3. Truyền thuyết về thần Đá (Thạch thần)
Xứ Bắc có rất nhiều nơi thờ thần Đá và gắn liền với nó là các truyền thuyết và sinh hoạt tín ngưỡng dân gian. Theo số liệu thống kê của Trần Đình Luyện trong chuyên khảo Luy Lâu lịch sử và văn hóa(14) có những dạng đá thiêng như sau: Trụ đá Thạch Biểu hay Biểu Nương Phật - vị tướng của Hai Bà Trưng ở thôn Thanh Khương, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh; Hòn đá dấu chân của Thánh Gióng và cột đá dùng để buộc ngựa của Thánh Gióng ở thôn Thượng, xã Vạn Linh, huyện Gia Lương, Bắc Ninh; Bia đá “Lý Gia Linh Thạch” ở xã Tương Giang, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; Cột đá chạm rồng và Bàn cờ đá (bàn cờ tiên) ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ (nay thuộc thành phố Bắc Ninh ); Bàn đá (Điện kính thiên) ở xã Đức Long, huyện Quế Võ, Bắc Ninh; Tảng đá nguyên khối Thần Cao Sơn, tướng của Hùng Vương ở Xã Vân Tương, huyện Việt Yên, Bắc Giang; Tảng đá nguyên khối Thạch Linh thần tướng, tướng của Hùng Vương ở xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, Bắc Giang; tảng đá (gọi là ve đá dựng: Thần Quý Minh tướng của Hùng Vương) ở xã Đại Đồng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh.
Ngoài ra còn có rất nhiều nơi thờ thần đá ở xứ Bắc hiện chưa được đề cập đến, như: Ba pho tượng đá ở chùa Khám, làng Ngọc Khám, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; Ba ông bụt bằng đá thờ ở chùa Bụt Mọc, thôn Sơn Đông, xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc thành phố Bắc Ninh)... Tuy nhiên, trong số các nơi thờ đá, chỉ tồn tại một số truyền thuyết nhất định. Chúng tôi phân chia làm hai dạng truyền thuyết về thần đá như sau:
Dạng 1: Truyền thuyết về thần Đá có nguồn gốc tự nhiên
Truyền thuyết thứ nhất đó là truyền thuyết về “Thạch Quang Phật” được gắn liền với câu chuyện kể về Man Nương. Tương truyền khi toán thợ tạc bốn pho tượng Phật là: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện khi cưa vấp phải hòn đá, cưa bị gãy rời. Toán thợ ném hòn đá ấy xuống sông, đá vừa chạm nước, một luồng hào quang liền phát ra rực rỡ giữa dòng. Sĩ Nhiếp biết chuyện cho tìm hòn đá, nhưng phường đánh cá tìm mãi không thấy đá. Sĩ Nhiếp cho tìm Man Nương đến, mong cậy nhờ người nhiều phép lạ ra tìm. Man Nương bơi thuyền ra sông, nàng vừa khấn dứt lời, hào quang bỗng rực sáng khắp mặt sông. Viên đá vụt nhảy lên khỏi mặt nước rồi rơi vào giữa thuyền. Sau đó hòn đá được thờ là Thạch Phật, nhiều người gọi đó là đức Thạch Quang để ghi nhớ viên đá phát ra ánh sáng chói loà.
Truyền thuyết Thạch Quang Phật kể về nguồn gốc của Phật Pháp có dạng kết cấu CÂY - ĐÁ - PHẬT, với các tình tiết như: Sự ra đời của nhân vật (Phật Thạch Quang ra đời từ thân cây Dung Thụ); Sự hóa thân của nhân vật (sư Khâu Đà La đặt đứa bé vào thân cây, thân cây hóa thành đá, đá hóa thành Phật).
Qua điền dã chúng tôi được người dân làng Mèn kể cho nghe về sự tích Phật Thạch Quang, họ gọi bằng một tên rất gần gũi là Mẫu Nhi rồi phong là Thạch Vương Quang Phật. Trong khi cúng tế người dân kiêng tên huý đọc Thạch Quang là Thạch Cuông (Quông). Bà Nguyễn Thị Quyền 70 tuổi ở thôn Mãn Xá Tây, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh kể rằng: Làng Mãn Xá ban đầu có tên gọi là làng Mèn - quê của Man Nương. Khi Man Nương sinh ra Mẫu Nhi bà bị mang điều tiếng xấu, không chồng mà sinh con. Đến khi bà tu tại thành Phật thì tất cả những điều tiếng xấu được xoá bỏ, từ đấy người dân đã đặt tên làng Mèn là Mãn Xá như một chứng tích nói về sự trong sạch của bà.
Truyền thuyết thứ hai là truyền thuyết về Thạch Tướng Quân. Truyền thuyết về Thạch Tướng Quân có những tình tiết gần gũi với truyền thuyết Thánh Dóng, như nhiều tuổi vẫn chưa biết nói cười, khi thấy xứ giả tìm người hiền tài cứu nước bỗng chuyển mình thành một người cao lớn, xin nhà vua cấp cho vũ khí để giết giặc. Sau khi ra trận giết hết lũ giặc, quay về đến trang Tiên Lát, xuống voi vào lạy chào cha mẹ nuôi rồi lên núi Phượng Hoàng bay lên trời. Dấu tích thờ tự hiện vẫn còn ở Tiên Lát, Việt Yên, Bắc Giang. Nhưng bên cạnh đó cũng có những nét khác biệt, nếu như Thánh Dóng sinh ra do người mẹ ướm phải vết chân lạ, rồi xin nhà vua đúc ngựa sắt, áo giáp sắt, một cây gậy sắt để ra trận thì trong truyền thuyết về Thạch Tướng Quân, Thạch Tướng Quân sinh ra từ đá, khi ra trận xin nhà vua đúc cho các vũ khí bằng đá, như: voi đá, cờ lệnh đá, kiếm đá.
Truyền thuyết thứ ba mang đậm tính chất thần thoại đó là câu chuyện về ông Đổng ở vùng Bắc sông Đuống thuộc thôn Đổng Viên, xã Phù Đổng ngày nay. Ở thôn Đổng Viên có một tảng đá, in hằn dấu chân lớn, tương truyền đó là dấu chân ông Đổng để lại, bà mẹ Gióng ra ướm thử rồi về sinh ra Gióng. Vì thế dân gian gọi ông Gióng là ông Đổng con.
Bản khác kể rằng ông Đổng là sư, tu ở núi Phả Lại. Ông đúc một chiếc chuông đồng đen cực lớn, đánh lên tiếng kêu vang lừng Bắc Quốc, trâu vàng Trung Quốc nghe thấy chạy sang. Lo sợ sẽ có binh đao nên ông Đổng đã đạp đổ cái chuông xuống sông Lục Đầu, chỗ ấy gọi là Vực Chuông.
Ông Đổng là hình tượng người khổng lồ, đây cũng là một motif quen thuộc trong truyện kể dân gian Việt Nam, đặc biệt là trong thần thoại. Hình tượng ông Đổng là một trường hợp độc đáo, bởi nó là một minh chứng sống động phản ánh về một vùng đất cổ, đồng thời biểu hiện dấu ấn tư duy huyền thoại của người dân xứ Bắc.
Dạng 2: Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử có nguồn gốc từ tục thờ thần Đá
Ở dạng này có truyền thuyết về hai nhân vật là Cao Lỗ và Kỳ Nữ Thạch Biểu. Trong truyền thuyết dân gian xứ Bắc, Cao Lỗ cũng được coi là một vị thần đá: “Cao Lỗ là ai? Sử ký của Đỗ Thiện đời Lí dẫn Giao châu ký cho biết Cao Lỗ có “tục hiệu” là Đô Lỗ hoặc rõ hơn là thần Đá (Thạch thần). Tục hiệu là chứng cớ để xác định nguồn gốc và tính chất của thần. Thần Đá nấp sau danh hiệu Hán hoá Cao Lỗ, lù lù cao lớn, rõ ràng vẫn là đá lù lù đẹp đẽ (đô lỗ), không mất tính chất chỉ nội dung bản địa của Thần. Rồi đến khi người ta bớt lưu ý đến hình dạng tính chất nguyên thuỷ của Thần thì tước phong các năm 1285, 1288 để chỉ nội dung đức tính gắn cho Thần cũng vẫn vướng víu ý nghĩa đá: cứng cỏi (quả nghị), cứng thẳng (cương chính)”(15).
Căn cứ theo văn bản truyện kể của Truyện cổ xứ Bắc(16) thì truyền thuyết về Cao Lỗ đã kể về nhân vật Anh hùng chống giặc ngoại xâm, với các tình tiết cơ bản như: Nhân vật sinh nở thần kỳ (Bà mẹ nằm mơ thấy rắn trắng quấn vào người rồi có mang, sinh ra Cao Lỗ). Nhân vật lập chiến công (Giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa; chế tác ra lẫy nỏ; đánh thắng giặc). Nhân vật hoá thân và được tôn vinh, (Tướng Cao Lỗ chống giặc ngoại xâm và tổ nghề lẫy nỏ “Ông Nỏ”). Nhân vật được thờ tự (Dân làng Tiểu Than, Đại Than, Văn Than, Bình Than, Phù Than, Mỹ Lộc, Kênh Phố thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh lập đền thờ, tục gọi là đền Than). Ngoài ra ở Cổ Loa cũng có ngôi đền thờ Cao Lỗ. Kiêng kỵ (Người dân vùng Đại Than, kiêng tiếng Lỗ gọi là Lọt).
Bản kể trong cuốn Danh nhân lịch sử Kinh Bắc(17) lại kể rằng: Sau khi đánh thắng quân giặc, Cao Lỗ khuyên can An Dương Vương không nên để Trọng Thuỷ sang ở rể, nhưng vua không nghe, ông bèn về quê và mất ở đó trong cuộc chiến đấu chống quân Triệu Đà.
Gắn liền với các truyền thuyết là các di tích, các lễ hội và tín ngưỡng dân gian được người dân tiến hành để tưởng nhớ đến các vị thần đã có công cứu dân, cứu nước, đồng thời cầu mong những điều tốt đẹp sẽ đến với dân làng. Lễ hội và tín ngưỡng về Cao Lỗ cũng không ngoại lệ. Theo người dân làng Tiểu Than ngày 4 tháng tư Âm lịch là ngày Cao Lỗ bị An Dương Vương sai võ sĩ đem đi giết, ngày 10 tháng ba Âm lịch là ngày sinh của Cao Lỗ. Ngày sinh và ngày mất của ông được lấy là ngày tổ chức lễ hội tưởng niệm Cao Lỗ ở đình và đền.
Trong lễ hội tưởng nhớ Cao Lỗ thường có những tục hèm, làng Tiểu Than có trò Rồng rắn(18), trò diễn này có nhiều điểm giống với trò Rồng lột trong lễ tục thờ Lạc Long Quân ở làng Ngọc Xuyên. Đến ngày giã đám làng Tiểu Than còn có trò Đuổi bệt, tục còn gọi là trò Đuổi hổ(19). Các trò diễn dân gian này nhằm diễn lại sự tích về lúc sinh ra và lúc mất đi của nhân vật Cao Lỗ, đây chính là hai thời khắc quan trọng nhất trong cuộc đời của ông.
Truyền thuyết thứ hai là truyền thuyết về Kỳ Nữ Thạch Biểu. Nếu như tục hiệu chính là chứng cớ để xác định nguồn gốc và tính chất của thần, thì ta có thể xác định Kỳ Nữ Thạch Biểu là một vị thần Đá, truyền rằng: Nàng là nữ tướng Hai Bà Trưng, là người tài sắc, múa hay, hát giỏi. Thạch Biểu liên lạc với quân Hai Bà Trưng bàn cách đánh thành. Gánh hát của nàng vào thành phục vụ, dò la kho quân lương, vũ khí và cách bố trí của địch. Gánh hát phóng hoả cho đốt kho lương thực, kho đạn. Quân Hai Bà Trưng tràn vào đánh đuổi Tô Định.
Truyền thuyết Kỳ Nữ Thạch Biểu kể về nhân vật Anh hùng chống giặc ngoại xâm, với chiến công giúp Hai Bà Trưng đánh thắng giặc ngoại xâm. Truyền thuyết này được gắn với dấu tích thờ cúng hiện nay là hòn đá hình người được thờ tại làng Thanh Tương, Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Trong quá trình điền dã để tìm hiểu về tín ngưỡng và cách thức tôn thờ Kỳ Nữ Thạch Biểu, chúng tôi nhận thấy người dân nơi đây không còn nhớ sự tích về bà. Nhưng hiện vẫn còn tục thờ bà ở đền thôn Thanh Tương, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ngôi đền nhỏ mới được xây dựng lại, trong đền có đôi câu đối:
Quốc sắc khuynh thành thiên hạ hữu
Anh linh thần nữ thế gian vô.
Theo lời kể của ông Trần Bá Uy 71 tuổi và ông Trần Bá Diễn 69 tuổi ở thôn Thanh Tương, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh: Hàng năm trong những ngày hội diễn ra rước và tế lễ Kỳ Nữ Thạch Biểu. Ngày 30 tháng Chạp rước tượng bà (bằng gỗ) từ đền ra đình làng, ngôi đình này thờ Sĩ Vương khi đọc kiêng tên huý thành Sỡi Vương. Đến ngày 11 tháng 1 dã đám thì rước về.
Thờ thần Đá là một hiện tượng phổ biến ở Việt Nam và trên thế giới, tuy nhiên ở xứ Bắc tục thờ thần Đá gắn liền với các truyền thuyết, câu chuyện về những nhân vật vừa hoang đường lại vừa gần gũi với người dân. Rồi ban đầu từ tục thờ thần Đá lại được bồi đắp thêm những lớp văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo và cả yếu tố lịch sử sau này tạo ra một hệ thống các lớp văn hoá có chiều sâu và các cấp độ khác nhau. Qua trình bày truyền thuyết về các nhân vật được thờ là thần Đá ở xứ Bắc cho thấy các nhân vật này được biểu hiện dưới dạng tôn giáo hoá (Phật hoá) và biểu hiện dưới dạng lịch sử hoá trở thành các anh hùng chống giặc ngoại xâm.
Kết luận
Quá trình khảo sát truyền thuyết xứ Bắc về các nhân vật được thờ, chúng tôi nhận thấy có hai dạng nhân vật thần tự nhiên: Một là những nhân vật có nguồn gốc tự nhiên, hai là những nhân vật có nguồn gốc nửa tự nhiên nửa lịch sử hóa. Những nhân vật có nguồn gốc là thần tự nhiên chiếm số lượng không nhiều, biểu hiện niềm tin của người dân theo quan niệm cổ xưa Vạn vật hữu linh (Các vật đều có linh hồn). Còn các nhân vật nửa tự nhiên nửa lịch sử hóa được thờ khá phổ biến, qua các chứng tích còn lưu lại cho thấy nguồn gốc ban đầu của các nhân vật này đều là các vị thần tự nhiên, càng về sau này trải qua nhiều triều đại, các lớp văn hoá mới được bồi đắp và phát triển lên làm cho các vị thần tự nhiên mang dáng dấp các vị nhân thần. Quá trình nhân hóa các vị thần tự nhiên là dấu tích của sự vận động trong việc hình thành hệ nhân thần, đó là biểu hiện của sự tự khám phá và ý thức về mình của con người.
Truyền thuyết xứ Bắc về các nhân vật thần tự nhiên phản ánh quá trình truyền thuyết hóa thần thoại. Các thần thoại ban đầu kể về những hiện tượng tự nhiên nhằm giải thích nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc loài người và mơ ước sống hòa hợp với tự nhiên, đó là trí tưởng tượng về vũ trụ quan được gắn với các vị thần linh. Nhưng về sau này thần thoại trở nên gần gũi với cuộc sống của người dân hơn, thần thoại được truyền thuyết hóa rất mạnh mẽ, không còn giữ được nguyên dạng ban đầu. Rất nhiều các vị thần trong thần thoại đã đi vào truyền thuyết với tư cách là những nhân vật lịch sử, trở thành tổ tiên của dân tộc hoặc cũng có thể là những vị tướng lĩnh chống giặc, những anh hùng sáng tạo văn hóa… Các truyền thuyết này biểu hiện sự biến chuyển từ tư duy huyền thoại đến tư duy tôn giáo, từ thần thoại đến truyền thuyết. Điều này do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là việc ghi chép lại thần tích của các triều đại, dẫn đến việc lịch sử hoá các vị thần tự nhiên thành những nhân vật lịch sử, hoặc gắn với các nhân vật lịch sử những bản tính của thần. Khi đã được truyền thuyết hóa thì các nhân vật thần thoại trở nên có một lý lịch rõ ràng hơn, mang đậm dấu ấn của truyền thuyết, thường có dạng kết cấu: Sinh nở thần kỳ, chiến công phi thường và hóa thân kỳ ảo
____________
(1) Nguyễn Văn Huyên: Góp phần tìm hiểu văn hoá Việt Nam, Tập I. Nxb. Khoa học xã hội, H, 2003, tr.715.
(2) Xin xem Nguyễn Huy Bỉnh: Truyền thuyết về Thủy thần ở Thuận Thành, Bắc Ninh, in trong Thông báo Văn hóa dân gian. Nxb. Khoa học xã hội, H, 2004, tr.431.
(3) Nhiều tác giả: Di sản văn hóa Bắc Giang về văn hóa phi vật thể. Bảo tàng Bắc Giang xuất bản, 2006, tr.721.
(4) Nguyễn Đổng Chi: Kho tàng cổ tích Việt Nam (5 tập), in lần hai. Viện Văn học xuất bản, H, 1993.
(5) Xin xem Nguyễn Duy Hợp, Vũ Hữu: Dấu thiêng Dâu – Luy Lâu. Nxb. Thanh Niên, H, 2008, tr.8.
(6) Xin xem Địa chí Hà Bắc. Ty Văn hoá và thông tin Hà Bắc xuất bản 1982, tr.629.
(7) Xin xem: Phân tâm học và văn hoá tâm linh trong đề mục Sự trở lại ấu thơ của tục tôtem (Đoàn Văn Chúc dịch). Nxb. Văn hoá - Thông tin, H, 2004.
(8) Đặng Văn Lung, Nguyễn Thị Huế, Trần Gia Linh (biên soạn): Văn hoá Luy Lâu và Kinh Dương Vương. Nxb. Hội nhà văn, H, 1998, tr.147.
(9) Tạ Chí Đại Trường: Thần người và đất Việt. Nxb. Văn hoá - Thông tin, H, 2006, tr.47-48.
(10) Theo quan niệm của những người dân vùng sông nước xứ Bắc trước kia, cụ thể là những dân chài ven vùng sông Đuống, tất cả những người bị rơi xuống sông và chết đuối có thể coi là do Thuỷ thần bắt đi. Chính vì thế, nếu không phải là người ruột thịt trong gia đình thì không ai trong số những người đang sống lại dám cứu vớt người gặp nạn. Vì nếu cứu người gặp nạn thì bản thân người cứu ấy sẽ gặp hoạ như vậy, tức là phải đền mạng cho Thuỷ thần. Sau này, khi qua sông nếu có sóng nước dữ dội, người ta thường thả những con vật, hoặc những đồ vật xuống sông nhằm hiến cho Thuỷ thần thay cho phải hiến mạng người. Bên cạnh đó, trong các đền, đình thờ Thuỷ thần người ta thường làm những đồ tế lễ để dâng hiến lên các vị Thuỷ thần.
(11) Jean Chevalier, Alain Gheerbrant: Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới (Phạm Vĩnh Cư chủ biên dịch). Nxb. Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du, 1997, tr.699.
(12) Nguyễn Duy Hinh: Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội, H, 1996, tr.107.
(13) Ngô Đức Thịnh (Chủ biên): Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội, H, 2001, tr.98.
(14) Trần Đình Luyện: Luy Lâu lịch sử và văn hoá. Sở Văn hoá - Thông tin Bắc Ninh xuất bản, H, 1999.
(15) Tạ Chí Đại Trường: Thần người và đất Việt. Sđd, tr.32
(16) Nhiều tác giả: Truyện cổ xứ Bắc. Bảo tàng Hà Bắc xuất bản 1990.
(17) Trần Quốc Thịnh: Danh nhân lịch sử Kinh Bắc, Nxb. Lao động, H, 2004.
(18) Tục chơi này chỉ có nam thanh niên làng tham gia, riêng người đội đầu rồng là thanh nữ được hoá trang đơn giản, chân quấn xà cạp, mặc áo xanh hoặc đỏ, đầu quấn khăn đầu rìu, ngang lưng thắt bao tượng, để thừa đầu bao dài để người nọ túm vào đầu kia, đoàn người chơi rồng rắn, người này túm vào bao trượng người kia, kéo từ chùa lên đình, đi liền vào trong hậu cung 3 vòng và kéo ra sân. Truyền rằng trò chơi rồng rắn để diễn lại sự tích bà Đỗ Thị nằm mơ thấy rắn cuốn quanh giường, rồi có thai sinh ra Cao Lỗ.
(19) Trò diễn ra như sau: Người dân đặt một cái bàn trước nhang án được quây màn, tượng trưng đó là quán rượu, trong màn là một người đóng đang uống rượu giả say như ở quán, bên ngoài là hai cháu, một trai ở bên tả, một gái ở bên hữu, giữa là một quan viên, cầm sách đọc văn dạy hai cháu nhắc lại theo từng đoạn nhịp, hết mỗi đoạn nhịp lại quay ba vòng, tay che quạt trên đầu. Sau khi đọc xong, chú cùng hai cháu cầm gậy ra đuổi hổ. Người đóng hổ là một thanh niên đội lốt hổ, đầu hổ được làm đơn giản, thường người ta lấy một chiếc khau tát nước bồi giấy vào và vẽ hình đầu hổ. Người đội lốt hổ ngồi lấp ở phía ngoài đầu đình, có cành cây che kín. Khi ba chú cháu cầm gậy ra, người và hổ đuổi đánh nhau 3 vòng xung quanh đình, đến khi hổ mệt bỏ chạy ra mả mò than (tức miếu Dựng) chú cháu đuổi theo lấy được lốt hổ, đem đốt tượng trưng như đã giết được hổ, giành lại xác Cao Lỗ cho dân làng an táng.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4-2009