Trả lời chủ đề

Tôi quan sát đội của Shackleton làm việc tích cực:  trung sỹ, bác sĩ Manfriend Baier chữa trị cho mọi người đơn giản nhưng hiệu quả,  những người trước đây không được chăm sóc cơ bản về y tế. Những tay huấn luyện  vũ khí, Al Clack và John Lindewald kiên nhẫn hướng dẫn các bài học thực tế sử  dụng vũ khí tự động cho những lính mới với ngón tay đã chai lại vì sử dụng dây  nỏ, rất khó khăn khi đặt lên cò súng. Người Mỹ còn mang tới các kỹ năng khác,  hai đội nói tiếng Việt và một đội nói tiếng Pháp để để giao tiếp chính xác với  dân bản. Khi trở lại Sài Gòn, tôi đã viết một bài dài và tích cực trích dẫn cả  lời của chính quyền quân sự Mỹ nói rằng chương trình Mũ nồi xanh là “chương  trình hiệu quả nhất từ trước tới giờ” để ngăn chặn sự lan tràn Việt Cộng đến tận  gốc và chỉ đúng khi chiến lược này được tiếp tục thực hiện. Tôi cũng viết một  câu chuyện về những nhân viên CIA đầu tiên ở Tây Nguyên, đến đó từ các năm trước  với vỏ bọc là những nhà nghiên cứu thực vật đi quanh Buôn Ma Thuột tìm tổ bướm.  Thông tin này do trung sỹ Shackleton và đội của anh ta cung cấp, sau đó tôi tự  hỏi không biết tôi có được xếp là kẻ nói dối trắng trợn khi gây ra lúng túng cho  chỉ huy CIA không?


Lính đặc nhiệm Mũ nồi xanh là niềm tự hào của chính  quyền Kennedy. Chính Tổng thống ủng hộ những hỗ trợ đặc biệt cho những chiến  dịch bán quân sự và các chiến thuật khác thường mà đội Đặc nhiệm yêu cầu. Những  sĩ quan quân sự thông thường buộc phải tuân theo lối sống bắt buộc nên ghen tị  với Đội Đặc nhiệm, đôi khi gọi những chiến binh đội Mũ nồi xanh mỉa mai “Những  khẩu súng trường riêng của Jacqueline Kennedy”, phỏng theo tước bậc lực lượng  quân dội Anh trong đó có “Những khẩu súng trường riêng của Nữ hoàng”. Mật độ  hoạt động giới báo chí Sài Gòn dày lên vào cuối mùa hè cùng sự có mặt của phóng  viên thường trú tờ Thời báo New York, David Halberstam. Mọi người biết đến danh  tiếng của anh ta trước đó. Horst Faas đã làm việc và được sắp xếp ở cùng nhà với  anh ta ở Cônggô.


Horst lạnh lùng bình thường, miêu tả Halberstan với tôi  bằng những cụm từ gần như hoang tưởng nào là một tay hào phóng, thích đàn đúm,  cạnh tranh và rất chuyên nghiệp. Khi họ gặp nhau, Halberstam cao lớn ôm trọn  Horst bằng cái ôm của gấu và hét lên bằng giọng Đức giả và to lớn “Horst Kaspar  Adolf Faas của Đức quốc xã”. Horst mỉm cười đồng ý. David sử dụng văn phòng AP  như chính văn phòng của anh ta. Chúng tôi có vài chuyến đi viết bài cùng nhau ở  vùng nông thôn, tới thăm Nha Trang, Đà Nẵng và Đồng Bằng sông Cửu Long. Bài viết  của anh ta rất lạ, sâu sắc và chi tiết. Một cách thân thiện anh ta và Mal trở  thành đối thủ của nhau.


Halberstam đến vào thời điểm khi giới báo chí  đang rơi vào thời kỳ đặc biệt khó khăn. Chẳng bao lâu chúng tôi sẽ ngồi trên ghế  nóng không giống như trước đây vì cách viết bài của mình. Cái tên khởi sự đó  chính là Ấp Bắc, một nơi bình thường ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ trong  mảnh đất không người mọc lên ở Đồng bằng sông Cửu Long có đầm lầy và đồng lúa  phía Nam Sài Gòn. Những mái tranh chụm lại, bụi chuối và chuồng lợn bao quanh là  đặc trưng của thôn làng Việt Cộng trải khắp vùng nông thôn, là mục tiêu của các  trận rải bom, bắn pháo và oanh tạc thường xuyên của chính quyền bởi vì nó tồn  tại ngoài những vùng được gọi là bình định.


Buổi sáng ngày 3-1-1963, Sư  đoàn 7 Việt Nam Cộng hòa tập hợp một số tiểu đoàn lính bộ binh và không quân  tiến về đánh Ấp Bắc với mục tiêu diệt Đài phát thanh Việt Cộng hoạt động trong  vùng lân cận. Chiến dịch này đã đi sai đường. Chúng tôi nghe nói về trận đánh  này đầu giờ chiều khi nguồn tin của chúng tôi ở Đại đội Không quân quân đội Mỹ  đóng tại Sân bây Tân Sơn Nhất gọi nói rằng tám trực thăng bị tấn công và ít nhất  bốn lính không quân bị thương. Tin xấu hơn vào cuối buổi chiều, Browne viết rằng  trận Ấp Bắc là tiêu biểu cho sự thất bại nặng nề nhất cho những nỗ lực hỗ trợ  của người Mỹ ở miền Nam Việt Nam tới lúc đó. Halberstam và tôi nhanh chóng ra  sân bay nói chuyện với những phi công trở về. Mười bốn trong mười lăm trực thăng  tham gia chiến dịch bị tấn công vởi pháo dưới mặt đất. Năm máy bay bị lạc trong  chiến trường. Ba người Mỹ chết, hai trong số họ là lính không quân và người thứ  ba là trung úy cố vấn bộ binh. Những tổn thất của lính Việt Nam lên tới con số  hàng trăm.


Những bằng chứng về thảm họa càng rõ ràng hơn vào ngày hôm sau  khi Halberstam và tôi biết rằng đối thủ của chúng tôi là Neil Sheehan của hãng  UPI và Nick Turner của Reuters đã tới chiến trường. Chúng tôi thuyết phục Steve  Stibbens của tờ Stars and Stripes đưa chúng tôi ra mặt trận. Chúng tôi nài nỉ  Steve thay bộ lính Hải quân Mỹ bởi vì chính quyền Việt Nam ngăn cản giới phóng  viên đi vào vùng Bắc Đồng bằng sông Cửu Long. Chúng tôi hướng về phía nam qua  Chợ Lớn. Đường tắc dài, ô tô và xe buýt bị kiểm tra an ninh tại các cầu và làng  canh phòng nghiêm ngặt.


Vượt qua Tây An, chúng tôi rẽ phải sang con đường  đồng quê lóc xóc đầy ổ gà dài gần một dặm đường đầy bụi tới làng Tân Hiệp chứng  kiến cảnh hỗn lọan: xe Jeep. Xe tải và trực thăng đang tranh giành khoảng trống  trên con đường nhỏ còn lính thì lại mỉm cười chờ đợi mệnh lệnh tiếp tục hành  quân. Cố vấn cấp cao ngưòi Mỹ của Quân đoàn 4, đại tá Daniel Boone Porter tiết  lộ những gợi ý về những tổn thất đầu tiên. Ông ta giải thích lần đầu tiên Việt  Cộng chủ động đứng lại chiến đấu thay vì chống trả và biến mất trong các vùng  nông thôn. Tiểu đoàn Việt Cộng 514 dày dặn kinh nghiệm chiến đấu dù còn thua kém  nhiều về khả năng tấn công, đã đương đầu chính xác như những gì cố vấn Mỹ dự  đoán. Họ chờ đợi cơ hội được mang pháo đại bác ra chiến trường từ lâu. Nhưng đó  là lực lượng Việt Nam Cộng hòa đã đảo ngược tình huống.


Dave và tôi đi  một trực thăng để quan sát trận chiến. Chúng tôi nhìn thấy xác chết ngổn ngang ở  phía dưới trong bùn, trên cánh đồng và dòng xe bọc thép Việt Nam Cộng hòa đã tới  thôn tăng cường lực lượng và đang trên đường trở lại. Việt Cộng trốn thoát một  cách dễ dàng, để lại sáu mươi lăm lính Cộng hòa chết, một trực thăng bị hạ và  cảm giác bại trận cho các cố vấn quân sự Mỹ.


Sau đó Sheetan lảo đảo bước  ra từ một trực thăng đầy bùn và run rẩy nói rằng anh ta bị pháo binh tấn công  trong khi tới thăm chiến trường. Lính Việt Nam Cộng hòa đã hết hy vọng đến mức  cố vấn Vann đã tập hợp sáu mươi nhân viên cố vấn Mỹ của ông ta gồm cả đầu bếp và  nhân viên văn phòng và gửi họ đi thám thính Việt Cộng. Hầu hết Việt Cộng đã biến  mất.


Ấp Bắc là câu chuyện lớn nhất mà tôi viết trong suốt sáu tháng ở  Việt Nam. Những điểm yếu được phô bày rõ ràng ám ảnh những người lập kế hoạch  quân sự Mỹ hình thành đồng minh trong các cuộc chiến. và câu chuyện cũng nhấn  mạnh sự thông minh của Việt Cộng, một lối đánh du kích thâm hiểm. Trận chiến làm  cho giới báo chí Sài Gòn tin rằng hoặc là do chính quyền không nhận thấy mức độ  đầy đủ của cuộc tấn công hoặc những điều này bị chúng tôi tiết lộ. Sự khác biệt  này trở thành khoảng cách lòng tin và ngày càng lớn hơn sau này.


Top