Trả lời chủ đề

JOSEPH BALESTIER


TỪ CUỘC TẤN CÔNG ĐÀ NẴNG NĂM  1845

CỦA CHIẾN HẠM HOA KỲ CONSTITUTION ĐẾN

SỨ BỘ CỦA ĐẶC PHÁI VIÊN  BALESTIER

NĂM 1850

***

Nguồn quansuvn.net


I. Thuyền Trưởng  Percival, Chiến Hạm Constitution và

Cuộc Tấn Công Quân Sự Đầu Tiên của Hoa  Kỳ

tại vịnh Đà Nẵng, tháng Năm 1845

https://www.polkcounty.org/timonier/speaks/book20.html




NGÔ  BẮC dịch




Lịch sử, như chúng ta được giảng dạy, cần phải được học  hỏi để không lập lại những sai lầm của quá khứ. Chiến hạm Constitution đã đóng  một vai trò trọng tâm trong một biến cố rõ ràng không được học hỏi và bài học  của nó không được khắc ghi trong lòng.


Vào buổi sáng ngày 10 tháng Năm  1845, chiến hạm to lớn đã cập bến hải cảng Turon, Cochin China (Đà Nẵng, Việt  Nam ngày nay). Nó đã đi được nửa đường trong một hành trình vòng quanh thế giới  khởi hành một năm trước đó. Các hải cảng khác đã ghé lại bao gồm Rio de Janerio,  Zanzibar, Quallah Battoo, Singapore, và Brunei. Đi vòng quanh để thả neo tại  phía tây một hòn đảo được các người Hoa Kỳ sau này gọi là “Núi Khỉ,” công tác  đầu tiên là sắp xếp tang lễ cho một nhạc sĩ tên Cooke, người đã từ trần ngay vào  lúc tàu đến hải cảng. Một trong số người phục dịch gốc Trung Hoa trong thủy thủ  đoàn đứng làm thông dịch viên để có được một ngôi mộ nằm trong phạm vi nghĩa đia  chôn cất người bản xứ tại chân ngọn núi. Với khoản tiền tương đương hai mỹ kim,  sự trông coi ngôi mộ vĩnh viễn đã được hứa hẹn. Tang lễ đã mau chóng được cử  hành, và rồi chiếc thuyền dời neo vào sâu trong vịnh và gần thị trấn hơn. Các sự  chuẩn bị đã khởi sự để tiếp tế nước cho con tàu.


Ba ngày sau đó, Thuyền  Trưởng John Percival, bình phục sau một cơn chiến đấu kéo dài chống chứng bệnh  thống phong, đã phái Trung Úy William Chaplin lên bờ để hội kiến với các quan  chức của thị trấn (Người Hoa Kỳ gọi họ là “Quan Lại”.) Cùng đi với ông ta là một  phái đoàn nhỏ bao gồm các sĩ quan cấp thấp, các thủy thủ, và các binh sĩ thuộc  Thủy Quân Lục Chiến để mang lại cho ông “uy thế” – và sự bảo vệ nếu cần. Được  hướng dẫn bởi một trong số thủy thủ gốc Trung Hoa, phái đoàn đi dọc theo các  đường phố trong thị trấn và xuyên qua chợ. Sau cùng, hai hàng lính mang váy màu  đỏ dài tới đầu gối có mang một huy hiệu tròn màu xanh lá cây phía trước váy và  đội nón gỗ hình chóp được bọc thiếc, và cầm các chiếc lao dài với đuôi nheo màu  sắc sặc sỡ, đứng hai bên con đường dẫn tới khu vườn của ngôi nhà của vị quan  chức chủ chốt.


Các người phục dịch mời Chaplin ngồi một bên của chiếc bàn  đặt ngoài trời, đoàn tùy tùng đứng ở sau lưng ông ta. Không lâu sau đó, viên  “Quan Lại” xuất hiện, được tháp tùng bởi một người cầm lọng và các người khác,  và ngồi xuống bên đối diện. Cuộc gặp gỡ thì ngắn ngủi: trao đổi các sự giới  thiệu và các câu chào hỏi lịch sự, và sự chấp nhận bởi viên Quan Lại lời mời  thăm viếng chiến thuyền Hoa Kỳ.


Ngày kế tiếp, Thứ Tư, ngày 14 tháng Năm,  phía “Trung Hoa” [“Chinese” trong nguyên văn, chú của người dịch] đến thăm  Percival và đã được tiếp đón với nghi lễ thích hợp, bất kể sự việc là thủy thủ  đoàn đang sơn lại chiếc thuyền với thân tàu màu đen theo qui ước cùng mẫu sọc  màu trắng sau khi đã được sơn trước đây bằng màu trắng với một sọc màu đỏ trong  khi hải hành vùng hải phận nhiệt đới. Dù thế, mọi việc diễn ra tốt đẹp, và phía  “Trung Hoa” đã ra về sau khi được hướng dẫn thăm chiếc thuyền.


Tuy nhiên,  trong cuộc thăm viếng này, một thành viên cấp thấp của phái đoàn thăm viếng đã  lén quay trở lại buồng tàu của Percival và trao một lá thư, nói rằng anh ta sẽ  mất mạng nếu thượng cấp anh ta biết được. Khi mở lá thư ra, sau khi đoàn khách  của mình ra về, Percival thấy lá thư được viết bởi một giáo sĩ truyền đạo người  Pháp, một Giám Mục tên là Dominique Lefevre,cho hay ông lấy làm “ngạc nhiên khi  thấy không nhận được hồi âm cho lá thư trước đây của ông,” và lên tiếng cầu cứu  lần nữa khi ngôi làng của ông bị “trao cho quân cướp” và rằng ông cùng mười hai  người dân Cochin China, sau đó đã bị bắt và bị kết án tử hình tức  thời.”


John Percival đã nổi tiếng về việc hành động bốc đồng từ những  ngày đầu tiên đi biển; đến nỗi ông được gán cho biệt hiêu “anh Jack Điên” (Mad  Jack). Trong tình trạng đương thời, ông ta đã hành động đúng với tiếng tăm của  mình. Không cần suy nghĩ rằng cuộc điều tra cẩn thận sẽ phát hiện rằng nhân vật  người Pháp này đã có một thành tích đối đầu kéo dài với vị Hoàng Đế Thiệu Trị,  hay việc ông ta đã từng bị cảnh cáo về việc tử hình và bị trục xuất khỏi quốc  gia trưo’c đó. Như viên Trung Úy Thứ Năm (Fifth Lieutenant, chức vụ thường để  chỉ sĩ quan cầm lái tàu, chú của người dịch] tên John B. Dale đã viết trong nhật  ký của mình, phản ảnh quan điểm của vị Thuyền Trưởng của anh ta, “Đây là một cơ  hội cho một sự giải cứu khỏi quốc gia bán khai này. Đối với chúng ta, việc hay  biết rằng một tín hữu Thiên Chúa Giáo có tính mạng bị lâm nguy là đủ rồi. Các  biện pháp mạnh nhất và nhanh chóng nhất phải được thực hiện. Tình nhân loại là  mệnh lệnh [cao hơn] của chúng ta hơn là luật lệ của các quốc gia.”


Viên  Thuyền Trưởng mau chóng tập họp một nhóm đổ bộ gồm năm mươi thủy thủ và ba mươi  lính Thủy Quân Lục Chiến, tất cả đều được trang bị vũ khí, chất lên các chiếc  tàu nhỏ của chiến thuyền, đột nhập lên bờ và đi đến tư dinh vị “Quan Lại.” Nhân  vật Đông Phương này ngồi đối diện với viên Thuyền Trưởng tại cùng chiếc bàn như  khi gặp gỡ Trung Úy Chaplin. Percival yêu cầu một lá thư mà ông đã viết phải  được gửi cho nhân vật người Pháp, và đòi hỏi rằng ba nhân vật địa phương phải  được giao cho ông ta để làm con tin, nếu không ông ta sẽ tiến đánh. Viên “Quan  Lại,” có vẻ bình tĩnh, đem giao các con tin, và đoàn quân Hoa Kỳ đã trở về chiến  hạm mà không có biến cố gì xảy ra.


Hai mươi bốn giờ trôi qua và không có  gì xảy ra. Percival di chuyển chiến hạm Constitution đến gần thị trấn và một  trong ba đồn phòng thủ lân cận hơn, và bắn mười viên đại pháo để dò tọa độ. Ông  ta cũng phái các toán đổ bộ đi chiếm đoạt ba chiến thuyền buồm cách đó một dặm  rưỡi. Các thuyền này được kéo về gần “Thiết Hạm Cổ Xưa” (Chiến Hạm Constitution)  và cắm neo xuống. Sĩ quan Hải Hành (Sailing Master) Isaac Strain được cắt cử để  bảo đảm chúng ở yên vị trí đó.


Sau ba ngày nữa mà không có tin tức gì cả,  vào ngày 19 Percival di chuyển sát gần hơn nữa Thành Phố Đà Nẵng, và lần này kéo  các dây buộc chặt dây neo để ông ta có thể giữ các khẩu pháo bên sườn phải chiếc  tàu nhắm vào bờ. Các viên chức địa phương từ chối không làm bất kỳ điều gì cho  đến khi các con tin được thả. Percival lại đột nhập lên bờ một lần nữa, nhưng  không dành đạt được gì bằng lời nói suông. Ông đã thả các con tin ra  về.


Ngày thứ ba, hôm 20, trời mới sáng có gió mạnh và biển động mạnh.  Dưới bức màn mưa có gió thổI mạnh, ba chiến thuyền buồm tháo dây buộc và theo  gió thổi chạy trốn ngươc về dòng sông chảy qua Đà Nẵng. Một cuộc khai pháo của  chín khẩu súng một bên mạn tàu từ chiến hạm to lớn của Hoa Kỳ khiến cho một thủy  thủ đoàn phải thả neo và nhảy ra khỏi thuyền, một vài người có lẽ đã bị chết  đuối. Hai chiếc thuyền kia vượt qua cồn cát và có vẻ như một cách bình thường sẽ  trốn thoát được.


Tuy nhiên, Percival đã phóng các chiếc tàu có vũ trang  truy kích chúng, và chúng được phóng đi một cách cuồng nhiệt để truy đuổi con  mồi. Chiếc xuồng lớn và bốn chiếc xuồng nhỏ lao tới vào khoảng từ sáu đến tám  con tàu có vũ trang của phía Cochin [Việt Nam], dưới lằn đạn của một trong các  đồn phòng thủ, và không có hành động nào khác kháng cự lại các xuồng này. Một  chiếc thuyền buồm thứ nhì bị bắt giữ trở lại và giao cho một toán nhỏ canh chừng  nó.


Top