Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Từ chiến trường khốc liệt
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 84269" data-attributes="member: 17223"><p>Hal Boyle, người phụ trách chuyên mục của AP dành sáu tháng cùng chúng tôi ở Việt Nam viết những câu chuyện hậu phương đầy sức sống về “phương diện con người” của chiến tranh. Hal là một tâm hồn nhẹ nhàng, người đã viết trong trang Sài Gòn của mình, “Bất kỳ phóng viên nào có thể làm điều công bằng cho một trận cháy báo động cấp độ bốn thì đều có thể làm tốt cuộc chiến chỉ có ngọn lửa lâu hơn ảnh hưởng con người”. Thói quen uống rượu nặng góp phần thăng hoa tính sáng tạo của anh ta. Đôi khi đêm muộn, anh ta vẫn chìm đắm trong men rượu và chúng tôi thường cá cược xem anh ta có thể làm xong trang theo dự kiến không. Vào buổi sáng tôi luôn thấy dưới nhà mình câu chuyện ba trang mà anh ta để ở đó từ lúc nửa đêm và bình minh.</p><p></p><p>Hal giành giải thưởng Pulitzer với những bài viết về mặt trận châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Một lần, tôi hỏi anh ta kỷ niệm điều đó thế nào và anh ta nói anh ta ghé thăm một nhà thổ ở trung tâm nghỉ ngơi và sáng tạo quân đội ở Bỉ, “và khi Bob Eunson gọi điện nói tôi đã giành được giải thưởng Pulitzer thì tôi kỷ niệm bằng một nhiệm vụ khẩn cấp khác”.</p><p></p><p>Tin, bài của Hal được xuất bản trong hàng trăm tờ báo trên cả nước, cho thấy nhu cầu thích đọc những bài cổ vũ chiến tranh mà tôi không góp phần. Khi Hal trở về New York, Hugh Mulligan, một phóng viên cựu chiến binh từ Phòng Phóng sự thay thế anh ta.</p><p></p><p>Mulligan là tác giả phóng sự nổi tiếng và những câu chuyện của anh ta luôn được các biên tập viên yêu thích trình bày cả trang. Anh ta dí dỏm làm người khác không kìm nén được và có sở thích rất Naponeon, thích sải bước quanh chiến trường với một tay đút túi quần trước. Khi được mời ăn trưa gặp một vài nguồn tin của chúng tôi tại một nhà hàng Việt Nam, anh ta giả vờ lưỡng lự: “Tôi không thích cari với những người địa phương”.</p><p></p><p>Trong suốt chuyến thăm Việt Nam, anh ta kết bạn với đội đồng ca gợi cảm trẻ trung của một đoàn kịch tới thăm có tên Đoàn xiếc Quốc gia Đức và trong nhiều tuần bị đoàn tuỳ tùng xinh đẹp theo sau mọi nơi trong thành phố. Anh ta đưa họ tới những bữa tiệc nơi những bà vợ của chúng tôi không có mặt, và nói chuyện với họ về những cuộc tình lãng mạn. Một nửa số họ phải lòng anh ta nhưng Mulligan vẫn chung thuỷ với cô vợ Brigitte ở Forests Hills, New York. Sự kiềm chế bản thân là thế mạnh của báo giới và rất nhiều phóng viên cô đơn ngày nay không mắc vào điều này.</p><p></p><p>Giống như Boyle, Mulligan cũng có quan điểm rằng bất kỳ điều gì người Mỹ đang làm ở Việt Nam đều đúng. Tổng thống Johnson đảm bảo với đất nước rằng sự can thiệp quân sự là hợp lý, công bằng và được giới hạn về mức độ, thời gian và đó là hậu quả không tránh được của Chiến tranh lạnh. Cần cảm thấy rằng nếu có những người lính Mỹ chết trong chiến trường thì họ đang hy sinh cuộc sống cho điều đáng giá. Mulligan ủng hộ sự hy sinh của họ. Một hôm Hugh nói với tôi anh ta có một niềm tin không thể dập tắt “Phần thú trong con người có thể cứu chữa được. Cậu nhìn thấy nhiều người tốt hơn những người tệ nhất và chiến tranh mang đến người tốt nhất”.</p><p></p><p>Tôi triết lý ít hơn. Tầm nhìn khác nhau của chúng tôi được minh chứng trong những câu chuyện chúng tôi viết về những hậu quả sau trận chiến tại thung lũng La Drang tháng 11/1965, trận đánh đẫm máu nhất trong chiến tranh tính đến thời điểm đó. Mulligan viết về sự trở về căn cứ An Khê của một đơn vị: “Những cậu bé dũng cảm đã để lại tuổi xuân phía sau cuộc chiến cay đắng ở thung lũng La Drang trở về nhà giống như những người đàn ông ở Doanh trại Sư đoàn Không quân đổ bộ 1, tối Chủ Nhật” và anh ta trích lời quan chức cấp cao nói rằng họ đã đối đầu với “kẻ thù chuyên nghiệp, mạnh bạo và các bạn đã trả đòn. Các bạn đã xứng đáng và sẽ không bao giờ bị lãng quên, đất nước tự hào về các bạn”. Mulligan kết thúc câu chuyện đó: “Sẽ có những tiếng cười, nhậu nhẹt ở Tiểu đoàn 2 tối nay và cũng có cả nước mắt. Nước mắt cho những ngưòi bạn bỏ lại phía sau trong rừng bông lau ở thung lũng La Drang, nước mắt cho những người bạn trong những bao xác bằng cao su trên hành trình trở về quê nhà nước Mỹ”.</p><p></p><p>Hôm đó Mulligan viết câu chuyện của anh ta về La Drang, tôi đang ở Plâycu cách đó khoảng 161km. Tôi viết về trận chiến thực sự và tôi viết một bài phân tích về một chiến dịch tương tự. “Một thế hệ trẻ của Mỹ bị ném vào khói lửa ở chiến trường miền Nam Việt Nam. Họ đang phát hiện ra chiến tranh không khác về bản chất bởi nhiều người bị nó tàn sát và nó cũng tàn bạo như những cuộc chiến tranh khác mà sách lịch sử đã ghi lại. Với những đại đội ở La Drang, đó không phải sự hoan hỉ của chiến thắng khuấy động họ khi trận chiến kết thúc mà đó là sự hoan hỉ vì họ vẫn còn sống”.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 84269, member: 17223"] Hal Boyle, người phụ trách chuyên mục của AP dành sáu tháng cùng chúng tôi ở Việt Nam viết những câu chuyện hậu phương đầy sức sống về “phương diện con người” của chiến tranh. Hal là một tâm hồn nhẹ nhàng, người đã viết trong trang Sài Gòn của mình, “Bất kỳ phóng viên nào có thể làm điều công bằng cho một trận cháy báo động cấp độ bốn thì đều có thể làm tốt cuộc chiến chỉ có ngọn lửa lâu hơn ảnh hưởng con người”. Thói quen uống rượu nặng góp phần thăng hoa tính sáng tạo của anh ta. Đôi khi đêm muộn, anh ta vẫn chìm đắm trong men rượu và chúng tôi thường cá cược xem anh ta có thể làm xong trang theo dự kiến không. Vào buổi sáng tôi luôn thấy dưới nhà mình câu chuyện ba trang mà anh ta để ở đó từ lúc nửa đêm và bình minh. Hal giành giải thưởng Pulitzer với những bài viết về mặt trận châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Một lần, tôi hỏi anh ta kỷ niệm điều đó thế nào và anh ta nói anh ta ghé thăm một nhà thổ ở trung tâm nghỉ ngơi và sáng tạo quân đội ở Bỉ, “và khi Bob Eunson gọi điện nói tôi đã giành được giải thưởng Pulitzer thì tôi kỷ niệm bằng một nhiệm vụ khẩn cấp khác”. Tin, bài của Hal được xuất bản trong hàng trăm tờ báo trên cả nước, cho thấy nhu cầu thích đọc những bài cổ vũ chiến tranh mà tôi không góp phần. Khi Hal trở về New York, Hugh Mulligan, một phóng viên cựu chiến binh từ Phòng Phóng sự thay thế anh ta. Mulligan là tác giả phóng sự nổi tiếng và những câu chuyện của anh ta luôn được các biên tập viên yêu thích trình bày cả trang. Anh ta dí dỏm làm người khác không kìm nén được và có sở thích rất Naponeon, thích sải bước quanh chiến trường với một tay đút túi quần trước. Khi được mời ăn trưa gặp một vài nguồn tin của chúng tôi tại một nhà hàng Việt Nam, anh ta giả vờ lưỡng lự: “Tôi không thích cari với những người địa phương”. Trong suốt chuyến thăm Việt Nam, anh ta kết bạn với đội đồng ca gợi cảm trẻ trung của một đoàn kịch tới thăm có tên Đoàn xiếc Quốc gia Đức và trong nhiều tuần bị đoàn tuỳ tùng xinh đẹp theo sau mọi nơi trong thành phố. Anh ta đưa họ tới những bữa tiệc nơi những bà vợ của chúng tôi không có mặt, và nói chuyện với họ về những cuộc tình lãng mạn. Một nửa số họ phải lòng anh ta nhưng Mulligan vẫn chung thuỷ với cô vợ Brigitte ở Forests Hills, New York. Sự kiềm chế bản thân là thế mạnh của báo giới và rất nhiều phóng viên cô đơn ngày nay không mắc vào điều này. Giống như Boyle, Mulligan cũng có quan điểm rằng bất kỳ điều gì người Mỹ đang làm ở Việt Nam đều đúng. Tổng thống Johnson đảm bảo với đất nước rằng sự can thiệp quân sự là hợp lý, công bằng và được giới hạn về mức độ, thời gian và đó là hậu quả không tránh được của Chiến tranh lạnh. Cần cảm thấy rằng nếu có những người lính Mỹ chết trong chiến trường thì họ đang hy sinh cuộc sống cho điều đáng giá. Mulligan ủng hộ sự hy sinh của họ. Một hôm Hugh nói với tôi anh ta có một niềm tin không thể dập tắt “Phần thú trong con người có thể cứu chữa được. Cậu nhìn thấy nhiều người tốt hơn những người tệ nhất và chiến tranh mang đến người tốt nhất”. Tôi triết lý ít hơn. Tầm nhìn khác nhau của chúng tôi được minh chứng trong những câu chuyện chúng tôi viết về những hậu quả sau trận chiến tại thung lũng La Drang tháng 11/1965, trận đánh đẫm máu nhất trong chiến tranh tính đến thời điểm đó. Mulligan viết về sự trở về căn cứ An Khê của một đơn vị: “Những cậu bé dũng cảm đã để lại tuổi xuân phía sau cuộc chiến cay đắng ở thung lũng La Drang trở về nhà giống như những người đàn ông ở Doanh trại Sư đoàn Không quân đổ bộ 1, tối Chủ Nhật” và anh ta trích lời quan chức cấp cao nói rằng họ đã đối đầu với “kẻ thù chuyên nghiệp, mạnh bạo và các bạn đã trả đòn. Các bạn đã xứng đáng và sẽ không bao giờ bị lãng quên, đất nước tự hào về các bạn”. Mulligan kết thúc câu chuyện đó: “Sẽ có những tiếng cười, nhậu nhẹt ở Tiểu đoàn 2 tối nay và cũng có cả nước mắt. Nước mắt cho những ngưòi bạn bỏ lại phía sau trong rừng bông lau ở thung lũng La Drang, nước mắt cho những người bạn trong những bao xác bằng cao su trên hành trình trở về quê nhà nước Mỹ”. Hôm đó Mulligan viết câu chuyện của anh ta về La Drang, tôi đang ở Plâycu cách đó khoảng 161km. Tôi viết về trận chiến thực sự và tôi viết một bài phân tích về một chiến dịch tương tự. “Một thế hệ trẻ của Mỹ bị ném vào khói lửa ở chiến trường miền Nam Việt Nam. Họ đang phát hiện ra chiến tranh không khác về bản chất bởi nhiều người bị nó tàn sát và nó cũng tàn bạo như những cuộc chiến tranh khác mà sách lịch sử đã ghi lại. Với những đại đội ở La Drang, đó không phải sự hoan hỉ của chiến thắng khuấy động họ khi trận chiến kết thúc mà đó là sự hoan hỉ vì họ vẫn còn sống”. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Từ chiến trường khốc liệt
Top