Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Từ cuộc tiến công Đà Nẵng năm 1845 của chiến hạm Hoa Kỳ CONSTITUTION ...
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 88575" data-attributes="member: 17223"><p>Ghi chú: các hình vẽ người lính Cochin [nguyên văn, chú của người dịch] và thuyền buồm vũ trang được cung cấp một cách quảng đại bởi Thuyền Trưởng John Charles Roach, Họa Sĩ Hải Quân Chiến Đấu, đã vẽ chúng dựa theo các bản phác thảo của Trung Úy Dale).</p><p></p><p></p><p>Các nguồn:</p><p></p><p>Martin, Tyrone G. A Most Fortunate Ship. Revised edition. A Timonier Book. Annapolis: Naval Institute Press. 1997.</p><p></p><p>Stevens, Benjamin. "A Cruise on the Constitution." United Service Magazine, Vol. 5 (1905)</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>II. Joseph Balestier, Lãnh Sự Hoa Kỳ, Đặc Phái Viên Ngoại Giao</p><p>và Sứ Đoàn Sang Việt Nam năm 1850</p><p></p><p>Chỉ một năm sau sự từ trần không đúng lúc của Edmund Roberts, lãnh sự Hoa Kỳ tại Singapore, Joseph Balestier, đã tái lập chiến dịch của ông nhằm kêu gọi sự hậu thuẫn chính thức nhiều hơn cho việc mở rộng và bảo vệ nền mậu dịch của Hoa Kỳ trong vùng. Nhân dịp có sự xuất hiện tại Singapore một chiến thuyền của Thái Lan có trang bị 40 khẩu súng, Balestier đã lập luận trong một lá thư gửi về Hoa Thịnh Đốn rằng một chiệc tàu như thế sẽ “không lẽ nào lại không gây ra sự phiền nhiễu không nhỏ cho sự buôn bán của Âu Châu và Hoa Kỳ tại các vùng biển này.” Ông thúc dục “sự thích nghi của việc đặt nền mậu dịch sâu rộng và vẫn còn đang gia tăng của chúng ta tại khu vực này dưới sử bảo vệ của một trong các chiến thuyền to lớn của chúng ta, vị Tư Lệnh của chiến thuyền đó có thể được chỉ thị để lần lượt thăm viếng Bờ Biển Sumatra, Eo Biển Malacca, Singapore, Vịnh Xiêm La, Bờ Biển Cochinchina [Việt Nam ngày nay, chú của người dịch], Lintin, Manilla … Borneo & Java. Trong thực tế -- tất cả các hải cảng tại hay gần lưu vực xích đạo rộng lớn này. Với việc lợi dụng mùa gió nồm, hầu hết nếu không phải là tất cả các Nước chính yếu này có thể được viếng thăm hai lần mỗi năm là quá đủ trong tình huống hiện thời của sự vụ.” (1)</p><p></p><p>Trong một lá thư gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao Forsyth, đề ngày 4 tháng Sáu 1838, Balestier từ đề cử mình là người có thể kế nhiệm đặc sứ Edmund Roberts và đồng ý trở thành một Đại Diện thường trú để trông coi các quyền lợi của Hoa Kỳ trong toàn vùng. Ông chào đón các cuộc thăm viếng thường xuyên hơn của hải quân Hoa Kỳ trong vùng, vừa như một sự bảo vệ cho các thương thuyền Hoa Kỳ vừa như phương tiện chuyên chở đến thăm viếng khắp nơi trong khu vực. Tuy nhiên, ông nghĩ sự hiểu biết chuyên môn và kinh nghiệm của ông trong vùng sẽ mang lại các kết quả tốt hơn là dựa vào các sĩ quan hải quân đóng vai các nhà thương thuyết:</p><p></p><p>Công cuộc mậu dịch trải rộng của chúng ta tại các vùng biển này, mà không có dù chỉ một hải cảng nào của chính chúng ta gần hơn là những hải cảng nằm trên chính bờ biển của chúng ta, tạo thành một trường hợp chưa từng có tại phương Đông; và Chính phủ xem ra có lưu tâm để có một [hải cảng] trong số đó. Tôi hay biết rằng các vị tư lệnh hải quân của chúng ta thường hành động với tư cách các nhà thương thuyết trong các trường hợp cần thiết, nhưng mặc dù cảm nhận được các công tác năng động và hữu hiệu của họ, vẫn có sự thiếu sót một kinh nghiệm lâu dài về nhóm dân bán khai mà họ có dịp mở ra các cuộc thương thảo, nhằm khai thông nền mậu dich., hay nhằm giải quyết các sự ngộ nhận hiện hữu, khiến cho họ kém hữu dụng hơn sự can thiệp của một người đã sở đắc được một sự am tường về các người dân đó , các phong tục của họ, và bản chất của sự mua bán. Xuyên qua báo chí tôi hay biết sự quyết tâm của Chính Phủ muốn duy trì một lực lượng hải quân tại khu vực này của thế giới sẽ cung ứng cho một đại diện như thế một phương tiện để thỉnh thoảng thăm viếng các nơi chốn như thế khi mà quyền lợi của quốc gia chúng ta có thể đòi hỏi sự có mặt của đại diện đó.</p><p></p><p>Balestier đã đề nghị trong lá thư này:</p><p></p><p>Việc gửi sang các loại vũ khí chế tạo toàn hảo khác nhau, các loại kiếm, vàng, các tấm gương đóng khung, ống nhòm, quả địa cầu, [một từ không đọc được], vân vân, và vân vân, để phân phối đến các vị Quân Vương & các lãnh tụ chính yếu, là những người sẽ đón nhận chúng như là các biểu hiệu của tình hữu nghị chứ không phải như các sự thừa nhận trình độ yếu kém như thường được tin tưởng. (2)</p><p></p><p>Chín năm sau đó, Balestier đã có thể cung cấp một lý do cụ thể để phát huy nhiệm vụ của ông tại Cochinchina [Việt Nam ngày nay, chú của người dịch]. Vào ngày 6 tháng Tư, 1847, ông có viết cho ông Bộ Trưởng Ngoại Giao:</p><p></p><p>Một năm trước đây một vài Quan Lại của Quốc Vương xứ Cochin China đã đến đây như thường lệ trên các con thuyền của họ, đã yêu cầu tôi có một sự kiểu chính cho hành vi ngược ngạo mà họ đã gánh chịu từ tay vị thuyền trưởng chiến thuyền “Consitution.” Họ trình bày rằng họ đương ở trên bờ thi hành công việc cho Quốc Vương khi chiếc thuyền “Constitution” thả neo tại Vịnh Turong [Đà Nẵng], rằng khi hay biết vị thuyền trưởng thiếu củi và nước, họ đã sằn lòng cung cấp cho ông ta và đã giữ mối dây liên lạc thân hữu với ông ta. Nhưng một hôm, vị thuyền trưởng lên bờ cùng với một đoàn tùy tùng từ chiếc thuyền của ông ta và ra lệnh cho họ phải giao một số Linh Mục người Pháp, là những người mà ông ta cho rằng đang bị bắt làm tù nhân trong nước, về việc này họ [các quan lại Việt Nam, chú của người dịch] đã phản đối rằng họ không biết gì hết và rằng tốt hơn là ông ta nên tới Kinh đô, [là] một cảng biển và đích thân thỉnh cầu lên Quốc Vương, vì việc này họ đã bị còng tay và hạ nhục trước sự hiện diện của các thân nhân và gia nhân của mình và sau cùng đã bị dẫn lên thuyền “Constitution” nơi mà họ bị bắt làm tù nhân trong nhiều ngày và bị đe dọa hành quyết hàng ngày nếu các vị Linh Mục Công Giáo Pháp không được chuyển giao cho ông ta.</p><p></p><p>Các Quan Lại khác xác nhận sự việc trên & tuyên bố rằng trong khi họ không hay biết gì về sự bắt giữ các người ngoại quốc và hơn nữa họ không có thẩm quyền phóng thích các ngoại kiều này, điều này được nói lại hàng ngày cho viên thuyền trưởng hay biết. Rằng vào một hôm nào đó họ có nhìn thấy nhiều chiếc tàu rời khỏi chiến thuyền chở đầy binh sĩ có vũ trang đầy đủ nhưng trong khi họ hay người dân trong thị trấn không hề có ý thức về sự nguy hiểm nào đã tụ tập để nhìn các binh sĩ đổ bộ; sau khi tỏ vẻ khích động các binh sĩ đã sắp thành hàng một và nổ súng vào đám đông và trong khi đám đông bỏ chạy vào thành phố các binh sĩ này đã rượt đuổi theo họ. Mười bảy người, gồm cả đàn ông, đàn bà, trẻ em, đã bị giết. Trong khi đó chiến thuyền “Constitution” đã tiến vào một vị trí sát Hải Cảng, sau đó không lâu đã triệt hạ và bắn cháy các Thuyền Buồm Chở Gạo trên Sông làm cho nhiều người bị giết và bị thương bởi đạn bắn ra và các người khác bị chết đuối khi các Chiếc Thuyền Buồm bị chìm …</p><p></p><p>Tôi không muốn tự đặt mình vào cương vị kẻ tố cáo Thuyền Trưởng Percival, hay thông tin cho Chính Phủ về bất kỳ điều gì chưa được công bố trên các báo chí tại Ấn Độ và Âu Châu, nhưng tôi xem đó là một bổn phận của tôi để lưu ý Ngài [Bộ Trưởng] về hành vi hiếu khách của Radja of Subi và để đề nghị một sự thừa nhân cấp quốc gia về hành vi đó và cùng một lúc cứu xét điều đó trong khuôn khổ trách nhiệm chính thức của tôi là phải thông tri với Ngài Bộ Trưởng các ấn tượng không thuận lợi có khuynh hướng chống lại tư cách quốc gia của chúng ta trong các khu vực này và là các ấn tượng mà nếu không được tháo gỡ chắc chắn sẽ dẫn đến sự hy sinh các nhân mạng vô tội dưới sự tra tấn khủng khiếp nhất, như được thi hành trên các kẻ thù bởi Quốc Vương xứ Cochin China.</p><p></p><p>Vị Giám Mục & Các Linh Mục người Pháp nói trên không lâu sau chuyến viếng thăm của chiến thuyền “Constitution” tại Cochin China đã được chuyển giao theo lời thỉnh cầu của vị chỉ huy Pháo Hạm “Alcmène” của Pháp.” (3)</p><p></p><p>Điều gì đã xảy ra trong cuộc viếng thăm của Chiến Thuyền USS Constitution tại vịnh Đà Nẵng không được biết rõ một cách xác thực. Jean Chesneaux, một tác giả người Pháp trong tác phẩm về Việt Nam được viết hồi giữa thập niên 1950, xác nhận lời tường thuật của phía Cochinchina về biến cố và phát biểu một cách châm biếm:</p><p></p><p>Về một chiến thuyền của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ trong năm 1845 liên hệ đến đặc ưu quyền đáng ngờ của việc phóng ra một hành vi can thiệp có vũ trang đầu tiên chống lại nhân dân Việt Nam: một thuyền trưởng Hoa Kỳ, mà tên tuổi không được lưu giữ trong lịch sử, đã đến Tourane trong năm đó, đở bộ lên bờ để cưỡng bách sự phóng thích một giám mục người Pháp bị bắt giữ, đã cầm tù tất cả các quan lại cũng như các chiếc Thuyền Buồm Chiến Đấu có tại hải cảng; nhưng các con tin kháng cự, và viên Thuyền Trưởng Hoa Kỳ, không biết chắc mình phải làm gì với các tù binh, sau cùng đã thả họ ra và lái thuyền bỏ đi. (4)</p><p></p><p>Bất kể lời buộc tội rằng Hoa Kỳ đã thực hiện hành vi can thiệp bằng vũ trang đầu tiên (giả định là của Tây Phương) chống lại Việt Nam, Chesneaux đã không đề cập đến việc nổ súng hay tổn thất nào. Ông D.G.E. Hall, sử gia người Anh về Đông Nam Á, có viết ở trong cùng thời khoảng đó, hậu thuẫn cho sự tường thuật của Chesneaux và có đề cập đến việc nổ súng và các tổn thất, nhưng ông đã trích dẫn từ các nguồn tư liệu Anh Quốc hiện đại tại Singapore là các kẻ đã nghe được câu chuyện, chúng tôi giả định, từ cùng các viên chức Cochin China đã tìm gặp Balestier. (5)</p><p></p><p>Mặt khác, Buttinger, sử gia Hoa Kỳ về Việt Nam trong tác phẩm được ấn hành năm 1958, đã nhẹ nhàng châm biếm nỗ lực của Chesneaux về việc “xếp loại sự câu lưu tạm thời một vài vị quan lại như một ‘hành vi can thiệp có vũ trang'”, gọi đó “đúng ra là một sự thậm xưng.” Ông nêu ý kiến rằng Chesneaux đã không hiểu biết tường tận về biến cố và viện dẫn rằng ông ấy không hề hay biết cả về tên viên thuyền trưởng Hoa Kỳ (John Percival) (6). Buttinger không nên bị buộc tôi là kẻ theo chủ nghĩa quốc gia quá cực đoan trong cái nhìn của ông về biến cố, vì ông khẳng định rằng các nỗ lực của Percival là vụng về. Sự lượng định của Buttinger được ủng hộ bởi Auguste Haussman, một tác giả người Pháp khác, là người đưa ra sự tường thuật sau đây:</p><p>Viên thuyền trưởng Hoa Kỳ, thấm nhuần tinh thần quảng đại, tìm kiếm một sự phóng thích vị giám mục và đây là câu chuyện mà ông ta đã hành động như thế nào: ba hay bốn quan lại được phái bởi Quốc Vương lên chiến thuyền, bị bắt và giam giữ làm con tin, trong khi chờ đợi sự trả tự do cho vị giáo sĩ truyền đạo. Khi nghe báo cáo về việc này, Quốc Vương trở nên tức giận và từ chối trao trả vị giám mục theo một thủ tục như thế. Quốc Vương còn xem xét cả việc phái một hạm đội nhỏ để tấn công chiến thuyền, nhưng một cơn bão làm các chiếc tàu của Nhà Vua bị tán loạn. Muốn tránh một cuộc giao chiến, thuyền trưởng Hoa Kỳ đã quyết định phóng thích con tin, là những kẻ lại bị cầm tù lần thứ nhì theo lệnh của Quốc Vương vì tội để mình bi bắt. (7)</p><p></p><p>Sự tường thuật này cho hay là chiến thuyền Hoa Kỳ tức khắc rời đi, sau khi để lại các lời đe dọa.</p><p></p><p>Nay chúng ta có lời khai của chính Thuyền Trưởng John Percival, là người, theo văn thư trao đổi của chính ông ta, đã cho tàu USS Constitution cặp bến tại Vịnh Đà Nẵng để tái tiếp tế. Vào ngày 21 tháng Sáu 1845, sau khi chiếc thuyền Constitution đến Đảo Whampoa ngoài khơi Trung Hoa, Percival đã báo cáo “sự việc xảy ra” trong một lá thư gửi Bộ Trưởng Hải Quân. Lá thư của ông ta, chính yếu là một biện minh trạng cho hành động của mình, đính kèm một văn kiện trình bày về chính biến cố mà ông đã gửi cho vị đô đốc Pháp trong vùng. Bức thư viện dẫn sự hiểu biết của Percival về sự trợ giúp của nước Pháp dành cho Hoa Kỳ trong buổi lập quốc của nó cũng như sự tin tưởng rằng các chính phủ phải đối xử với sự kính trọng các ngoại kiều mà họ cho phép được sống trong lãnh thổ của họ. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy sự lo ngại của Percival rằng các thượng cấp của ông có thể xem là ông đã vượt quá các chỉ thị đã giao cho ông, nhằm yêu cầu ông mang lại mọi sự bảo vệ cần thiết cho các công dân Hoa Kỳ và cho nền thương mại Hoa Kỳ, nhưng không nói gì về các công dân ngay của các nước thân hữu nhất.</p><p></p><p>Văn kiện Percival gửi cho [đô đốc] Pháp mô tả biến cố với một vài chi tiết, nhưng mơ hồ về việc là có bất kỳ cuộc nổ súng nào đã xảy ra hay không.</p><p></p><p>Cùng lúc tôi đã bắt giữ ba viên quan lại và giải họ lên tàu làm con tin [cho] sự an toàn của sinh mạng vị Giám Mục. Ngày sau đó tôi tịch thu ba chiếc thuyền buồm của Nhà Vua, và di chuyển chiến thuyền của tôi đến sát bờ hơn để có thể vươn tới các Đồn Phòng Thủ và [nhiều từ không đọc được] với pháo đội của tôi, hy vọng rằng một cuộc biểu dương, chứng tỏ một cuộc bày binh bố trận sẵn sàng giao tranh sẽ bảo đảm được một cách hữu hiệu hơn sự an toàn của ngài Giám Mục.” (</p><p></p><p>Trong phần cuối văn kiện này, Percival ám chỉ một cách rõ ràng rằng ông ta đã không tham gia vào các sự giao chiến. bởi chúng sẽ vi phạm vào các chỉ thị dành cho ông. Đúng như điều là Percival lo sợ, Bộ Hải Quân đã không chấp nhận. Lá thư của ông tại Văn Khố Hải Quân có mang bút phê: “Trả lời tức thời. Bộ Hải Quân không chấp thuận hành động của Thuyền Trưởng Percival vì không được phép hoặc do có lời yêu cầu của vị Giám Mục hay bởi luật lệ của các quốc gia.” (9)</p><p></p><p>Một tháng sau đo, giả định trước khi ông ta có thể hay biết về phản ứng tiêu cực từ Bộ sở quan của mình, Percival mau chóng gửi lên Bộ Trưởng Hải Quân bản sao các phản ứng thuận lợi của cả viên Đô Đốc Pháp và Sứ Thần Pháp tại Trung Hoa, cùng với tin tức cho hay vị Giám Mục đã được trả tự do ít ngày sau khi Percival rời khỏi hiện trường. Lá thư của Percival gửi Bộ Trưởng Hải Quân toát ra niềm tin tưởng rằng sự giải thoát vị Giám Mục xảy ra phần lớn là nhờ hành động quyết đoán và hợp thời của ông ta (Percival) và rằng, nếu ông ta có thể lưu lại đó lâu hơn một chút, vị Giám Muc chắc sẽ được trao trả trực tiếp vào tay ông ta.(10) Sau hết, như được biểu tỏ dưới đây, khi Hoa Kỳ cố gắng đưa ra các sự đền bù cho biến cố, phía Cochin China đã bác khước rằng nó đã từng xảy ra!</p><p></p><p>Trong bất kỳ trường hợp nào, bất luận lời tường thuật biến cố nào là chính xác, sự trần thuật gây tổn hạI nhất cho Percival chính là câu chuyện đã được chuyển đến Balestier, mà Balestier đã chuyển về Hoa Thịnh Đốn, và theo đó Hoa Thịnh Đốn đã ra tay hành động. (11) Tổng Thống Zachary Taylor đã quyết định phái Balestier làm đặc phái viên ngoại giao để thực hiện các sự hàn gắn với Quốc Vương xứ Cochin China và, nhân đó, thực hiện một nỗ lực khác để thương thảo một hiệp ước thương mại với Cochin China; ông cũng sẽ cố gắng thuyết phục nước Xiêm La thi hành đúng với các điều khoản của hiệp ước mà Edmund Roberts đã thương thảo năm 1833 và thực hiện các cuộc thăm viếng thiện chí và thương thảo các hiệp ước với nhiều vương quốc thuộc các đảo vùng Đông Ấn Độ.” (12)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 88575, member: 17223"] Ghi chú: các hình vẽ người lính Cochin [nguyên văn, chú của người dịch] và thuyền buồm vũ trang được cung cấp một cách quảng đại bởi Thuyền Trưởng John Charles Roach, Họa Sĩ Hải Quân Chiến Đấu, đã vẽ chúng dựa theo các bản phác thảo của Trung Úy Dale). Các nguồn: Martin, Tyrone G. A Most Fortunate Ship. Revised edition. A Timonier Book. Annapolis: Naval Institute Press. 1997. Stevens, Benjamin. "A Cruise on the Constitution." United Service Magazine, Vol. 5 (1905) II. Joseph Balestier, Lãnh Sự Hoa Kỳ, Đặc Phái Viên Ngoại Giao và Sứ Đoàn Sang Việt Nam năm 1850 Chỉ một năm sau sự từ trần không đúng lúc của Edmund Roberts, lãnh sự Hoa Kỳ tại Singapore, Joseph Balestier, đã tái lập chiến dịch của ông nhằm kêu gọi sự hậu thuẫn chính thức nhiều hơn cho việc mở rộng và bảo vệ nền mậu dịch của Hoa Kỳ trong vùng. Nhân dịp có sự xuất hiện tại Singapore một chiến thuyền của Thái Lan có trang bị 40 khẩu súng, Balestier đã lập luận trong một lá thư gửi về Hoa Thịnh Đốn rằng một chiệc tàu như thế sẽ “không lẽ nào lại không gây ra sự phiền nhiễu không nhỏ cho sự buôn bán của Âu Châu và Hoa Kỳ tại các vùng biển này.” Ông thúc dục “sự thích nghi của việc đặt nền mậu dịch sâu rộng và vẫn còn đang gia tăng của chúng ta tại khu vực này dưới sử bảo vệ của một trong các chiến thuyền to lớn của chúng ta, vị Tư Lệnh của chiến thuyền đó có thể được chỉ thị để lần lượt thăm viếng Bờ Biển Sumatra, Eo Biển Malacca, Singapore, Vịnh Xiêm La, Bờ Biển Cochinchina [Việt Nam ngày nay, chú của người dịch], Lintin, Manilla … Borneo & Java. Trong thực tế -- tất cả các hải cảng tại hay gần lưu vực xích đạo rộng lớn này. Với việc lợi dụng mùa gió nồm, hầu hết nếu không phải là tất cả các Nước chính yếu này có thể được viếng thăm hai lần mỗi năm là quá đủ trong tình huống hiện thời của sự vụ.” (1) Trong một lá thư gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao Forsyth, đề ngày 4 tháng Sáu 1838, Balestier từ đề cử mình là người có thể kế nhiệm đặc sứ Edmund Roberts và đồng ý trở thành một Đại Diện thường trú để trông coi các quyền lợi của Hoa Kỳ trong toàn vùng. Ông chào đón các cuộc thăm viếng thường xuyên hơn của hải quân Hoa Kỳ trong vùng, vừa như một sự bảo vệ cho các thương thuyền Hoa Kỳ vừa như phương tiện chuyên chở đến thăm viếng khắp nơi trong khu vực. Tuy nhiên, ông nghĩ sự hiểu biết chuyên môn và kinh nghiệm của ông trong vùng sẽ mang lại các kết quả tốt hơn là dựa vào các sĩ quan hải quân đóng vai các nhà thương thuyết: Công cuộc mậu dịch trải rộng của chúng ta tại các vùng biển này, mà không có dù chỉ một hải cảng nào của chính chúng ta gần hơn là những hải cảng nằm trên chính bờ biển của chúng ta, tạo thành một trường hợp chưa từng có tại phương Đông; và Chính phủ xem ra có lưu tâm để có một [hải cảng] trong số đó. Tôi hay biết rằng các vị tư lệnh hải quân của chúng ta thường hành động với tư cách các nhà thương thuyết trong các trường hợp cần thiết, nhưng mặc dù cảm nhận được các công tác năng động và hữu hiệu của họ, vẫn có sự thiếu sót một kinh nghiệm lâu dài về nhóm dân bán khai mà họ có dịp mở ra các cuộc thương thảo, nhằm khai thông nền mậu dich., hay nhằm giải quyết các sự ngộ nhận hiện hữu, khiến cho họ kém hữu dụng hơn sự can thiệp của một người đã sở đắc được một sự am tường về các người dân đó , các phong tục của họ, và bản chất của sự mua bán. Xuyên qua báo chí tôi hay biết sự quyết tâm của Chính Phủ muốn duy trì một lực lượng hải quân tại khu vực này của thế giới sẽ cung ứng cho một đại diện như thế một phương tiện để thỉnh thoảng thăm viếng các nơi chốn như thế khi mà quyền lợi của quốc gia chúng ta có thể đòi hỏi sự có mặt của đại diện đó. Balestier đã đề nghị trong lá thư này: Việc gửi sang các loại vũ khí chế tạo toàn hảo khác nhau, các loại kiếm, vàng, các tấm gương đóng khung, ống nhòm, quả địa cầu, [một từ không đọc được], vân vân, và vân vân, để phân phối đến các vị Quân Vương & các lãnh tụ chính yếu, là những người sẽ đón nhận chúng như là các biểu hiệu của tình hữu nghị chứ không phải như các sự thừa nhận trình độ yếu kém như thường được tin tưởng. (2) Chín năm sau đó, Balestier đã có thể cung cấp một lý do cụ thể để phát huy nhiệm vụ của ông tại Cochinchina [Việt Nam ngày nay, chú của người dịch]. Vào ngày 6 tháng Tư, 1847, ông có viết cho ông Bộ Trưởng Ngoại Giao: Một năm trước đây một vài Quan Lại của Quốc Vương xứ Cochin China đã đến đây như thường lệ trên các con thuyền của họ, đã yêu cầu tôi có một sự kiểu chính cho hành vi ngược ngạo mà họ đã gánh chịu từ tay vị thuyền trưởng chiến thuyền “Consitution.” Họ trình bày rằng họ đương ở trên bờ thi hành công việc cho Quốc Vương khi chiếc thuyền “Constitution” thả neo tại Vịnh Turong [Đà Nẵng], rằng khi hay biết vị thuyền trưởng thiếu củi và nước, họ đã sằn lòng cung cấp cho ông ta và đã giữ mối dây liên lạc thân hữu với ông ta. Nhưng một hôm, vị thuyền trưởng lên bờ cùng với một đoàn tùy tùng từ chiếc thuyền của ông ta và ra lệnh cho họ phải giao một số Linh Mục người Pháp, là những người mà ông ta cho rằng đang bị bắt làm tù nhân trong nước, về việc này họ [các quan lại Việt Nam, chú của người dịch] đã phản đối rằng họ không biết gì hết và rằng tốt hơn là ông ta nên tới Kinh đô, [là] một cảng biển và đích thân thỉnh cầu lên Quốc Vương, vì việc này họ đã bị còng tay và hạ nhục trước sự hiện diện của các thân nhân và gia nhân của mình và sau cùng đã bị dẫn lên thuyền “Constitution” nơi mà họ bị bắt làm tù nhân trong nhiều ngày và bị đe dọa hành quyết hàng ngày nếu các vị Linh Mục Công Giáo Pháp không được chuyển giao cho ông ta. Các Quan Lại khác xác nhận sự việc trên & tuyên bố rằng trong khi họ không hay biết gì về sự bắt giữ các người ngoại quốc và hơn nữa họ không có thẩm quyền phóng thích các ngoại kiều này, điều này được nói lại hàng ngày cho viên thuyền trưởng hay biết. Rằng vào một hôm nào đó họ có nhìn thấy nhiều chiếc tàu rời khỏi chiến thuyền chở đầy binh sĩ có vũ trang đầy đủ nhưng trong khi họ hay người dân trong thị trấn không hề có ý thức về sự nguy hiểm nào đã tụ tập để nhìn các binh sĩ đổ bộ; sau khi tỏ vẻ khích động các binh sĩ đã sắp thành hàng một và nổ súng vào đám đông và trong khi đám đông bỏ chạy vào thành phố các binh sĩ này đã rượt đuổi theo họ. Mười bảy người, gồm cả đàn ông, đàn bà, trẻ em, đã bị giết. Trong khi đó chiến thuyền “Constitution” đã tiến vào một vị trí sát Hải Cảng, sau đó không lâu đã triệt hạ và bắn cháy các Thuyền Buồm Chở Gạo trên Sông làm cho nhiều người bị giết và bị thương bởi đạn bắn ra và các người khác bị chết đuối khi các Chiếc Thuyền Buồm bị chìm … Tôi không muốn tự đặt mình vào cương vị kẻ tố cáo Thuyền Trưởng Percival, hay thông tin cho Chính Phủ về bất kỳ điều gì chưa được công bố trên các báo chí tại Ấn Độ và Âu Châu, nhưng tôi xem đó là một bổn phận của tôi để lưu ý Ngài [Bộ Trưởng] về hành vi hiếu khách của Radja of Subi và để đề nghị một sự thừa nhân cấp quốc gia về hành vi đó và cùng một lúc cứu xét điều đó trong khuôn khổ trách nhiệm chính thức của tôi là phải thông tri với Ngài Bộ Trưởng các ấn tượng không thuận lợi có khuynh hướng chống lại tư cách quốc gia của chúng ta trong các khu vực này và là các ấn tượng mà nếu không được tháo gỡ chắc chắn sẽ dẫn đến sự hy sinh các nhân mạng vô tội dưới sự tra tấn khủng khiếp nhất, như được thi hành trên các kẻ thù bởi Quốc Vương xứ Cochin China. Vị Giám Mục & Các Linh Mục người Pháp nói trên không lâu sau chuyến viếng thăm của chiến thuyền “Constitution” tại Cochin China đã được chuyển giao theo lời thỉnh cầu của vị chỉ huy Pháo Hạm “Alcmène” của Pháp.” (3) Điều gì đã xảy ra trong cuộc viếng thăm của Chiến Thuyền USS Constitution tại vịnh Đà Nẵng không được biết rõ một cách xác thực. Jean Chesneaux, một tác giả người Pháp trong tác phẩm về Việt Nam được viết hồi giữa thập niên 1950, xác nhận lời tường thuật của phía Cochinchina về biến cố và phát biểu một cách châm biếm: Về một chiến thuyền của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ trong năm 1845 liên hệ đến đặc ưu quyền đáng ngờ của việc phóng ra một hành vi can thiệp có vũ trang đầu tiên chống lại nhân dân Việt Nam: một thuyền trưởng Hoa Kỳ, mà tên tuổi không được lưu giữ trong lịch sử, đã đến Tourane trong năm đó, đở bộ lên bờ để cưỡng bách sự phóng thích một giám mục người Pháp bị bắt giữ, đã cầm tù tất cả các quan lại cũng như các chiếc Thuyền Buồm Chiến Đấu có tại hải cảng; nhưng các con tin kháng cự, và viên Thuyền Trưởng Hoa Kỳ, không biết chắc mình phải làm gì với các tù binh, sau cùng đã thả họ ra và lái thuyền bỏ đi. (4) Bất kể lời buộc tội rằng Hoa Kỳ đã thực hiện hành vi can thiệp bằng vũ trang đầu tiên (giả định là của Tây Phương) chống lại Việt Nam, Chesneaux đã không đề cập đến việc nổ súng hay tổn thất nào. Ông D.G.E. Hall, sử gia người Anh về Đông Nam Á, có viết ở trong cùng thời khoảng đó, hậu thuẫn cho sự tường thuật của Chesneaux và có đề cập đến việc nổ súng và các tổn thất, nhưng ông đã trích dẫn từ các nguồn tư liệu Anh Quốc hiện đại tại Singapore là các kẻ đã nghe được câu chuyện, chúng tôi giả định, từ cùng các viên chức Cochin China đã tìm gặp Balestier. (5) Mặt khác, Buttinger, sử gia Hoa Kỳ về Việt Nam trong tác phẩm được ấn hành năm 1958, đã nhẹ nhàng châm biếm nỗ lực của Chesneaux về việc “xếp loại sự câu lưu tạm thời một vài vị quan lại như một ‘hành vi can thiệp có vũ trang'”, gọi đó “đúng ra là một sự thậm xưng.” Ông nêu ý kiến rằng Chesneaux đã không hiểu biết tường tận về biến cố và viện dẫn rằng ông ấy không hề hay biết cả về tên viên thuyền trưởng Hoa Kỳ (John Percival) (6). Buttinger không nên bị buộc tôi là kẻ theo chủ nghĩa quốc gia quá cực đoan trong cái nhìn của ông về biến cố, vì ông khẳng định rằng các nỗ lực của Percival là vụng về. Sự lượng định của Buttinger được ủng hộ bởi Auguste Haussman, một tác giả người Pháp khác, là người đưa ra sự tường thuật sau đây: Viên thuyền trưởng Hoa Kỳ, thấm nhuần tinh thần quảng đại, tìm kiếm một sự phóng thích vị giám mục và đây là câu chuyện mà ông ta đã hành động như thế nào: ba hay bốn quan lại được phái bởi Quốc Vương lên chiến thuyền, bị bắt và giam giữ làm con tin, trong khi chờ đợi sự trả tự do cho vị giáo sĩ truyền đạo. Khi nghe báo cáo về việc này, Quốc Vương trở nên tức giận và từ chối trao trả vị giám mục theo một thủ tục như thế. Quốc Vương còn xem xét cả việc phái một hạm đội nhỏ để tấn công chiến thuyền, nhưng một cơn bão làm các chiếc tàu của Nhà Vua bị tán loạn. Muốn tránh một cuộc giao chiến, thuyền trưởng Hoa Kỳ đã quyết định phóng thích con tin, là những kẻ lại bị cầm tù lần thứ nhì theo lệnh của Quốc Vương vì tội để mình bi bắt. (7) Sự tường thuật này cho hay là chiến thuyền Hoa Kỳ tức khắc rời đi, sau khi để lại các lời đe dọa. Nay chúng ta có lời khai của chính Thuyền Trưởng John Percival, là người, theo văn thư trao đổi của chính ông ta, đã cho tàu USS Constitution cặp bến tại Vịnh Đà Nẵng để tái tiếp tế. Vào ngày 21 tháng Sáu 1845, sau khi chiếc thuyền Constitution đến Đảo Whampoa ngoài khơi Trung Hoa, Percival đã báo cáo “sự việc xảy ra” trong một lá thư gửi Bộ Trưởng Hải Quân. Lá thư của ông ta, chính yếu là một biện minh trạng cho hành động của mình, đính kèm một văn kiện trình bày về chính biến cố mà ông đã gửi cho vị đô đốc Pháp trong vùng. Bức thư viện dẫn sự hiểu biết của Percival về sự trợ giúp của nước Pháp dành cho Hoa Kỳ trong buổi lập quốc của nó cũng như sự tin tưởng rằng các chính phủ phải đối xử với sự kính trọng các ngoại kiều mà họ cho phép được sống trong lãnh thổ của họ. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy sự lo ngại của Percival rằng các thượng cấp của ông có thể xem là ông đã vượt quá các chỉ thị đã giao cho ông, nhằm yêu cầu ông mang lại mọi sự bảo vệ cần thiết cho các công dân Hoa Kỳ và cho nền thương mại Hoa Kỳ, nhưng không nói gì về các công dân ngay của các nước thân hữu nhất. Văn kiện Percival gửi cho [đô đốc] Pháp mô tả biến cố với một vài chi tiết, nhưng mơ hồ về việc là có bất kỳ cuộc nổ súng nào đã xảy ra hay không. Cùng lúc tôi đã bắt giữ ba viên quan lại và giải họ lên tàu làm con tin [cho] sự an toàn của sinh mạng vị Giám Mục. Ngày sau đó tôi tịch thu ba chiếc thuyền buồm của Nhà Vua, và di chuyển chiến thuyền của tôi đến sát bờ hơn để có thể vươn tới các Đồn Phòng Thủ và [nhiều từ không đọc được] với pháo đội của tôi, hy vọng rằng một cuộc biểu dương, chứng tỏ một cuộc bày binh bố trận sẵn sàng giao tranh sẽ bảo đảm được một cách hữu hiệu hơn sự an toàn của ngài Giám Mục.” ( Trong phần cuối văn kiện này, Percival ám chỉ một cách rõ ràng rằng ông ta đã không tham gia vào các sự giao chiến. bởi chúng sẽ vi phạm vào các chỉ thị dành cho ông. Đúng như điều là Percival lo sợ, Bộ Hải Quân đã không chấp nhận. Lá thư của ông tại Văn Khố Hải Quân có mang bút phê: “Trả lời tức thời. Bộ Hải Quân không chấp thuận hành động của Thuyền Trưởng Percival vì không được phép hoặc do có lời yêu cầu của vị Giám Mục hay bởi luật lệ của các quốc gia.” (9) Một tháng sau đo, giả định trước khi ông ta có thể hay biết về phản ứng tiêu cực từ Bộ sở quan của mình, Percival mau chóng gửi lên Bộ Trưởng Hải Quân bản sao các phản ứng thuận lợi của cả viên Đô Đốc Pháp và Sứ Thần Pháp tại Trung Hoa, cùng với tin tức cho hay vị Giám Mục đã được trả tự do ít ngày sau khi Percival rời khỏi hiện trường. Lá thư của Percival gửi Bộ Trưởng Hải Quân toát ra niềm tin tưởng rằng sự giải thoát vị Giám Mục xảy ra phần lớn là nhờ hành động quyết đoán và hợp thời của ông ta (Percival) và rằng, nếu ông ta có thể lưu lại đó lâu hơn một chút, vị Giám Muc chắc sẽ được trao trả trực tiếp vào tay ông ta.(10) Sau hết, như được biểu tỏ dưới đây, khi Hoa Kỳ cố gắng đưa ra các sự đền bù cho biến cố, phía Cochin China đã bác khước rằng nó đã từng xảy ra! Trong bất kỳ trường hợp nào, bất luận lời tường thuật biến cố nào là chính xác, sự trần thuật gây tổn hạI nhất cho Percival chính là câu chuyện đã được chuyển đến Balestier, mà Balestier đã chuyển về Hoa Thịnh Đốn, và theo đó Hoa Thịnh Đốn đã ra tay hành động. (11) Tổng Thống Zachary Taylor đã quyết định phái Balestier làm đặc phái viên ngoại giao để thực hiện các sự hàn gắn với Quốc Vương xứ Cochin China và, nhân đó, thực hiện một nỗ lực khác để thương thảo một hiệp ước thương mại với Cochin China; ông cũng sẽ cố gắng thuyết phục nước Xiêm La thi hành đúng với các điều khoản của hiệp ước mà Edmund Roberts đã thương thảo năm 1833 và thực hiện các cuộc thăm viếng thiện chí và thương thảo các hiệp ước với nhiều vương quốc thuộc các đảo vùng Đông Ấn Độ.” (12) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Từ cuộc tiến công Đà Nẵng năm 1845 của chiến hạm Hoa Kỳ CONSTITUTION ...
Top