng chủ yếu. Không riêng gì Phan Bội Châu mà nhiều nhà cách mạng đương thời cũng đặt niềm tin và trách nhiệm lên đôi vai của nho sĩ. Ðiều này phản ánh đặc trưng của thời đại. Quần chúng nhân dân đã được chú ý nhưng cái nhìn toàn diện về họ, vị trí và vai trò của họ trong cuộc đấu tranh này còn bị nhiều hạn chế. </p><p> </p><p> Khi đặt chân lên đất nước Việt Nam, thực dân Pháp không chỉ nhằm khai thác những tiềm lực về kinh tế mà còn ôm ấp ý đồ thống trị về mặt tinh thần nhân dân ta. Chúng muốn biến dân tộc Việt Nam trở thành nô lệ cho chúng. Sống trong chế độ chính trị và giáo dục của thực dân, người Việt Nam sẽ dễ dàng trở thành những kẻ ích kỷ, đê hèn, tự ti, mất gốc, không biết gì đến Tổ quốc, dân tộc. Nhân dân Việt Nam đang say sưa trong giấc ngủ của đêm trường nô lệ. Nhiều người quên dần cái nhục mất nước, cứ ngỡ rằng việc khai hóa của thực dân là sự thật, là hảo ý của Pháp đối với Việt Nam. Nỗi đau mất nước đã lắng dần theo năm tháng, người ta lại còn cảm thấy dường như sự hiện diện của Pháp lại có lợi cho người Việt Nam, Pháp mang đến cho nhân dân Việt Nam bao nhiêu là tiện nghi vật chất mà họ chưa từng có được. Người Việt Nam đã thích nghi dần và bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Phải đánh thức đồng bào, "gọi hồn" dân tộc trở về, phải giáo dục tư tưởng mới cho nhân dân: Yêu nước giành độc lập và cải cách xã hội. Văn học yêu nước và cách mạng đã tích cực giác ngộ xã hội, đánh thức cả dân tộc còn mê mẩn. Loại văn thơ gọi hồn trở thành công cụ trong giai đoạn này. (Kêu hồn nước - Nguyễn Quyền, Tỉnh hồn ca - Phan Chu Trinh). </p><p></p><p>Văn chương còn góp phần vào việc bồi dưỡng tình cảm cho con người, đánh đổ tinh thần tự ti, xây dựng tình cảm mới, nhắc nhở rằng nhục nô lệ chỉ có thể rửa sạch và được rửa sạch bằng tinh thần đấu tranh của toàn thể đồng bào. Phan Bội Châu đã cho rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất nước là do nhân dân ta xung khắc, bất hòa đã ngờ nhau chẳng biết tin nhau, coi nhau như thể quân thùì mà "bụng có hợp thì nhà mới hợp" còn "lòng đã tan thì nước cũng tan." </p><p> </p><p>Tiếp nối truyền thống văn học của các giai đoạn trước, văn học hướng tới sự phát triển vào con người cố gắng vươn lên khẳng định những giá trị chân chính của con người, đặt ra vấn đề quyền sống con người, trong đó có người phụ nữ. Ðến giai đoạn này văn học đã phát triển thêm một bước: Nêu lên yêu cầu đấu tranh giải phóng phụ nữ và xem nó như một bộ phận của cách mạng dân tộc. Thanh niên cũng trở thành đối tượng được quan tâm nhiều. Các nhà nho đã thấy rõ vai trò, khả năng của họ cho nên rất chú ý giáo dục đối tượng này. Trong Bài ca chúc Tết thanh niên" Phan Bội Châu đã vạch kỹ con đường đi tới cho thanh niên, kêu gọi họ phải tỉnh táo và sáng suốt trong việc chọn cho mình một lý tưởng sống. Phải biết: "Ði cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan" để làm nên việc lớn. </p><p></p><p>Tác giả của văn chương yêu nước giai đoạn đầu thế kỷ XX phần lớn là những nho sĩ cấp tiến. Tầm nhìn của họ được mở rộng, họ biết đến nhiều nước trên thế giới. Họ đã nhận ra ánh sáng của văn minh hiện đại. Ðứng trước sự phát triển vượt bậc về khoa học kinh tế của các nước, nhìn lại xã hội Việt Nam còn quá nghèo nàn, lạc hậu, họ vừa kinh ngạc vừa lo sợ. Vì vậy khi tuyên truyền cứu nước tác giả này cũng đi từ chỗ ca ngợi nước người, chỉ ra cái yếu kém của nước mình để khêu gợi lòng tự ái, tự trọng của mọi người. Người Việt Nam phải biết nhục với tình cảnh mất nước, phải đau đớn, phải căm hờn, phải lo lắng, hoảng hốt trước nguy cơ diệt chủng... Nhìn chung, văn chương cổ động thời này chú trọng nhiều đến việc kích thích tình cảm. </p><p> </p><p>Văn chương tuyên truyền ở giai đoạn đầu thế kỷ XX cũng nhắc nhở truyền thống nhưng chú ý đến hiện tại nhiều hơn. Các tác giả lấy hiện thực trước mắt để làm cơ sở thuyết phục, vận động cứu nước. Ðó là hiện thực của xã hội thiếu dân chủ, của nền kinh tế lạc hậu thấp kém, của một hoàn cảnh chính trị rối ren, của cuộc sống khổ nhục, lầm than vì ách thống trị hà khắc do thực dân Pháp gây ra. Chính vì vậy mà tác dụng tuyên truyền rất cao đã khiến cho kẻ thù thấy đó là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự thống trị của chúng. Cho nên chúng đã tìm mọi cách để ngăn chặn. Ông Ðặng Thai Mai có nhận xét: "Ý chí căm thù của của nhân dân là kho thuốc nổ, văn chương đầy nhiệt tình của các nhà chiến sĩ là mồi lửa làm cho kho thuốc nổ ấy bốc cháy." (Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, trang 100). </p><p> </p><p>Sau biến cố năm 1908, phong trào cách mạng bị lắng xuống do sự đàn áp quá dã man của kẻ thù. Tổ chức cách mạng không còn cơ sở trong nội địa, vậy mà văn thơ tuyên truyền vẫn tiếp tục ra đời để triển khai những chủ trương lớn của hội duy tân ngày trước. Các sáng tác này do những ngưòi yêu nước còn lại đang lẫn trốn hoặc chạy ra nước ngoài tìm cách hoạt động và sáng tác. Nội dung không có gì thay đổi, có khác là ở chỗ khẳng định dứt khoát cái chính thể mà cuộc cách mạng ái quốc sẽ thành lập cho nước Việt Nam là chế độ dân chủ cộng hòa theo quốc dân Ðảng Trung Quốc; xác nhận quyền làm chủ của nhân dân. Chính chỗ này đã làm cho tư tưởng của nó có tác dụng rõ rệt đối với độc giả hiện đại. Phong trào cách mạng dân tộc dân chủ tư sản không giành được thắng lợi hoàn toàn nhưng thơ văn cổ xúy cho phong trào ấy cũng kèo dài thời gian tồn tại và phát triển đến khoảng hai mươi năm. Nó đã đóng góp không nhỏ cho hoạt động chính trị cứu nước thời bấy giờ. </p><p> </p><p><strong>1.4. Vấn đề cách tân nghệ thuật trong văn học yêu nước và cách mạng. </strong></p><p> </p><p>Lực lượng sáng tác văn chương đầu thế kỷ XX chủ yếu là các nhà nho, nhà khoa bảng. Ðối với họ chữ Hán, chữ Nôm là phương tiện thông dụng nhất và quen thuộc đến thành nề nếp. Nhà Nho "cũng chỉ quen với văn, thơ, phú, lục... thứ văn học cao quí viết bằng thứ ngôn ngữ khó hiểu, rất khó nói chuyện thực tế, khó đi vào quần chúng đông đảo." (Văn học yêu nước và cách mạng - Ðặng Thai Mai, trang 122). Trước yêu cầu mới của xã hội, người sáng tác phải đưa tác phẩm của mình đến với phong trào cách mạng, dùng văn chương để tuyên truyền giáo dục tư tưởng mới cho quần chúng. Tình hình mới lại có nhiều phức tạp: giữa lực lượng nhà nho và nhân dân chưa có sự thống nhất với nhau về hình thức nghệ thuật, ngôn ngữ văn học... vẫn còn tồn tại hai dạng công chúng khác nhau. Làm sao để tất cả nội dung cần tuyên truyền đều đến với mọi tầng lớp nhân dân? Ðạt được điều này phải giải quyết nhiều vấn đề quan trọng và cấp thiết: Cải cách văn tự, cải cách ngôn ngữ, nghệ thuật của văn chương, việc vận dụng chữ quốc ngữ trong sáng tác văn chương giúp cho quần chúng dễ dàng đến với các tác phẩm văn chương nghệ thuật lúc bấy giờ. Ðể đạt được hiệu quả tuyên truyền, các tác giả thời này vận dụng đủ mọi thể loại sáng tác. Các thể loại truyền thống như: Thơ (lục bát, song thất lục bát) ca trù, hát dặm... lẫn các hình thức mới phù hợp với mục đích tuyên truyền, cổ động (tiểu thuyết, hình thức diễn ca). Phan Bội Châu được mệnh danh là một người "có lẽ từ xưa đến nay trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào đã chịu khó và có gan đem ngòi bút ra thử thách trên nhiều loại văn khác nhau như Sào Nam" (Ðặng Thai Mai). Người sáng tác thời này đã chú ý đến yếu tố hiện thực trong tác phẩm. Họ thường đi thẳng vào các vấn đề chính trị xã hội trước mắt để đưa ra lập luận nhằm mục đích giáo dục hay tuyên truyền vận động. </p><p>Văn xuôi Nôm đến đầu thế kỷ XX vẫn còn rất ấu trĩ, lủng củng, nghèo nàn, mà nhà nho cũng quen dùng chữ Hán hơn chữ Nôm. Vì vậy việc cải cách văn xuôi trước hết tiến hành trong văn chữ Hán. Các nhà nho tiến bộ đã bỏ bớt âm hưởng biền ngẫu, cố gắng đưa tri thức mới, thuật ngữ mới vào trong sáng tác. Họ học cách viết của báo chí Trung Quốc lúc đó là trình bày ý kiến rõ ràng, mạch lạc, chặt chẽ. Các nhà nho thời nay chịu ảnh hưởng của văn tân thư Trung Quốc đặc biệt là họ thường lấy văn của Lương Khải Siêu làm mẫu mực. </p><p> </p><p>Do yêu cầu sáng tác để tuyên truyền nên các tác phẩm thời này thường chú ý đến việc nói cho dân nghe, viết cho dân hiểu. Vì vậy họ phải viết bằng tiếng nói, âm điệu mà nhân dân quen thuộc, ưa thích. Muốn cổ động có tác dụng họ phải chú ý trình bày rành mạch, khúc chiết, phải mô tả thực tế, phải khêu gợi, phải lâm li, giàu tình cảm, phải có sức kích động. Bởi thế văn chương thời này cũng trút bỏ hết giọng uỷ miñ, yếu đuối, trở nên hùng tráng, đanh thép để cảm động, lôi cuốn. </p><p></p><p>"Dây! Dậy! </p><p>Bên án tiếng gà vừa gáy... </p><p>Ði cho êm! Ðứng cho vững! Trụ cho gan!..." </p><p>(Bài ca Chúc Tết thanh niên). </p><p></p><p>Văn vần vẫn là hình thức được ưa chuộng nhất trong thời này. Ðầu thế kỷ XX phổ biến hình thức diễn ca. Có những văn bản chính luận đã được diễn ca nhằm mục đích đưa tư tưởng mới đến với quần chúng được dễ dàng. Ðó là trường hợp của "Hải ngoại huyết thư" của Phan Bội Châu. Diễn ca được các nhà yêu nước dùng để thể hiện những nội dung tuyên truyền cứu nước rất phù hợp với điều kiện xã hội lúc bấy giờ. Người ta có thể đọc cho nhau nghe, nhớ lâu, dễ thuộc không cần phải in thành sách vở... </p><p></p><p>Ðể đạt được hiệu quả trong tuyên truyền, các tác giả văn thơ yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX đã cách tân nghệ thuật sáng tác, tạo nên những đổi mới so với trước kia. Tuy nhiên văn phong của họ tỏ ra rất bề bộn, chữ Hán, chữ quốc ngữ pha tạp, các thể loại truyền thống và hiện đại đan xen. Tuy hô hào sử dụng chữ quốc ngữ nhưng đại đa số các nhà nho lại thích dùng chữ Nôm để sáng tác. Họ chưa bỏ được lối viết văn biền ngẫu, nhiều bài thơ thời này còn bị pha trộn một vài câu hoặc một đoạn thơ chữ Hán cầu kỳ khó hiểu ("Bài hát khuyên nhà nho", Hú hồn thanh niên). Nhiều từ ngữ xa lạ, tên đất, tên người thật đặc biệt được mang vào trong tác phẩm một cách tuỳ tiện, làm cho bài văn, bài thơ trở nên nặng nề tạo cảm giác khó chịu đối với người đọc (Tình phu phụ - Khuyết danh). Có thể khẳng định đây là một đặc điểm chỉ tìm thấy ở văn học giai đoạn này.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 13191, member: 699"] [B]III.- Ðầu thế kỉ XX văn học Việt Nam đi vào con đường hiện đại hóa. 1. Khái niệm về văn học hiện đại : [/B] Văn chương hiện đại là nền văn chương mới về nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật mà theo chúng tôi đã có mầm mống từ đầu thế kỉ XIX song hình thành và phát triển chủ yếu trong phạm vi thế kỉ XX (chuyên đề "Sự chuyển biến của văn học Việt Nam sang thời kỳ hiện đại") (Trần Thanh Ðạm, trang 25). [B]2. Vấn đề hiện đại hoá của văn học : 2.1 Thế nào là hiện đại hóa của văn học ? [/B] - Giáo sư Trần Thanh Ðạm có viết : "Vì tính chất hiện đại của nó không được hình thành trong một ngày, một tháng, một năm cho nên mới đặt vấn đề : Hiện đại hóa và tiến trình hiện đại hóa" (Tài liệu đã dẫn). - Giáo sư Trần Ðình Hượu đã giải thích cụ thể hơn : "Quá trình hiện đại hóa văn học là quá trình xóa bỏ quan niệm xã hội luân thường với con người đạo đức và chức năng hình thành quan niệm xã hội, quan niệm con người, quan niệm cuộc sống chi phối việc thay đổi đề tài văn học. Người sáng tác phải chú ý đến người, đến việc và phải quan tâm đến cốt truyện, đến nhân vật, phải quan tâm đến nhận thức, đến xây dựng. Ðó là quá trình biến dạng, tha hóa ba mẫu nhân vật : Nho gia, người ẩn sĩ và người tài tử tồn tại mấy trăm năm trong văn học bác học. Ðó là cụ thể hóa, đa dạng hóa các nhân vật của xã hội cũ : Vua, quan Tuần, quan Huyện, quan Nghè, Thầy Ðồ, ông Lý, người nông dân. Ðó là quá trình xuất hiện ngày càng nhiều những nhân vật thành thị : Thầy Thông, Thầy Ký, ông Thầu Khoán, cậu học trò, người dân lao động, người công nhân, cô tiểu thư và cô gái mới. Cuộc sống trong văn học cũng dần dần phức tạp, đa dạng, nhiều màu sắc như cuộc sống thực và để thể hiện nó, thể loại, phương pháp sáng tác, tiêu chuẩn thẩm mĩ cũng kịp thời thay đổi theo" (Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, trang 25) [B]2.2-Vì sao có yêu cầu hiện đại của văn học Việt Nam ở đầu thế kỉ XX ? [/B] + Khách quan : hoàn cảnh xã hội, sự thay đổi trong tư tưởng, văn hóa đã tạo cơ sở cho việc hiện đại hóa của nền văn học Việt Nam ở đầu thế kỉ XX. - Xã hội : Sự thay đổi về hình thái xã hội là một yếu tố quan trọng đã ảnh hưởng đến sự thay đổi của nền văn học Việt Nam. Ðó là sự thay đổi từ xã hội [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL] sang xã hội thực dân nửa [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL]. Ðặc trưng của xã hội thực dân nửa [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL] là có sự hiện diện của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mang hình thức thuộc địa, đã gây biến đổi lớn trong cơ cấu xã hội, làm ảnh hưởng đến tâm lý sống, điệu sống, cách sống, nhịp sống của toàn xã hội, trước hết là ở thành thị. Nhà văn sống trong xã hội có những biến đổi lớn lao như thế cũng bị chi phối cách sống, cách nghĩ, cách cảm. - Xã hội thực dân nửa [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL], thành thị, đã phát triển nhanh tạo nên lối sống thành thị hiện đại, sôi động, khẩn trương. Từ điều kiện của văn minh thành thị sự giao lưu mọi mặt trong nước và ngoài nước cũng được thay đổi, không còn bị giới hạn trong phạm vi khu vực mà vươn tới phạm vi tòan cầu. - Tư tưởng, văn hóa : Từ đầu thế kỉ XX, trong phạm vi cả nước, đời sống văn hóa tư tưởng của người Việt Nam đã bắt đầu thay đổi. Có sự chuyển biến từ ý thức hệ [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL] sang ý thức hệ tư sản. Ý thức hệ [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL] vẫn còn tồn tại nhưng mất địa vị độc tôn, độc quyền. Ý thức hệ tư sản mới được hình thành và bắt đầu mâu thuẫn với ý thức hệ [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL], đang từng bước chiếm dần vị trí trong xã hội. Ðầu thế kỉ XX nền văn hóa phương Tây đã được du nhập vào Việt Nam ồ ạt, trong phạm vi cả nước. Cuộc giao lưu văn hóa lần này có nhiều mới mẻ so với trước kia, mà nổi bật là vượt ra khỏi phạm vi khu vực để vươn đến toàn cầu. + Chủ quan : sự vận động và phát triển của văn học là một nhu cầu tất yếu. [B]3. Vấn đề hiện đại hóa của văn học Việt Nam ở 30 năm đầu thế kỉ XX : [/B] - Vấn đề hiện đại hóa của văn học Việt Nam ở đầu thế kỉ XX đã diễn ra theo hai bước : + Bước 1 -Từ năm 1900 đến 1920: Ở giai đoạn này văn học đã đổi mới về nội dung. Các vấn đề thuộc về ý thức hệ, lý tưởng chính trị xã hội, tình cảm cụ thể... là những vấn đề mà chúng ta có thể nhận thấy dễ dàng. Ví dụ : về ý thức hệ, văn học ra đời trong giai đoạn này phần lớn chiûu sự chi phối bởi ý thức hệ tư sản, trong khi các sáng tác ở thời trung đại chịu sự chi phối của ý thức hệ [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL]; về lý tưởng chính trị xã hội, chủ nghĩa yêu nước đã gắn với lý tưởng cách mạng dân chủ tư sản, khác với văn học trung đại chủ nghĩa yêu nước không thể tách rời lý tưởng tôn quân... Về mặt nghệ thuật, văn học giai đoạn 1900 - 1920, trong phạm vi cả nước, chưa có những đổi mới đáng kể. Các tác giả chỉ dừng lại ở mức độ cách tân nghệ thuật sáng tác của nhà nho trước kia. Tiêu biểu nhất là thơ văn yêu nước và cách mạng. Còn nhiều tác phẩm thể hiện những vấn đề mới của cách mạng bằng hình thức nghệ thuật cũ. Các tác giả còn ít dùng chữ Quốc ngữ để sáng tác ,chưa bỏ được lối văn biền ngẫu, thơ vẫn là một thể loại được ưa chuộng, ngôn ngữ vẫn còn mang tính chất cầu kỳ, bóng bẩy... Trường hợp những bài thơ bị pha trộn một vài câu hoặc một đoạn thơ chữ Hán cầu kỳ, khó hiểu khá phổ biến trong giai đoạn này. Ví dụ : "Bài hát khuyên nhà nho" - (Khuyết danh) là một minh chứng cụ thể: "Chữ duy tân gác để ngoài tai Những tấp tễnh đua tài nô lệ Ðãn ngôn vũ trụ giai ngô sự Khẳng hứa sơn hà thuộc bỉ cường Khuyên ai mà có chí cải lương Nên phải biết tự cường mới được" + Bước 2 - Từ năm 1920 - 1930: Văn học ở giai đoạn này không chỉ đổi mới về nội dung mà cả nghệ thuật cũng đã khác trước rất nhiều. Văn học đã mang tính hiện đại rõ rệt nhưng yếu tố trung đại vẫn còn tồn tại xen kẽ, khá phổ biến từ nội dung đến hình thức. Ví dụ : "Tố Tâm" - Hoàng Ngọc Phách, các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, thơ Tản Ðà đều có mang đặc điểm nói trên. Ðề cập đến công cuộc hiện đại hóa văn học ở giai đoạn này, chúng ta thấy vai trò của văn học hợp pháp được thể hiện rất rõ. Ở bộ phận văn học này, tất nhiên không thể tránh được hạn chế do hoàn cảnh hoạt động văn học trong vòng luật pháp của chính quyền thực dân. - Kết quả của quá trình hiện đại hóa văn học ở giai đoạn 1900 - 1930 : Mặc dù đây chỉ là chặng đường đầu của tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nhưng nó cũng gặt hái được những kết quả đáng kể, tạo cơ sở vững chắc cho chặng đường tiếp theo. Trước hết, nó đã đóng góp tích cực vào công cuộc hiện đại hóa văn học bằng sự thay đổi hệ ý thức trong văn học theo hướng tiên tiến. Nó cũng có vai trò trong việc đổi mới thi pháp văn học. Mặt khác, công cuộc hiện đại hóa văn chương ở giai đoạn này đã đưa nền văn học nước ta đi vào quỹ đạo của nền văn học thế giới. [B]VI.- Các dòng văn học: 1. Văn học yêu nước và cách mạng 1.1- Lực lượng sáng tác :[/B] Lực lượng sáng tác chủ yếu của dòng văn học yêu nước và cách mạng giai đoạn 1900 - 1930 là các nhà Nho. Nhưng đây là những nhà nho có tư tưởng tiến bộ. Họ là những người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các phong trào cách mạng lúc bấy giờ. Họ cũng từng là những "chí đồ đệ" của Khổng Tử nhưng lập trường tư tưởng của họ khác với lớp nhà nho trước kia. Họ đã được tiếp nhận các luồng tư tưởng tiến bộ từ nước ngoài truyền vào, thông qua sách báo, mà tiêu biểu là tân thư và tân văn. Họ quan niệm văn chương cũng là một loại vũ khí đánh giặc cứu nước, cho nên họ đã sáng tác văn chương để phục vụ cho hoạt động chính trị. Ðó là những người như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền,..... Quần chúng lao động cũng là những người sáng tác tích cực của bộ phận văn học yêu nước và cách mạng ở giai đoạn này. Ngoài ra còn có một lực lượng không nhỏ những tác giả mà chúng ta chưa được biết tên tuổi. Tác phẩm của họ có nội dung thể hiện tinh thần yêu nước thiết tha, ý chí đấu tranh chống giặc đến cùng, Vì muốn tránh sự theo dõi của mật thám, họ thường dấu tên họ và bí mật phổ biến tác phẩm của mình. [B]1.2- Những bước thăng trầm của văn học yêu nước và cách mạng giai đoạn 1900 - 1930 : [/B] - Từ năm 1905 đến 1908, thơ văn yêu nước và cách mạng theo xu hướng dân chủ tư sản phát triển cao. Có văn thơ của phong trào Ðông Du, có văn thơ của Ðông Kinh nghĩa thục, văn thơ chống thuế ở Trung Kỳ. Người sáng tác bao gồm cả sĩ phu và quần chúng lao động. Văn thơ Ðông Du chủ yếu từ nước ngoài gửi về nên có điều kiện nói mạnh, nói trực tiếp những vấn đề muốn nói, nhìn chung thể hiện tinh thần lao động chống Pháp. Hai cây bút trụ cột của văn thơ Ðông Du là Phan Bội Châu và Nguyễn Thượng Hiền. Văn thơ của phong trào Duy Tân, tiêu biểu là Ðông kinh nghĩa thục thiên vào nội dung cải cách xã hội, thể hiện tinh thần yêu nước, nêu lên các quan niệm mới mẻ về đất nước, xã hội, nhân sinh... Ðóng góp nhiều cho văn thơ của phong trào Duy Tân phải kể đến Phan Chu Trinh, Nguyễn Phan Lãng, Lê Ðại, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Ðức Kế... Bên cạnh đó còn có một số tác giả không cho biết tên, như tác giả của các bài "Văn minh tân đọc sách", "Cáo hủ lậu văn", Bài ca Aï tế á"...... Văn thơ của phong trào chống thuế ở Trung Kỳ phần lớn không rõ tên tác giả và dần dần nó đã hòa nhập vào kho tàng văn học dân gian. Số văn thơ này như: Ca dao chống áp bức bóc lột, Bài vè sưu thuế lạm thu, Vè thuế nặng, Bài hát xin xâu.v.v... Ðặc điểm nổi bật của bộ phận thơ văn chống thuế ở Trung Kỳ là phản ánh một cách sâu sắc nỗi khổ của nhân dân. Nhìn chung, trong khoảng thời gian này số người tham gia sáng tác thơ văn yêu nước rất đông, lượng tác phẩm ra đời cũng rất nhiều. Hơn nữa, vấn đề lưu truyền phổ biến cũng khá rầm rộ. Người ta làm đủ mọi cách để các tác phẩm đến được với độc giả. Người ta dịch ra quốc âm, chép tay rồi chuyền cho nhau hoặc còn đưa vào chương trình giảng dạy ở trường Ðông Kinh nghĩa thục.v.v... Với nội dung yêu nước tiến bộ, hừng hực tinh thần cách mạng, ý chí quyết tâm đánh giặc, thơ văn yêu nước ra đời trong giai đoạn này đã tạo ra những ảnh hưởng lớn, có lợi cho phong trào cách mạng. - Từ năm 1908 đến năm 1912, văn thơ yêu nước và cách mạng rơi vào tình trạng bế tắc. Cuối năm 1908, cách mạng bị khủng bố, chính lúc đó thơ văn yêu nước cũng bắt đầu lâm vào tình thế khó khăn. Số lượng tác phẩm ra đời rất ít, chất lượng cũng giảm sút rõ rệt. Các nhà nho tham gia phong trào Ðông Du, trong cơn thất vọng nhất thời, không còn cảm hứng để sáng tác. Phan Bội Châu phải chạy trốn sang Thái Lan, nghiên mực tàu của ông dường như khô cạn. Các sĩ phu thuộc nhóm Ðông kinh nghĩa thục thì phần lớn bị bắt, bị đày ra Côn Ðảo. Lúc đầu thơ văn yêu nước theo các chí sĩ vào nhà tù cũng được phát triển khá cao, nhưng dần dần về sau cũng giảm sút cả về số lượng lẫn chất lượng. - Năm 1912, Việt Nam quang phục hội ra đời, khí thế cách mạng có chiều hướng bùng lên sau những ngày tạm lắng. Một số thơ văn hiệu triệu cách mạng lại xuất hiện. Văn học yêu nước và cách mạng ra đời trong thời điểm này, tiếp tục thể hiện những nội dung cũ, nhưng đã bắt đầu mang âm điệu khác trước, tính chất cổ động, khích lệ đấu tranh có phần giảm sút, để rồi sau đó bộ phận văn học này trở về với tình trạng lơ thơ, khí thế sôi nổi, hừng hực tinh thần cách mạng mất dần. Nhìn chung thơ văn cách mạng từ sau khủng bố của giặc Pháp, năm 1909 vẫn tồn tại, nhưng chất lượng và số lượng không bằng những năm trước đây. Trong khi đó văn thơ châm biếm thời thế, đả kích bọn quan lại, tay sai, thổ lộ chút lòng thương nước, thương dân, khóc những nhà cách mạng hy sinh trong các cuộc khủng bố của quân thù.... của những cây bút không tham gia cách mạng nhưng ít nhiều có tinh thần dân tộc vẫn tiếp tục ra đời, mặc dù không có những bài thật xuất sắc. Tuy nhiên, số tác phẩm nói trên chưa sưu tầm được đầy đủ, nói chung là chưa thể khôi phục lại đầy đủ bộ mặt văn học của quần chúng yêu nước hồi này. Nhưng có thể khẳng định ở chặng này cũng như các chặng khác, dòng văn học dân gian tố cáo sự bóc lột của kẻ thù, phơi bày tội ác của quần chúng vẫn không vơi cạn. - Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, phong trào ái quốc dân chủ lại sôi nổi trong cả nước nhưng chỉ giới hạn ở các đô thị. Văn thơ yêu nước lại phát triển cùng với phong trào cách mạng mang tính chất đòi tự do dân chủ theo xu hướng tư sản. Văn thơ cách mạng bấy giờ trở lại thời kỳ sôi nổi, rầm rộ, có thơ văn trong nước và cả thơ văn từ nước ngoài đưa về, có thơ văn phổ biến bí mật và cả thơ văn phổ biến công khai. Văn thơ công khai phần lớn xuất hiện trong phong trào ái quốc dân chủ 1925 - 1926, xoay quanh các sự kiện chính, đòi thả Phan Bội Châu, để tang Phan Chu Trinh, học sinh bãi khóa, cùng với việc Khải Ðịnh đi Pháp và việc hắn làm lễ tứ tuần đại khánh. Ngoài ra, trên văn đàn công khai, Ngô Ðức Kế và Huỳnh Thúc Kháng còn đả kích quyết liệt bọn bồi bút của Pháp. Mặc dù văn học cách mạng ở giai đoạn này có chiều hướng khởi sắc, phát triển về số lượng và chất lượng, mang nhiều sắc thái mới nhưng vẫn không sao sánh bằng giai đoạn 1905 - 1908. - Những năm cuối của thập niên thứ ba, văn học yêu nước và cách mạng theo xu hướng cách mạng tư sản dần dần xuống dốc. Trước khi mất hẳn, nó cũng góp phần sưởi ấm cho những tâm hồn buốt lạnh và là tiếng nói của dân tộc trong những ngày chờ đón luồng tư tưởng mới nhất của thời đại, tư tưởng cách mạng vô sản. Cũng trong thời gian này, mầm mống của văn học cách mạng theo xu hướng vô sản đã được nảy nở. Ðặc điểm của văn học này là còn ít tính chất văn nghệ, nhiều tính chất chính trị nhưng nội dung đã tiến bộ hơn hẳn dòng văn học tư sản cùng giai đoạn. [B]1.3- Nội dung của văn học yêu nước và cách mạng : [/B] [B]* Thể hiện tư tưởng yêu nước tiến bộ: [/B] Văn học yêu nước và cách mạng đã nêu lên quan niệm mới về đất nước, về yêu nước. Các nhà nho yêu nước và cả nhân dân ta sống trong điều kiện ý thức hệ [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL] thống trị không thể nào quan niệm có nước lại không có vua. Nước là của vua, yêu nước tất phải yêu vua, yêu vua là yêu nước. Vấn đề là cần có vua sáng để có tôi hiền. Sang đến đầu thế kỷ XX, chế độ thực dân nửa [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL] đã ra đời và thay thế chế độ [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL], trạng thái ý thức của xã hội cũng chuyển biến theo. Sự có mặt của ý thức hệ tư sản là một nhân tố mới có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội. Quan niệm của các tác giả văn thơ cách mạng về quốc gia đã khác trước. Nước không còn là của vua, vua và nước không còn là một. Có thể có nước mà không có vua. Yêu nước không nhất thiết phải yêu vua. "Trung quân ái quốc" hai cái tách rời nhau. Chủ nghĩa tôn quân đang dần dần bị loại trừ và như thế, nói đến nước sẽ là nói đến non sông, nòi giống, nói đến dân tộc, đồng bào. Trước kia, nghĩa quân thần, đạo thần tử có thể là động lực kích thích tinh thần đấu tranh: Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi bắt đầu trở thành vô nghĩa. Văn thơ yêu nước đi tìm sức mạnh từ nhiều nguồn. Từ những truyền thuyết thần thoại đề cao nòi giống, từ lòng tha thiết với vẻ đẹp của non sông gấm vóc, từ thái độ trân trọng cái địa vị của đất nước, cơ nghiệp của cha ông đã nhiều thế hệ nối tiếp nhau xây dựng, đặc biệt là niềm tự hào về truyền thống anh hùng chống giặc ngoại xâm. Nọ thuở trước đánh tàu mấy lớp Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang Sông Ðằng lớp sóng Trần vương Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê Quang Trung đế từ khi độc lập Khí anh hùng đầy lấp giang san Tự hào về đất nước các tác giả không còn ca ngợi các bậc thánh đế anh hùng xuất chúng, mà họ đã đi đến khẳng định vai trò của nhân dân, của "ức triệu anh hùng vô danh." Nhìn chung, văn thơ yêu nước đã khẳng định một vấn đề rất mới mẻ: Ðất nước là của dân, yêu nước là phải yêu dân. "Nước Việt Nam là của gia tài, Cả quyền lợi với đất đai Của dân nào phải riêng ai một nhà." (Lời tuyên cáo của Việt Nam quang phục hội- Hoàng Trọng Mậu). Hoặc : Nước có mạnh thì dân mới mạnh Dân có khôn thì nước mới khôn ( Kinh đạo nam _ khuyết danh ) Trong thơ văn yêu nước ở đầu thế kỷ XX, vấn đề yêu nước còn được gắn liền với vấn đề cách mạng. Chống giặc ngoại xâm, giải phóng đất nước đó là chuyện chung của nhiều thời đại có ngoại xâm. Nhưng chống giặc để rồi không trở lại chế độ [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL] mà tiến lên xây dựng chế độ dân chủ tư sản là một đổi mới trong lịch sử của dân tộc. Ðó cũng là nội dung chủ yếu của văn thơ cách mạng giai đoạn 1900 - 1930. Ðiều này đã được khẳng định trong "Lời tuyên cáo của Việt Nam quang phục hội": Muốn cho ích nước lợi nhà Muốn cho ích nước lợi nhà (Hoàng Trọng Mậu) nhưng chuẩn bị cho nó thì đã từ văn thơ của phong trào Duy Tân, Ðông Kinh Nghĩa Thục và phần nào cả văn thơ Ðông Du.... Ở đây song song với nội dung kêu gọi chống Pháp, còn có nội dung cải cách xã hội nhằm làm cho nước giàu dân mạnh. Hai nhiệm vụ đó quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Yêu nước bấy giờ được biểu hiện bằng hành động cụ thể là tham gia đánh giặc cứu nước và tiến hành cải cách xã hội. Vào đầu thế kỷ XX ,vấn đề cãi cách xã hội được đặt ra với mục đích làm cho dân giàu nước mạnh , được thực hiện song song với nhiệm vụ đánh Pháp Trong thơ văn yêu nước, đầu thế kỷ XX, yêu nước và vấn đề dân chủ gắn liền nhau. Xuất phát từ quan niệm mới về đất nước, yêu nước các tác giả đã đi đến khẳng định quyền làm chủ của người dân trong xã hội, đồng thời cũng khẳng định vai trò của người dân trong sự nghiệp cứu nước. Mục đích cứu nước lúc bấy giờ là vì dân chứ không phải vì vua. Phan Bội Châu đề cao địa vị của người dân trong công cuộc xây dựng nước nhà : Nghìn muôn ức triệu người chung góp Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà. Người dân ta của dân ta, Dân là dân nứơc , nước là nước dân Và khẳng định : Sông xứ Bắc ,bể phương Ðông Nếu không dân cũng là không có gì Người dân đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước là thực hiện bổn phận đồng thời thể hiện tinh thần làm chủ của mình. Thơ văn yêu nước thường nhắc đến các khái niệm "đồng bào, đồng quốc" xác lập nên một chữ "nghĩa" - nghĩa đồng bào khác hẳn với chữ "nghĩa" trong văn học trung đại. [B]* Thời sự chính trị trong văn chương đầu thế kỷ XX. [/B] Xã hội Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX là một bầu trời đen kịt. Chính quyền [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL] đương thời có thể làm ngơ, ngồi yên trên ngai vàng để hưởng thụ, nhưng nhân dân Việt Nam những người yêu nước Việt Nam thì không thể nào nhắm mắt, khoanh tay. Ngọn cờ Cần vương vừa ngã xuống, thanh niên lại xông xáo đi tìm một hướng cứu nước mới. Phong trào yêu nước Duy Tân và cách mạng như một tia sáng bừng lên vào đầu thế kỷ XX. Tia sáng ấy dù mong manh, yếu ớt và sớm tắt đi nhưng cũng đủ xoa dịu những khó khăn, căng thẳng, đợi chờ của đồng bào Việt Nam sau nhiều năm dài chống giặc liên tiếp thất bại. Văn chương yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ đã phản ánh kịp thời và phát ngôn cho các phong trào cách mạng lúc bấy giờ. Ðó là phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu cấp tiến đi theo con đường cách mạng dân chủ tư sản. Như những thước phim thời sự hấp dẫn, sinh động, văn chương yêu nước đầu thế kỷ XX đã ghi nhận kịp thời các diễn biến và tái hiện trọn vẹn gương mặt của xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX. Sau khi kết thúc công cuộc bình định ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Pháp đã bắt tay ngay vào việc khai thác thuộc địa tại Việt Nam. Một chế độ cai trị và bóc lột hà khắc đã diễn ra. Người dân Việt Nam mất hết chủ quyền. Mọi thứ đều do người Pháp cai quản, giai cấp thống trị [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL] đương thời chỉ giữ nổi vai trò bù nhìn mà thôi. Ðể thực hiện chủ trương vơ vét, bóc lột ở các thuộc địa, thực dân Pháp đã thi hành chính sách thuế khóa rất nặng nề, hàng trăm thứ thuế cay nghiệt đã được áp dụng. Nó như những sợi dây thòng lọng vô hình xiết chặt lấy người dân Việt Nam vô tội. (Hải ngoại huyết thư- Phan Bội Châu). Thực dân Pháp còn tìm cách đẩy những người dân vô tội vào nơi ma thiêng nước độc để đào sông, đào mỏ, làm đường. Thân phận của người đi phu không khác gì anh tù khổ sai: "Ông Tây áp trước Cậu lính áp sau." do bị vắt kiệt sức lao động, sống trong màn trời chiếu đất, "ăn cơm với muối, uống nước chè trâm." Ðiều đáng sợ, làm cho con người kinh hãi là chính sách ngu dân bằng con đường "khai hóa" của thực dân. Song song với những lời lẽ mỵ dân thâm độc là hàng loạt chủ trương nham hiểm, xảo quyệt được thực hiện. Một mặt chúng tỏ ra như muốn bảo vệ những giá trị văn hóa của dân tộc, nhưng mặt khác chúng lại ra sức xây dựng một nền giáo dục mới. Nội dung của chương trình học mới tất nhiên là nhằm mục đích đào tạo những phần tử tay sai trung thành, phục vụ cho chế độ bảo hộ. Ngoài ra các cơ quan báo chí do Pháp thành lập lần lượt ra đời ở cả ba kỳ Nam, Trung, Bắc. Báo chí là cơ quan tuyên truyền của thực dân, nơi phổ biến đường lối, chính sách cai trị của chúng. Tất cả những việc làm của thực dân đã biến Việt Nam từ một quốc gia [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL] tự chủ trở thành một thuộc địa của chủ nghĩa tư bản. Ðó là tấn bi kịch của dân tộc Việt Nam khi bước vào thế kỷ XX. Thế kỷ XX được mở đầu bằng trang sử đau thương mà rất hào hùng. Cao trào cách mạng đầu thế kỷ XX như một làn gió mạnh thổi khắp ba miền của đất nước. Các nhà nho ta trước kia chỉ biết nghiên cứu sách vở thánh hiền, "Chăm chăm theo lối học Tàu", không biết gì xa hơn ngoài văn minh Á Ðông, tiêu biểu là Trung Quốc. Ngày nay, qua Tân thư, Tân văn, tầm nhìn của các cụ mở rộng ra tận năm châu bốn biển. Các cụ được biết đến khoa học kỹ thuật hiện đại. Các cụ đã thấy được một điều rất quan trọng: Cứu nước không chỉ là đánh đuổi giặc ngoại xâm mà còn là đánh đuổi nghèo nàn và lạc hậu, là xây dựng một xã hội cường thịnh bắt kịp đà tiến triển của văn minh Âu Mỹ. Cũng chính vì vậy mà nếu như phong trào yêu nước ở cuối thế kỷ XIX kết hợp với tinh thần bài ngoại thì tư tưởng Duy Tân ở giai đoạn đầu thế kỷ XX lại đi đôi với tinh thần vọng ngoại. Chủ nghĩa yêu nước thời này thắm đượm màu sắc duy tân. Tinh thần dân tộc được đi đôi với ý thức cách mạng. Duy tân và cách mạng là tinh thần của thời đại, và duy tân và cách mạng cũng là xu thế hiện đại của tư tưởng và văn hóa dân tộc. Thực tế đã được phản ánh trong văn chương giai đoạn này. Ðó là một không khí cách mạng đầy hào hứng. "Ðội tiên phong đâu tá, gió duy tân từ Ðông hải thổi vào Gương ngoại quốc kia là, sóng cách mạng bởi Âu châu dồn tới." ("Văn tế Phan Chu Trinh" - Phan Bội Châu) Nhìn chung, thơ văn yêu nước giai đoạn đầu thế kỷ XX nổi bật nội dung khai sáng dân tộc đúng như nhận định của ông Trần Thanh Ðạm: "Có người gọi rất đúng rằng văn học đầu thế kỷ XX có tính chất của một phong trào ánh sáng như ở Âu châu vào thế kỷ XVIII". (Chuyên đề "Sự chuyển biến của văn học Việt Nam sang thời kỳ hiện đại" trang 37). Có thể khẳng định rằng thời sự là một đặc điểm của văn chương yêu nước và cách mạng giai đoạn này. Khi làn sóng cách mạng trong nước lên cao, thơ văn yêu nước được sống trong không khí chính trị sôi nổi, quyết liệt cho nên không ngừng phát triển về số lượng lẫn chất lượng. Các sáng tác đó đã dõi theo hoạt động của các tổ chức yêu nước, cùng với Ðông Kinh nghĩa thục, Ðông Du, đến với mọi người qua những buổi diễn thuyết, bình văn hay hiện diện ngay trong bài học của các học sinh ở những trường học do các nhóm này tổ chức. Khi các tổ chức cách mạng lần lượt bị thất bại, những người tham gia bị cầm tù. Văn thơ yêu nước theo bước chân của người tù chính trị đi vào nhà giam. Văn thơ trong tù có thời điểm đã được phát triển về số lượng và chất lượng, nhưng rất tiếc là đến nay số lượng đó còn lại rất ít, chủ yếu là văn vần. Thơ văn trong tù đã góp phần không nhỏ cùng với thơ văn yêu nước và cách mạng ở giai đoạn này làm tái hiện lại lịch sử chính trị xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX. Ðó là lịch sử của những phong trào chống Pháp theo ngọn cờ cách mạng dân chủ tư sản, có lúc sôi nổi quyết liệt nhưng cũng có hồi mất mát hy sinh, mặc dù đau thương vẫn hào hùng bất khuất. Bức tranh thời sự đầu thế kỷ XX được các tác giả chấm phá bằng những nét sinh động, chân thực thể hiện được cái đa dạng của cuộc sống, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đầy gian khổ đau thương mà rất hào hùng. Các thi sĩ, văn gia thời này đâu chỉ nhằm tái hiện lịch sử. Họ còn dùng ngòi bút để tuyên truyền vận động cứu nước, để giác ngộ "xã hội đang còn mê mẩn, đánh thức cả một làng nho còn chìm đắm trong vòng danh lợi." [B]* Văn học yêu nước và cách mạng là lời tuyên truyền vận động cứu nước. [/B] Sống trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, dân khổ nhục, nhà nho luôn có ý thức về trách nhiệm và rất mong muốn tìm ra con đường cứu nước và làm cho đất nước giàu mạnh, sánh kịp các nước châu Âu. Nhưng họ chỉ có trong tay một thứ vũ khí là văn chương, họ muốn biến nó thành công cụ vạn năng "vừa là trống vừa là chiêng thức tỉnh người mê ngủ, vừa là gươm là súng đánh đổ cường quyền." (Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX -Ðặng Thai Mai, trang 20). Trong thời điểm này các nhà nho nhận thấy văn chương chân chính có một khả năng to lớn, một chức năng quan trọng: Tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, tập hợp lực lượng để chống giặc cứu nước. Tuyên truyền những gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền như thế nào? Ðây là vấn đề cần bàn đến: Các nhà chí sĩ ái quốc thời này hướng đến lực lượng nhà nho là trước hết. Vì nhà nho là tiêu biểu cho tinh thần, văn hóa của dân tộc. Bởi nhà nho có nhiều mối thù sâu nặng với thực dân. Nhưng chủ trương khai dân trí, đoàn kết dân tộc khiến những người làm cách mạng lúc bấy giờ cần phải đưa tư tưởng mới đến đông đảo quần chúng. Nhưng xét cho cùng thì tầng lớp trí thức [URL="https://diendankienthuc.net/diendan/hoi-dap-lich-su/9737-dac-diem-che-do-phong-kien-viet-nam.html"]phong kiến[/URL] vẫn được xem là đối tượng chủ yếu. Không riêng gì Phan Bội Châu mà nhiều nhà cách mạng đương thời cũng đặt niềm tin và trách nhiệm lên đôi vai của nho sĩ. Ðiều này phản ánh đặc trưng của thời đại. Quần chúng nhân dân đã được chú ý nhưng cái nhìn toàn diện về họ, vị trí và vai trò của họ trong cuộc đấu tranh này còn bị nhiều hạn chế. Khi đặt chân lên đất nước Việt Nam, thực dân Pháp không chỉ nhằm khai thác những tiềm lực về kinh tế mà còn ôm ấp ý đồ thống trị về mặt tinh thần nhân dân ta. Chúng muốn biến dân tộc Việt Nam trở thành nô lệ cho chúng. Sống trong chế độ chính trị và giáo dục của thực dân, người Việt Nam sẽ dễ dàng trở thành những kẻ ích kỷ, đê hèn, tự ti, mất gốc, không biết gì đến Tổ quốc, dân tộc. Nhân dân Việt Nam đang say sưa trong giấc ngủ của đêm trường nô lệ. Nhiều người quên dần cái nhục mất nước, cứ ngỡ rằng việc khai hóa của thực dân là sự thật, là hảo ý của Pháp đối với Việt Nam. Nỗi đau mất nước đã lắng dần theo năm tháng, người ta lại còn cảm thấy dường như sự hiện diện của Pháp lại có lợi cho người Việt Nam, Pháp mang đến cho nhân dân Việt Nam bao nhiêu là tiện nghi vật chất mà họ chưa từng có được. Người Việt Nam đã thích nghi dần và bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Phải đánh thức đồng bào, "gọi hồn" dân tộc trở về, phải giáo dục tư tưởng mới cho nhân dân: Yêu nước giành độc lập và cải cách xã hội. Văn học yêu nước và cách mạng đã tích cực giác ngộ xã hội, đánh thức cả dân tộc còn mê mẩn. Loại văn thơ gọi hồn trở thành công cụ trong giai đoạn này. (Kêu hồn nước - Nguyễn Quyền, Tỉnh hồn ca - Phan Chu Trinh). Văn chương còn góp phần vào việc bồi dưỡng tình cảm cho con người, đánh đổ tinh thần tự ti, xây dựng tình cảm mới, nhắc nhở rằng nhục nô lệ chỉ có thể rửa sạch và được rửa sạch bằng tinh thần đấu tranh của toàn thể đồng bào. Phan Bội Châu đã cho rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất nước là do nhân dân ta xung khắc, bất hòa đã ngờ nhau chẳng biết tin nhau, coi nhau như thể quân thùì mà "bụng có hợp thì nhà mới hợp" còn "lòng đã tan thì nước cũng tan." Tiếp nối truyền thống văn học của các giai đoạn trước, văn học hướng tới sự phát triển vào con người cố gắng vươn lên khẳng định những giá trị chân chính của con người, đặt ra vấn đề quyền sống con người, trong đó có người phụ nữ. Ðến giai đoạn này văn học đã phát triển thêm một bước: Nêu lên yêu cầu đấu tranh giải phóng phụ nữ và xem nó như một bộ phận của cách mạng dân tộc. Thanh niên cũng trở thành đối tượng được quan tâm nhiều. Các nhà nho đã thấy rõ vai trò, khả năng của họ cho nên rất chú ý giáo dục đối tượng này. Trong Bài ca chúc Tết thanh niên" Phan Bội Châu đã vạch kỹ con đường đi tới cho thanh niên, kêu gọi họ phải tỉnh táo và sáng suốt trong việc chọn cho mình một lý tưởng sống. Phải biết: "Ði cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan" để làm nên việc lớn. Tác giả của văn chương yêu nước giai đoạn đầu thế kỷ XX phần lớn là những nho sĩ cấp tiến. Tầm nhìn của họ được mở rộng, họ biết đến nhiều nước trên thế giới. Họ đã nhận ra ánh sáng của văn minh hiện đại. Ðứng trước sự phát triển vượt bậc về khoa học kinh tế của các nước, nhìn lại xã hội Việt Nam còn quá nghèo nàn, lạc hậu, họ vừa kinh ngạc vừa lo sợ. Vì vậy khi tuyên truyền cứu nước tác giả này cũng đi từ chỗ ca ngợi nước người, chỉ ra cái yếu kém của nước mình để khêu gợi lòng tự ái, tự trọng của mọi người. Người Việt Nam phải biết nhục với tình cảnh mất nước, phải đau đớn, phải căm hờn, phải lo lắng, hoảng hốt trước nguy cơ diệt chủng... Nhìn chung, văn chương cổ động thời này chú trọng nhiều đến việc kích thích tình cảm. Văn chương tuyên truyền ở giai đoạn đầu thế kỷ XX cũng nhắc nhở truyền thống nhưng chú ý đến hiện tại nhiều hơn. Các tác giả lấy hiện thực trước mắt để làm cơ sở thuyết phục, vận động cứu nước. Ðó là hiện thực của xã hội thiếu dân chủ, của nền kinh tế lạc hậu thấp kém, của một hoàn cảnh chính trị rối ren, của cuộc sống khổ nhục, lầm than vì ách thống trị hà khắc do thực dân Pháp gây ra. Chính vì vậy mà tác dụng tuyên truyền rất cao đã khiến cho kẻ thù thấy đó là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự thống trị của chúng. Cho nên chúng đã tìm mọi cách để ngăn chặn. Ông Ðặng Thai Mai có nhận xét: "Ý chí căm thù của của nhân dân là kho thuốc nổ, văn chương đầy nhiệt tình của các nhà chiến sĩ là mồi lửa làm cho kho thuốc nổ ấy bốc cháy." (Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, trang 100). Sau biến cố năm 1908, phong trào cách mạng bị lắng xuống do sự đàn áp quá dã man của kẻ thù. Tổ chức cách mạng không còn cơ sở trong nội địa, vậy mà văn thơ tuyên truyền vẫn tiếp tục ra đời để triển khai những chủ trương lớn của hội duy tân ngày trước. Các sáng tác này do những ngưòi yêu nước còn lại đang lẫn trốn hoặc chạy ra nước ngoài tìm cách hoạt động và sáng tác. Nội dung không có gì thay đổi, có khác là ở chỗ khẳng định dứt khoát cái chính thể mà cuộc cách mạng ái quốc sẽ thành lập cho nước Việt Nam là chế độ dân chủ cộng hòa theo quốc dân Ðảng Trung Quốc; xác nhận quyền làm chủ của nhân dân. Chính chỗ này đã làm cho tư tưởng của nó có tác dụng rõ rệt đối với độc giả hiện đại. Phong trào cách mạng dân tộc dân chủ tư sản không giành được thắng lợi hoàn toàn nhưng thơ văn cổ xúy cho phong trào ấy cũng kèo dài thời gian tồn tại và phát triển đến khoảng hai mươi năm. Nó đã đóng góp không nhỏ cho hoạt động chính trị cứu nước thời bấy giờ. [B]1.4. Vấn đề cách tân nghệ thuật trong văn học yêu nước và cách mạng. [/B] Lực lượng sáng tác văn chương đầu thế kỷ XX chủ yếu là các nhà nho, nhà khoa bảng. Ðối với họ chữ Hán, chữ Nôm là phương tiện thông dụng nhất và quen thuộc đến thành nề nếp. Nhà Nho "cũng chỉ quen với văn, thơ, phú, lục... thứ văn học cao quí viết bằng thứ ngôn ngữ khó hiểu, rất khó nói chuyện thực tế, khó đi vào quần chúng đông đảo." (Văn học yêu nước và cách mạng - Ðặng Thai Mai, trang 122). Trước yêu cầu mới của xã hội, người sáng tác phải đưa tác phẩm của mình đến với phong trào cách mạng, dùng văn chương để tuyên truyền giáo dục tư tưởng mới cho quần chúng. Tình hình mới lại có nhiều phức tạp: giữa lực lượng nhà nho và nhân dân chưa có sự thống nhất với nhau về hình thức nghệ thuật, ngôn ngữ văn học... vẫn còn tồn tại hai dạng công chúng khác nhau. Làm sao để tất cả nội dung cần tuyên truyền đều đến với mọi tầng lớp nhân dân? Ðạt được điều này phải giải quyết nhiều vấn đề quan trọng và cấp thiết: Cải cách văn tự, cải cách ngôn ngữ, nghệ thuật của văn chương, việc vận dụng chữ quốc ngữ trong sáng tác văn chương giúp cho quần chúng dễ dàng đến với các tác phẩm văn chương nghệ thuật lúc bấy giờ. Ðể đạt được hiệu quả tuyên truyền, các tác giả thời này vận dụng đủ mọi thể loại sáng tác. Các thể loại truyền thống như: Thơ (lục bát, song thất lục bát) ca trù, hát dặm... lẫn các hình thức mới phù hợp với mục đích tuyên truyền, cổ động (tiểu thuyết, hình thức diễn ca). Phan Bội Châu được mệnh danh là một người "có lẽ từ xưa đến nay trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào đã chịu khó và có gan đem ngòi bút ra thử thách trên nhiều loại văn khác nhau như Sào Nam" (Ðặng Thai Mai). Người sáng tác thời này đã chú ý đến yếu tố hiện thực trong tác phẩm. Họ thường đi thẳng vào các vấn đề chính trị xã hội trước mắt để đưa ra lập luận nhằm mục đích giáo dục hay tuyên truyền vận động. Văn xuôi Nôm đến đầu thế kỷ XX vẫn còn rất ấu trĩ, lủng củng, nghèo nàn, mà nhà nho cũng quen dùng chữ Hán hơn chữ Nôm. Vì vậy việc cải cách văn xuôi trước hết tiến hành trong văn chữ Hán. Các nhà nho tiến bộ đã bỏ bớt âm hưởng biền ngẫu, cố gắng đưa tri thức mới, thuật ngữ mới vào trong sáng tác. Họ học cách viết của báo chí Trung Quốc lúc đó là trình bày ý kiến rõ ràng, mạch lạc, chặt chẽ. Các nhà nho thời nay chịu ảnh hưởng của văn tân thư Trung Quốc đặc biệt là họ thường lấy văn của Lương Khải Siêu làm mẫu mực. Do yêu cầu sáng tác để tuyên truyền nên các tác phẩm thời này thường chú ý đến việc nói cho dân nghe, viết cho dân hiểu. Vì vậy họ phải viết bằng tiếng nói, âm điệu mà nhân dân quen thuộc, ưa thích. Muốn cổ động có tác dụng họ phải chú ý trình bày rành mạch, khúc chiết, phải mô tả thực tế, phải khêu gợi, phải lâm li, giàu tình cảm, phải có sức kích động. Bởi thế văn chương thời này cũng trút bỏ hết giọng uỷ miñ, yếu đuối, trở nên hùng tráng, đanh thép để cảm động, lôi cuốn. "Dây! Dậy! Bên án tiếng gà vừa gáy... Ði cho êm! Ðứng cho vững! Trụ cho gan!..." (Bài ca Chúc Tết thanh niên). Văn vần vẫn là hình thức được ưa chuộng nhất trong thời này. Ðầu thế kỷ XX phổ biến hình thức diễn ca. Có những văn bản chính luận đã được diễn ca nhằm mục đích đưa tư tưởng mới đến với quần chúng được dễ dàng. Ðó là trường hợp của "Hải ngoại huyết thư" của Phan Bội Châu. Diễn ca được các nhà yêu nước dùng để thể hiện những nội dung tuyên truyền cứu nước rất phù hợp với điều kiện xã hội lúc bấy giờ. Người ta có thể đọc cho nhau nghe, nhớ lâu, dễ thuộc không cần phải in thành sách vở... Ðể đạt được hiệu quả trong tuyên truyền, các tác giả văn thơ yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX đã cách tân nghệ thuật sáng tác, tạo nên những đổi mới so với trước kia. Tuy nhiên văn phong của họ tỏ ra rất bề bộn, chữ Hán, chữ quốc ngữ pha tạp, các thể loại truyền thống và hiện đại đan xen. Tuy hô hào sử dụng chữ quốc ngữ nhưng đại đa số các nhà nho lại thích dùng chữ Nôm để sáng tác. Họ chưa bỏ được lối viết văn biền ngẫu, nhiều bài thơ thời này còn bị pha trộn một vài câu hoặc một đoạn thơ chữ Hán cầu kỳ khó hiểu ("Bài hát khuyên nhà nho", Hú hồn thanh niên). Nhiều từ ngữ xa lạ, tên đất, tên người thật đặc biệt được mang vào trong tác phẩm một cách tuỳ tiện, làm cho bài văn, bài thơ trở nên nặng nề tạo cảm giác khó chịu đối với người đọc (Tình phu phụ - Khuyết danh). Có thể khẳng định đây là một đặc điểm chỉ tìm thấy ở văn học giai đoạn này. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Tư liệu : Khái quát về văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930
Top