Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Truyện dài
Truyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 181924" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 18px"><strong> Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc:<span style="font-size: 18px"><strong>Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ</strong></span></strong></span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Chương 2: Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu</strong></span></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>[ATTACH=full]3349[/ATTACH]</strong></span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Từ Đạt ở Khoái Châu, (1) lên làm quan tại thành Đông Quan (2) thuê nhà ở cạnh cầu Đồng Xuân, láng giềng với nhà quan Thiêm thư là Phùng Lập Ngôn. Phùng giầu mà Từ nghèo; Phùng xa hoa mà Từ tiết kiệm; Phùng chuộng dễ dãi mà Từ thì giữ lễ. Lề thói hai nhà đại khái không giống nhau. Song cũng lấy nghĩa mà chơi bỡi đi lại với nhau rất thân, coi nhau như anh em vậy.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Phùng có người con trai là Trọng Quỳ, Từ có người con gái là Nhị Khanh, gái sắc trai tài, tuổi cũng suýt soát. Hai người thường gặp nhau trong những bữa tiệc, mến vì tài, yêu vì sắc, cũng có ý muốn kết duyên Châu Trần. (3) Cha mẹ đôi bên cũng vui lòng ưng cho, nhân chọn ngày mối lái, định kỳ cưới hỏi.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau khi về nhà họ Phùng, khéo biết cư xử với họ hàng, rất hòa mục và thờ chồng rất cung thuận, người ta đều khen là người nội trợ hiền.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trọng Quỳ lớn lên, dần sinh ra chơi bời lêu lổng; Nhị Khanh thường vẫn phải can ngăn. Chàng tuy không nghe nhưng cũng rất kính trọng. Năm chàng 20 tuổi, nhờ phụ ấm được bổ làm một chức ở phủ Kiến Hưng. Gặp khi vùng Nghệ An có giặc, triều đình xuống chiếu kén một viên quan giỏi bổ vào cai trị. Đình thần ghép Lập Ngôn tính hay nói thẳng, ý muốn làm hại, bèn hùa nhau tiến cử. Khi sắc đi phó nhậm, Phùng Lập Ngôn bảo Nhị Khanh rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Đường sá xa xăm, ta không muốn đem đàn bà con gái đi theo, vậy con nên tạm ở quê nhà. Đợi khi sông bằng nước phẳng, vợ chồng con cái sẽ lại cùng nhau tương kiến.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trọng Quỳ thấy Nhị Khanh không đi, có ý quyến luyến không rứt. Nhị Khanh ngăn bảo rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Nay nghiêm đường vì tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bên trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng bận lòng đến chốn hương khuê.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sinh không đừng được, mới bày một bữa tiệc từ biệt, rồi cùng Lập Ngôn đem người nhà đi vào phương nam.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Không ngờ lòng giời khó hiểu, việc người khôn lường, cha mẹ Nhị Khanh nối nhau tạ thế. Nàng đưa tang về Khoái Châu, chôn cất cúng tế xong rồi, đến cùng ở chung với bà cô Lưu thị.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bấy giờ có quan tướng quân họ Bạch là cháu họ ngoại của bà Lưu thị muốn lấy Nhị Khanh làm vợ, đem tiền bạc đến khẩn cầu. Lưu thị bằng lòng, rồi nhân lúc vắng vẻ, bảo Nhị Khanh rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Nhà nước từ ngày họ Nhuận Hồ tiếm vị, ngày tháng hoang chơi, triều chính đổ nát, họa loạn sẽ xảy ra chỉ trong sớm tối; mà Phùng lang từ ngày ra đi, thấm thoắt đã sáu năm nay, tin tức không thông, mất còn chẳng rõ. Lỡ ra gặp lúc rồng tranh hổ chọi, phải khi bướm dại ong cuồng, Tra Lợi mắc vào tay (4), áp Nha không sẵn mặt (5), chỉ e Chương Đài tơ liễu, (6) trôi bay đi đến tận phương nào. Chi bằng bạn lành kén lựa, duyên mới vương xe, lấp những lời giăng gió cợt trêu, nương dưới bóng tùng quân cao cả. Tội gì mà bơ vơ trơ trọi, sống cái đời sương phụ buồn tênh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhị Khanh nghe nói sợ hãi, mất ngủ quên ăn đến hàng tháng. Lưu thị tuy biết chí nàng không chuyển động, nhưng cố định lấy lễ nghi để cưỡng ép, hôn kỳ đã rắp sẵn sàng.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhị Khanh một hôm bảo người bõ già rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Chú là người đầy tớ cũ của nhà ta, há không nghĩ đến sự đền đáp ơn đức của người xưa ư?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bõ già nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Tùy ý mợ muốn sai bảo gì tôi xin hết lòng.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhị Khanh nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Ta sở dĩ nhịn nhục mà sống là vì nghĩ Phùng lang hãy còn; nếu chàng không còn thì ta đã liều mình chứ quyết không mặc áo xiêm của chồng để đi làm đẹp với người khác. Chú có thể vì ta chịu khó lặn lội vào xứ Nghệ hỏi thăm tin tức cho ta không?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Người bõ già vâng lời ra đi. Bấy giờ binh lửa rối ren, đường sá hiểm trở, hắn phải lận đận đến hàng tuần mới vào được đến Nghệ An. Hắn đi hỏi thăm, biết tin Phùng Lập Ngôn đã mất được mấy năm rồi, lại vì con trai hư, nên gia tư đã sạch sành sanh, đáng phàn nàn quá!</span></p><p><span style="font-size: 18px">Người bõ già ghé thuyền lên bờ, vừa vào trong chợ liền gặp ngay Phùng Sinh. Sinh đưa về chỗ ở thì thấy một chiếc giường xiêu, bốn bề vách trống, trừ có mấy thứ như bàn cờ, hũ rượu, chim mồi, chó săn, không còn cái gì đáng giá. Sinh bảo người bõ già rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">-Quan nhà không may, thất lộc đã bốn năm nay rồi. Ta vì binh qua nghẽn trở, muốn về không được. Tuy ở chốn quê người đất khách, nhưng hồn mộng không đêm nào không ở bên mình Nhị Khanh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bèn chọn ngày lên đường về quê. Đến nhà, vợ chồng cũng trông nhau mà khóc. Đêm hôm ấy buồng loan chung gối, Sinh ngâm một bài thơ rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">ức tích bình sinh nhật,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tăng hài khế hợp nhân</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cảm quân tình thái hậu</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiếu ngã mệnh chung truân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Biệt quệ phân huề tảo,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trường đình khuyến ẩm tần.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Y y sầu lĩnh kiệu,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhiễu nhiễu cách phong trần.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cộng ước nhân thiên lý,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tương vương nguyệt bán luân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Xâm tầm nhàn lục tải,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Linh tạ trướng song thân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phạ thụy Hoành sơn hiểu</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hành ca Diễn thủy tân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đăng lâu Vương Xán lệ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Xách cú Đỗ Lăng cân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trúc thạch nan y tục</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cầm tôn bất liệu bần.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tha hương lao ký mục,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cố quốc trọng thương thần.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phóng lãng phi ngô sự,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Yêm lưu bệnh thử thân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ninh tri Bồng Đảo khách,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dao dạt Cẩm Giang lân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thái Thạch trùng di trạo,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hoàng Cô lưỡng vấn tân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Kỷ niên Vu Giáp mộng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhất đán Vũ Lăng xuân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hồ điệp giao tình cựu,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Uyên ương biến thái tân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Khinh huyên Đường Quắc quốc,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mỹ mạn Tống Đông lân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lục ám oanh thanh sáp,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hồng hy yến tử sân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hiệp du kim Đỗ Mục,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Kỳ ngộ cổ Lưu Thần.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngàm vịnh liêu tùy hứng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phong lưu khẳng nhượng nhân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hội ưng truyền thắng sự,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mệnh bút ký Chu Tần.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhớ từ năm hãy ngây thơ</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đôi ta sớm đã xe dây Tấn Tần</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tình em thắm đượm vô ngần</span></p><p><span style="font-size: 18px">Số anh riêng lắm gian truân cũng kỳ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chia tay một sớm ra đi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trường đình chén rượu phân ly rước mời.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sầu treo đỉnh núi chơi vơi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mịt mù gió bụi cách vời xa xăm.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bắc Nam nghìn dặm âm thầm,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trăng cài nửa mảnh đăm đăm bên trời.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sáu năm vùn vụt đưa thoi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thông già huyên héo ngậm ngùi nhớ thương.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Từng khi ngủ dưới Đèo Ngang,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Từng khi bến Diễn (7) ngâm vang điệu sầu.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lệ tuôn, Vương Xán lên lầu, (8)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sầu ôm, Đỗ Phủ ngâm câu cảm hoài, (9)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Rượu đàn trúc đá ham chơi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Càng nghèo càng cảm thấy đời bê tha.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mắt mòn trông ngóng quê nhà,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lòng đau nghĩ nỗi phương xa lạc loài.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Người mà đến thế thì thôi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đời phiên lãng chỉ là đời bỏ đi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hay đâu tin đến bất kỳ, (10)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Người tiên còn vẫn yêu vì chưa thôi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bến tiên khách lại trùng lai,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mộng say Đỉnh Giáp, xuân tươi Nguồn Đào. (11)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Uyên bơi bướm giỡn xôn xao,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vẻ nào chẳng đượm, nét vào chẳng ưa!</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đầy vườn lục rậm hồng thưa,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Con oanh cái én ơ hờ nhớ xuân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Duyên may Đỗ Mục, Lưu Thần,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thú Phong Lưu dễ nhượng phần cho ai.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Việc nên truyền lại lâu dài,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bút hoa mượn thảo mấy lời vân vân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hai người vì xa cách nhau lâu, nên nay tình ái bội phần nồng đượm, sự vui sướng không còn phải nói.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Song sinh vì quen thân phóng lãng, thuộc tính chơi bời, về nhà ít lâu rồi nết cũ lại đâu đóng đấy, hằng ngày cùng người lái buôn là Đỗ Tam bê tha lêu lổng. Sinh thì thích Đỗ có tiền nhiều. Đỗ thì ham Sinh có vợ đẹp. Nhưng khi uống rượu với nhau rồi đánh bạc, Đỗ thường lấy lợi dử Sinh. Sinh đánh lần nào cũng được, thấy kiếm tiền dễ như thò tay vào túi mình lấy đồ vật vậy. Nhị Khanh vẫn răn bảo rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Những người lái buôn phần nhiều là giảo quyệt, đừng nên chơi thân với họ; ban đầu tuy họ thả cho mình được, nhưng rồi họ sẽ vét hết của mình cho mà xem.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sinh không nghe. Một hôm Sinh cùng các bè bạn họp nhau đánh tứ sắc. Đỗ bỏ ra trăm vạn đồng tiền để đánh và đòi Sinh đánh bằng Nhị Khanh. Trọng Quỳ quen mui vẫn được luôn, chẳng suy nghĩ gì, liền bằng lòng cách ấy. Giấy giao kèo viết xong rồi vừa uống rượu vừa gieo quân. Trọng Quỳ gieo ba lần đều thua cả ba, sắc mặt tái mét; cử tọa cũng đều ngơ ngác buồn rầu hộ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trọng Quỳ phải cho gọi Nhị Khanh đến, bảo rõ thực tình, đưa tờ giao kèo cho xem và yên ủi rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Tôi vì nỗi nghèo nó bó buộc, để lụy đến nàng. Việc đã đến thế này, hối lại cũng không kịp nữa. Thôi thì bi hoan tán tụ cũng là việc thường của người ta. Nàng nên tạm về với người mới, khéo chiều chuộng hắn, rồi bất nhật tôi sẽ đem tiền đến chuộc.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nàng liệu cơ không thể thoát khỏi, giả vờ nói tử tế rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Bỏ nghèo theo giầu, thiếp lẽ đâu từ chối. Số giời xếp đặt, há chẳng là tiền định hay sao! Nếu chồng mới không nỡ rẻ bỏ, còn đoái thu đến cái dong nhan tàn tạ này, thiếp xin sửa túi nâng khăn, hết lòng hầu hạ như đã đối với chàng xưa nay. Nhưng xin cho uống một chén rượu, mượn làm một chén tiễn biệt và cho về từ giã các con một chút.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đỗ cả mừng, rót đầy một chén xà cừ rượu đưa mời nàng uống. Uống xong, nàng về nhà ôm lấy hai con, vỗ vào lưng mà bảo rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Cha con bạc tình, mẹ đau buồn lắm. Biệt ly là việc thường thiên hạ, một cái chết với mẹ có khó khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con mà thôi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nói xong, lấy đoạn dây tơ thắt cổ mà chết.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đỗ thấy mãi nàng không đến, lấy làm lạ, sai người đến giục, té ra nàng đã chết rồi. Trọng Quỳ hối hận vô cùng, sắm đồ liệm táng tử tế rồi làm một bài văn tế rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hỡi ơi nương tử!</span></p><p><span style="font-size: 18px">Khuê nghi đáng bậc,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hiền đức vẹn mười.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tinh thần nhã đạm,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dáng điệu xinh tươi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Khi về với ta,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vợ chồng thân thiết.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ai biết giữa đường,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phút nên ly biệt.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cha làm quan xa,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ta theo hầu hạ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trải sáu năm dư,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bặt tin nhạn cá.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Buồng xuân trướng lạnh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hạc oán vượn sầu.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Than ôi đường trước,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Gieo neo đến đâu!</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bên giời góc bể,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nệm khách lẻ loi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tin nhà chợt đến,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngựa về quất roi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sắt cầm dìu dặt,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lại gắn keo loan.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vừa vui sum họp,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phút bỗng lìa tan.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ta sao bạc quá!</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nàng đáng thương thay!</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nói năng gì nữa,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đã đến nỗi này.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hoa bay trước viện,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Quế rụng giữa trời.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phù dung ủ rũ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dương liễu tả tơi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phong cảnh còn đây,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Người đã xa chơi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lấy gì độ em?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Một lễ lên chùa.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lấy gì khuây em?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Duyên sau đền bù.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Non mòn bể cạn,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mối hận khôn khuây.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hỡi ôi nương tử,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hâm hưởng lễ này. (13)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trọng Quỳ đã góa vợ, rất ăn năn tội lỗi của mình, song sinh kế ngày một cùng quẫn, ăn bữa sớm lo bữa tối, phải đi vay quanh của mọi người làng xóm. Nhân nghĩ có một người bạn cũ, hiện làm quan ở Quy Hóa, (14) bèn tìm đến để mong nhờ vả. Dọc đường buồn ngủ, chàng nằm ghé xuống ngủ ở gốc cây bàng, bỗng nghe trên không có tiếng gọi rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">"Có phải Phùng lang đấy không? Nếu còn nghĩ đến tình xưa thì ngày ấy tháng ấy xin đến chờ thiếp ở cửa đền Trưng Vương (15). Ân tình thiết tha, đừng coi là âm dương cách trở".</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sinh lấy làm lạ tiếng giống như tiếng Nhị Khanh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy trên trời một đám mây đen bay về tây bắc. Sinh tuy rất lấy làm ngờ nhưng cũng muốn thử xem ra sao, bèn đúng hẹn đến trước đền ấy. Song đến nơi chỉ thấy bóng tà rọi cửa, rêu biếc đầy sân, năm ba tiếng quạ kêu ở trên cành cây xao xác. Sinh buồn rầu toan về thì mặt trời đã lặn, bèn ngả mình nằm ở một tấm ván nát trên một cái cầu. Khoảng cuối canh ba, bỗng nghe thấy tiếng khóc nức nở từ xa rồi gần; khi thấy tiếng khóc chỉ còn cách mình độ nửa trượng, nhìn kỹ thì người khóc chính là Nhị Khanh. Nàng bảo với Sinh rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Đa tạ ơn chàng, từ xa lặn lội tới đây, biết lấy gì để tặng chàng được!</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trọng Quỳ chỉ tự nhận tội lỗi của mình; nhân hỏi đầu đuôi, Nhị Khanh nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Thiếp sau khi mất đi, Thượng đế thương là oan uổng bèn ra ân chỉ, hiện thiếp được lệ thuộc vào tòa đền này, coi giữ về những sớ văn tấu đối, không lúc nào nhàn rỗi để thăm nhau được. Bữa nọ nhân đi làm mưa, chợt trông thấy chàng nên mới gọi; nếu không thì nghìn thu dằng dặc, chẳng biết đến bao giờ được gặp gỡ nhau.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trọng Quỳ nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Sao em đến chậm thế!</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhị Khanh nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Vừa rồi thiếp nhân theo xe mây, lên có việc ở nơi Đế sở. Vì cớ có chàng nên thiếp đã phải bẩm xin về trước đấy; thành ra cũng sai hẹn với chàng một chút.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bèn dắt tay nhau đi nằm, cùng nhau chuyện trò thủ thỉ. Khi nói đến việc hiện thời, Nhị Khanh chau mày:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Thiếp thường theo chầu tả hữu Đức Bà ở đây, được trộm nghe chư tiên nói chuyện với nhau, bảo Hồ triều sẽ hết vào năm Binh tuất, (16) binh cách nổi lớn, số người bị giết tróc đến chừng hơn 20 vạn, ấy là chưa kể số bị bắt cướp đi. Nếu không phải người giồng cây đức đã sâu thì chỉ e ngọc đá đều bị cháy cả. Bấy giờ có một vị chân nhân họ Lê, từ miền tây nam xuất hiện; chàng nên khuyên hai con bền chí đi theo vị ấy, thiếp dù chết cũng không nát.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trời gần sáng, Nhị Khanh vội dậy để cáo biệt, vừa đi vừa ngoảnh đầu nhìn lại, rồi thoắt chốc thì biến đi mất.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trọng Quỳ bèn không lấy ai nữa, chăm chỉ nuôi hai con cho nên người. Đến khi vua Lê Thái Tổ tuốt gươm đứng dậy ở Lam Sơn, hai người con trai đều đi theo, trải làm đến chức Nhập thị nội. Đến nay ở Khoái Châu hiện còn con cháu.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Lời bình:</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Than ôi, người con gái có ba đạo theo, theo chồng là một. Nàng Nhị Khanh chết, có quả là đã theo chồng không? Thưa rằng không. Đời xưa bảo theo, là theo chính nghĩa chứ không theo tà dục. Chết hợp với nghĩa, có hại gì cho cái đạo theo. Theo nghĩa tức là theo chồng đó. Có người vợ như thế mà để cho phải hàm oan. Trọng Quỳ thật là tuồng chó lợn. Muốn tề được nhà, phải trước tự sửa mình lấy chính, khiến cho không thẹn với vợ con, ấy là không thẹn với trời đất.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Chú thích</strong>:</span></p><p><span style="font-size: 18px">(1) Khoái Châu: tên huyện, nay thuộc tỉnh Hưng Yên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(2) Đông Quan: tên gọi Thăng Long dưới thời thuộc Minh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(3) Duyên Châu Trần: Trung Quốc thời cổ ở huyện Phong thuộc Từ Châu có thôn Châu Trần. Trong thôn chỉ có hai họ Châu Trần đời đời kết hôn với nhau, vì thế trong văn chương Châu Trần thành điển cố để nói về chuyện hôn nhân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(4) Tra lợi: Hàn Hoành có tài thị phú, làm quan dưới thời vua Đức Tông nhà Đường. Thủa hàn vi có người hiệp sĩ là Lý Sinh đem vợ lẽ yêu và đẹp là Liễu Thị tặng cho, lại giúp cho một số tiền lớn. Sau gặp loạn vợ chồng mỗi người mỗi nơi, Liễu Thị giữ tiết với chồng cắt tóc đi tu ở chùa Pháp Linh. Khi hết loạn, Hoành thuê người đi tìm, có bài thơ rằng: "Chương đài liễu! Tích nhật thanh thanh Kim tại Phủ? Túng sử trường điền tự cựu thùy, Dã ưng phan thiết tha nhân thủ! Nghĩa là: Chương đài liễu xanh xanh ngày trước, Nay còn chăng tha thướt ỏe oai? Ví còn tha thướt cành dài, Bẻ vin chắc đã tay ai khỏi nào! Liễu được thơ cũng làm một bài đáp lại. Nhưng khi Hàn về thì Liễu đã bị tướng Phiên là Sa Tra Lợi bắt đi. Hiệp khách Hứa Tuấn thương Hoành đột nhập vào phủ tướng Phiên cướp được Liễu Thị đem về trả cho Hoành. Hai người lại được đoàn viên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(5) Đời Đường, Lưu Vô Song là vợ chưa cưới của Vương Tiên Khách. Gặp loạn, nàng bị bắt vào cung. Tiên Khách nhờ được nghĩa sĩ Cổ áp Nha dùng kế đưa thuốc vào cho Vô Song. Uống xong nàng chết. áp Nha giả làm người thân xin chuộc xác nàng mang ra. Đến ngoài, thuốc nhạt, nàng tỉnh lại, vợ chồng đưa nhau đi trốn rồi ở với nhau đến già.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(6) Xem chú thích (4) cùng chuyện.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(7) Bến Diễn: có lẽ là một bến sông thuộc Nghệ An.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(8) Vương Xán: tên tự là Trọng Tuyên, người thời Tam quốc, chạy loạn Đổng Trác, nương náu tại nhà Lưu Biển chốn Kinh Châu; Xán thường lên lầu làm bài phú để tỏ nỗi nhớ nhà.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(9) Đỗ Phủ (712-770): hiệu là Thiếu Lăng, là một nhà thơ lớn đời Đường, có Đỗ Lăng tập.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(10) Từ câu này đến cuối bài thơ dịch giả tóm tắt, cốt giữ ý và thần câu thơ, không dịch sát nguyên văn. Vì thấy tứ thơ vẫn được giữ đầy đủ nên chúng tôi không hiệu chỉnh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(11) Đỉnh giáp: Tức Vu Giáp, theo bài Cao đường phú của Tống Ngọc, giữa đầm Vân Mộng có quán Cao Đường. Tại đây Sở Hoài Vương ngủ ngày chiêm bao thấy thần nữ đến hầu chăn gối. Hỏi thì nàng nói là thần nữ núi Vu Sơn, sớm làm mây tối làm mưa ở chốn Dương Đài. Sau trong văn học, Vu Sơn, Vu Giáp, Cao Đường thường dùng làm điển để biểu đạt chuyện chăn gối ái ân trai gái.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nguồn đào: Theo Đào hoa nguyên ký của Đào Tiền thì có người đánh cá ở Vũ Lăng theo suối lạc vào rừng đào. ở đấy chàng gặp một thôn xóm thanh bình, hỏi thì được biết họ là những người lánh nạn nhà Tần vào trú ngụ. Nguồn đào đây chỉ xóm tiên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(12) Đỗ Mục: xem chú thích (23), Câu chuyện ở đền Hạng Vương. Lưu Thần: Lưu Thần và Nguyễn Triệu người đời Hán, khoảng đầu công nguyên vào núi hái thuốc, lạc đến động tiên, được kết duyên cùng tiên nữ. Được nửa năm, hai người nhớ nhà đòi về. Nhưng đến nhà thì không còn ai quen biết, đã qua bảy đời từ khi hai chàng ra đi. Hai chàng buồn rầu muốn trở lại cõi tiên nhưng không tìm thấy lối cũ đâu nữa.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(13) Bài này lược phần phiên âm.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(14) Quy Hóa: nguyên chú "thuộc xứ Hưng Hóa", nay thuộc tỉnh Phú Thọ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(15) Đền Trưng Vương: nguyên chú "tại xã Hát Giang, huyện Phú Lộc", nay thuộc tỉnh Hà Tây.</span></p><p><span style="font-size: 18px">(16) Bính tuất: Năm này ở đây là 1406.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Hết chương 2 mời các bạn đọc tiếp <strong>chương 3</strong></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 181924, member: 288054"] [SIZE=5][B] Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc:[SIZE=5][B]Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ[/B][/SIZE][/B][/SIZE] [SIZE=5][B]Chương 2: Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu[/B][/SIZE] [SIZE=5][B][/B][/SIZE] [SIZE=5][B][ATTACH=full]3349._xfImport[/ATTACH][/B][/SIZE] [SIZE=5]Từ Đạt ở Khoái Châu, (1) lên làm quan tại thành Đông Quan (2) thuê nhà ở cạnh cầu Đồng Xuân, láng giềng với nhà quan Thiêm thư là Phùng Lập Ngôn. Phùng giầu mà Từ nghèo; Phùng xa hoa mà Từ tiết kiệm; Phùng chuộng dễ dãi mà Từ thì giữ lễ. Lề thói hai nhà đại khái không giống nhau. Song cũng lấy nghĩa mà chơi bỡi đi lại với nhau rất thân, coi nhau như anh em vậy.[/SIZE] [SIZE=5]Phùng có người con trai là Trọng Quỳ, Từ có người con gái là Nhị Khanh, gái sắc trai tài, tuổi cũng suýt soát. Hai người thường gặp nhau trong những bữa tiệc, mến vì tài, yêu vì sắc, cũng có ý muốn kết duyên Châu Trần. (3) Cha mẹ đôi bên cũng vui lòng ưng cho, nhân chọn ngày mối lái, định kỳ cưới hỏi.[/SIZE] [SIZE=5]Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau khi về nhà họ Phùng, khéo biết cư xử với họ hàng, rất hòa mục và thờ chồng rất cung thuận, người ta đều khen là người nội trợ hiền. Trọng Quỳ lớn lên, dần sinh ra chơi bời lêu lổng; Nhị Khanh thường vẫn phải can ngăn. Chàng tuy không nghe nhưng cũng rất kính trọng. Năm chàng 20 tuổi, nhờ phụ ấm được bổ làm một chức ở phủ Kiến Hưng. Gặp khi vùng Nghệ An có giặc, triều đình xuống chiếu kén một viên quan giỏi bổ vào cai trị. Đình thần ghép Lập Ngôn tính hay nói thẳng, ý muốn làm hại, bèn hùa nhau tiến cử. Khi sắc đi phó nhậm, Phùng Lập Ngôn bảo Nhị Khanh rằng: - Đường sá xa xăm, ta không muốn đem đàn bà con gái đi theo, vậy con nên tạm ở quê nhà. Đợi khi sông bằng nước phẳng, vợ chồng con cái sẽ lại cùng nhau tương kiến. Trọng Quỳ thấy Nhị Khanh không đi, có ý quyến luyến không rứt. Nhị Khanh ngăn bảo rằng: - Nay nghiêm đường vì tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bên trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng bận lòng đến chốn hương khuê. Sinh không đừng được, mới bày một bữa tiệc từ biệt, rồi cùng Lập Ngôn đem người nhà đi vào phương nam. Không ngờ lòng giời khó hiểu, việc người khôn lường, cha mẹ Nhị Khanh nối nhau tạ thế. Nàng đưa tang về Khoái Châu, chôn cất cúng tế xong rồi, đến cùng ở chung với bà cô Lưu thị. Bấy giờ có quan tướng quân họ Bạch là cháu họ ngoại của bà Lưu thị muốn lấy Nhị Khanh làm vợ, đem tiền bạc đến khẩn cầu. Lưu thị bằng lòng, rồi nhân lúc vắng vẻ, bảo Nhị Khanh rằng: - Nhà nước từ ngày họ Nhuận Hồ tiếm vị, ngày tháng hoang chơi, triều chính đổ nát, họa loạn sẽ xảy ra chỉ trong sớm tối; mà Phùng lang từ ngày ra đi, thấm thoắt đã sáu năm nay, tin tức không thông, mất còn chẳng rõ. Lỡ ra gặp lúc rồng tranh hổ chọi, phải khi bướm dại ong cuồng, Tra Lợi mắc vào tay (4), áp Nha không sẵn mặt (5), chỉ e Chương Đài tơ liễu, (6) trôi bay đi đến tận phương nào. Chi bằng bạn lành kén lựa, duyên mới vương xe, lấp những lời giăng gió cợt trêu, nương dưới bóng tùng quân cao cả. Tội gì mà bơ vơ trơ trọi, sống cái đời sương phụ buồn tênh. Nhị Khanh nghe nói sợ hãi, mất ngủ quên ăn đến hàng tháng. Lưu thị tuy biết chí nàng không chuyển động, nhưng cố định lấy lễ nghi để cưỡng ép, hôn kỳ đã rắp sẵn sàng. Nhị Khanh một hôm bảo người bõ già rằng: - Chú là người đầy tớ cũ của nhà ta, há không nghĩ đến sự đền đáp ơn đức của người xưa ư? Bõ già nói: - Tùy ý mợ muốn sai bảo gì tôi xin hết lòng. Nhị Khanh nói: - Ta sở dĩ nhịn nhục mà sống là vì nghĩ Phùng lang hãy còn; nếu chàng không còn thì ta đã liều mình chứ quyết không mặc áo xiêm của chồng để đi làm đẹp với người khác. Chú có thể vì ta chịu khó lặn lội vào xứ Nghệ hỏi thăm tin tức cho ta không? Người bõ già vâng lời ra đi. Bấy giờ binh lửa rối ren, đường sá hiểm trở, hắn phải lận đận đến hàng tuần mới vào được đến Nghệ An. Hắn đi hỏi thăm, biết tin Phùng Lập Ngôn đã mất được mấy năm rồi, lại vì con trai hư, nên gia tư đã sạch sành sanh, đáng phàn nàn quá! Người bõ già ghé thuyền lên bờ, vừa vào trong chợ liền gặp ngay Phùng Sinh. Sinh đưa về chỗ ở thì thấy một chiếc giường xiêu, bốn bề vách trống, trừ có mấy thứ như bàn cờ, hũ rượu, chim mồi, chó săn, không còn cái gì đáng giá. Sinh bảo người bõ già rằng: -Quan nhà không may, thất lộc đã bốn năm nay rồi. Ta vì binh qua nghẽn trở, muốn về không được. Tuy ở chốn quê người đất khách, nhưng hồn mộng không đêm nào không ở bên mình Nhị Khanh. Bèn chọn ngày lên đường về quê. Đến nhà, vợ chồng cũng trông nhau mà khóc. Đêm hôm ấy buồng loan chung gối, Sinh ngâm một bài thơ rằng: ức tích bình sinh nhật, Tăng hài khế hợp nhân Cảm quân tình thái hậu Tiếu ngã mệnh chung truân. Biệt quệ phân huề tảo, Trường đình khuyến ẩm tần. Y y sầu lĩnh kiệu, Nhiễu nhiễu cách phong trần. Cộng ước nhân thiên lý, Tương vương nguyệt bán luân. Xâm tầm nhàn lục tải, Linh tạ trướng song thân. Phạ thụy Hoành sơn hiểu Hành ca Diễn thủy tân. Đăng lâu Vương Xán lệ, Xách cú Đỗ Lăng cân. Trúc thạch nan y tục Cầm tôn bất liệu bần. Tha hương lao ký mục, Cố quốc trọng thương thần. Phóng lãng phi ngô sự, Yêm lưu bệnh thử thân. Ninh tri Bồng Đảo khách, Dao dạt Cẩm Giang lân. Thái Thạch trùng di trạo, Hoàng Cô lưỡng vấn tân. Kỷ niên Vu Giáp mộng, Nhất đán Vũ Lăng xuân. Hồ điệp giao tình cựu, Uyên ương biến thái tân. Khinh huyên Đường Quắc quốc, Mỹ mạn Tống Đông lân. Lục ám oanh thanh sáp, Hồng hy yến tử sân. Hiệp du kim Đỗ Mục, Kỳ ngộ cổ Lưu Thần. Ngàm vịnh liêu tùy hứng, Phong lưu khẳng nhượng nhân. Hội ưng truyền thắng sự, Mệnh bút ký Chu Tần. Dịch: Nhớ từ năm hãy ngây thơ Đôi ta sớm đã xe dây Tấn Tần Tình em thắm đượm vô ngần Số anh riêng lắm gian truân cũng kỳ. Chia tay một sớm ra đi, Trường đình chén rượu phân ly rước mời. Sầu treo đỉnh núi chơi vơi, Mịt mù gió bụi cách vời xa xăm. Bắc Nam nghìn dặm âm thầm, Trăng cài nửa mảnh đăm đăm bên trời. Sáu năm vùn vụt đưa thoi, Thông già huyên héo ngậm ngùi nhớ thương. Từng khi ngủ dưới Đèo Ngang, Từng khi bến Diễn (7) ngâm vang điệu sầu. Lệ tuôn, Vương Xán lên lầu, (8) Sầu ôm, Đỗ Phủ ngâm câu cảm hoài, (9) Rượu đàn trúc đá ham chơi, Càng nghèo càng cảm thấy đời bê tha. Mắt mòn trông ngóng quê nhà, Lòng đau nghĩ nỗi phương xa lạc loài. Người mà đến thế thì thôi, Đời phiên lãng chỉ là đời bỏ đi. Hay đâu tin đến bất kỳ, (10) Người tiên còn vẫn yêu vì chưa thôi. Bến tiên khách lại trùng lai, Mộng say Đỉnh Giáp, xuân tươi Nguồn Đào. (11) Uyên bơi bướm giỡn xôn xao, Vẻ nào chẳng đượm, nét vào chẳng ưa! Đầy vườn lục rậm hồng thưa, Con oanh cái én ơ hờ nhớ xuân. Duyên may Đỗ Mục, Lưu Thần, Thú Phong Lưu dễ nhượng phần cho ai. Việc nên truyền lại lâu dài, Bút hoa mượn thảo mấy lời vân vân. Hai người vì xa cách nhau lâu, nên nay tình ái bội phần nồng đượm, sự vui sướng không còn phải nói. Song sinh vì quen thân phóng lãng, thuộc tính chơi bời, về nhà ít lâu rồi nết cũ lại đâu đóng đấy, hằng ngày cùng người lái buôn là Đỗ Tam bê tha lêu lổng. Sinh thì thích Đỗ có tiền nhiều. Đỗ thì ham Sinh có vợ đẹp. Nhưng khi uống rượu với nhau rồi đánh bạc, Đỗ thường lấy lợi dử Sinh. Sinh đánh lần nào cũng được, thấy kiếm tiền dễ như thò tay vào túi mình lấy đồ vật vậy. Nhị Khanh vẫn răn bảo rằng: - Những người lái buôn phần nhiều là giảo quyệt, đừng nên chơi thân với họ; ban đầu tuy họ thả cho mình được, nhưng rồi họ sẽ vét hết của mình cho mà xem. Sinh không nghe. Một hôm Sinh cùng các bè bạn họp nhau đánh tứ sắc. Đỗ bỏ ra trăm vạn đồng tiền để đánh và đòi Sinh đánh bằng Nhị Khanh. Trọng Quỳ quen mui vẫn được luôn, chẳng suy nghĩ gì, liền bằng lòng cách ấy. Giấy giao kèo viết xong rồi vừa uống rượu vừa gieo quân. Trọng Quỳ gieo ba lần đều thua cả ba, sắc mặt tái mét; cử tọa cũng đều ngơ ngác buồn rầu hộ. Trọng Quỳ phải cho gọi Nhị Khanh đến, bảo rõ thực tình, đưa tờ giao kèo cho xem và yên ủi rằng: - Tôi vì nỗi nghèo nó bó buộc, để lụy đến nàng. Việc đã đến thế này, hối lại cũng không kịp nữa. Thôi thì bi hoan tán tụ cũng là việc thường của người ta. Nàng nên tạm về với người mới, khéo chiều chuộng hắn, rồi bất nhật tôi sẽ đem tiền đến chuộc. Nàng liệu cơ không thể thoát khỏi, giả vờ nói tử tế rằng: - Bỏ nghèo theo giầu, thiếp lẽ đâu từ chối. Số giời xếp đặt, há chẳng là tiền định hay sao! Nếu chồng mới không nỡ rẻ bỏ, còn đoái thu đến cái dong nhan tàn tạ này, thiếp xin sửa túi nâng khăn, hết lòng hầu hạ như đã đối với chàng xưa nay. Nhưng xin cho uống một chén rượu, mượn làm một chén tiễn biệt và cho về từ giã các con một chút. Đỗ cả mừng, rót đầy một chén xà cừ rượu đưa mời nàng uống. Uống xong, nàng về nhà ôm lấy hai con, vỗ vào lưng mà bảo rằng: - Cha con bạc tình, mẹ đau buồn lắm. Biệt ly là việc thường thiên hạ, một cái chết với mẹ có khó khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con mà thôi. Nói xong, lấy đoạn dây tơ thắt cổ mà chết. Đỗ thấy mãi nàng không đến, lấy làm lạ, sai người đến giục, té ra nàng đã chết rồi. Trọng Quỳ hối hận vô cùng, sắm đồ liệm táng tử tế rồi làm một bài văn tế rằng: Hỡi ơi nương tử! Khuê nghi đáng bậc, Hiền đức vẹn mười. Tinh thần nhã đạm, Dáng điệu xinh tươi. Khi về với ta, Vợ chồng thân thiết. Ai biết giữa đường, Phút nên ly biệt. Cha làm quan xa, Ta theo hầu hạ. Trải sáu năm dư, Bặt tin nhạn cá. Buồng xuân trướng lạnh. Hạc oán vượn sầu. Than ôi đường trước, Gieo neo đến đâu! Bên giời góc bể, Nệm khách lẻ loi. Tin nhà chợt đến, Ngựa về quất roi, Sắt cầm dìu dặt, Lại gắn keo loan. Vừa vui sum họp, Phút bỗng lìa tan. Ta sao bạc quá! Nàng đáng thương thay! Nói năng gì nữa, Đã đến nỗi này. Hoa bay trước viện, Quế rụng giữa trời. Phù dung ủ rũ, Dương liễu tả tơi. Phong cảnh còn đây, Người đã xa chơi. Lấy gì độ em? Một lễ lên chùa. Lấy gì khuây em? Duyên sau đền bù. Non mòn bể cạn, Mối hận khôn khuây. Hỡi ôi nương tử, Hâm hưởng lễ này. (13) Trọng Quỳ đã góa vợ, rất ăn năn tội lỗi của mình, song sinh kế ngày một cùng quẫn, ăn bữa sớm lo bữa tối, phải đi vay quanh của mọi người làng xóm. Nhân nghĩ có một người bạn cũ, hiện làm quan ở Quy Hóa, (14) bèn tìm đến để mong nhờ vả. Dọc đường buồn ngủ, chàng nằm ghé xuống ngủ ở gốc cây bàng, bỗng nghe trên không có tiếng gọi rằng: "Có phải Phùng lang đấy không? Nếu còn nghĩ đến tình xưa thì ngày ấy tháng ấy xin đến chờ thiếp ở cửa đền Trưng Vương (15). Ân tình thiết tha, đừng coi là âm dương cách trở". Sinh lấy làm lạ tiếng giống như tiếng Nhị Khanh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy trên trời một đám mây đen bay về tây bắc. Sinh tuy rất lấy làm ngờ nhưng cũng muốn thử xem ra sao, bèn đúng hẹn đến trước đền ấy. Song đến nơi chỉ thấy bóng tà rọi cửa, rêu biếc đầy sân, năm ba tiếng quạ kêu ở trên cành cây xao xác. Sinh buồn rầu toan về thì mặt trời đã lặn, bèn ngả mình nằm ở một tấm ván nát trên một cái cầu. Khoảng cuối canh ba, bỗng nghe thấy tiếng khóc nức nở từ xa rồi gần; khi thấy tiếng khóc chỉ còn cách mình độ nửa trượng, nhìn kỹ thì người khóc chính là Nhị Khanh. Nàng bảo với Sinh rằng: - Đa tạ ơn chàng, từ xa lặn lội tới đây, biết lấy gì để tặng chàng được! Trọng Quỳ chỉ tự nhận tội lỗi của mình; nhân hỏi đầu đuôi, Nhị Khanh nói: - Thiếp sau khi mất đi, Thượng đế thương là oan uổng bèn ra ân chỉ, hiện thiếp được lệ thuộc vào tòa đền này, coi giữ về những sớ văn tấu đối, không lúc nào nhàn rỗi để thăm nhau được. Bữa nọ nhân đi làm mưa, chợt trông thấy chàng nên mới gọi; nếu không thì nghìn thu dằng dặc, chẳng biết đến bao giờ được gặp gỡ nhau. Trọng Quỳ nói: - Sao em đến chậm thế! Nhị Khanh nói: - Vừa rồi thiếp nhân theo xe mây, lên có việc ở nơi Đế sở. Vì cớ có chàng nên thiếp đã phải bẩm xin về trước đấy; thành ra cũng sai hẹn với chàng một chút. Bèn dắt tay nhau đi nằm, cùng nhau chuyện trò thủ thỉ. Khi nói đến việc hiện thời, Nhị Khanh chau mày: - Thiếp thường theo chầu tả hữu Đức Bà ở đây, được trộm nghe chư tiên nói chuyện với nhau, bảo Hồ triều sẽ hết vào năm Binh tuất, (16) binh cách nổi lớn, số người bị giết tróc đến chừng hơn 20 vạn, ấy là chưa kể số bị bắt cướp đi. Nếu không phải người giồng cây đức đã sâu thì chỉ e ngọc đá đều bị cháy cả. Bấy giờ có một vị chân nhân họ Lê, từ miền tây nam xuất hiện; chàng nên khuyên hai con bền chí đi theo vị ấy, thiếp dù chết cũng không nát. Trời gần sáng, Nhị Khanh vội dậy để cáo biệt, vừa đi vừa ngoảnh đầu nhìn lại, rồi thoắt chốc thì biến đi mất. Trọng Quỳ bèn không lấy ai nữa, chăm chỉ nuôi hai con cho nên người. Đến khi vua Lê Thái Tổ tuốt gươm đứng dậy ở Lam Sơn, hai người con trai đều đi theo, trải làm đến chức Nhập thị nội. Đến nay ở Khoái Châu hiện còn con cháu.[/SIZE] [SIZE=5][B]Lời bình:[/B] Than ôi, người con gái có ba đạo theo, theo chồng là một. Nàng Nhị Khanh chết, có quả là đã theo chồng không? Thưa rằng không. Đời xưa bảo theo, là theo chính nghĩa chứ không theo tà dục. Chết hợp với nghĩa, có hại gì cho cái đạo theo. Theo nghĩa tức là theo chồng đó. Có người vợ như thế mà để cho phải hàm oan. Trọng Quỳ thật là tuồng chó lợn. Muốn tề được nhà, phải trước tự sửa mình lấy chính, khiến cho không thẹn với vợ con, ấy là không thẹn với trời đất.[/SIZE] [SIZE=5][B]Chú thích[/B]: (1) Khoái Châu: tên huyện, nay thuộc tỉnh Hưng Yên. (2) Đông Quan: tên gọi Thăng Long dưới thời thuộc Minh. (3) Duyên Châu Trần: Trung Quốc thời cổ ở huyện Phong thuộc Từ Châu có thôn Châu Trần. Trong thôn chỉ có hai họ Châu Trần đời đời kết hôn với nhau, vì thế trong văn chương Châu Trần thành điển cố để nói về chuyện hôn nhân. (4) Tra lợi: Hàn Hoành có tài thị phú, làm quan dưới thời vua Đức Tông nhà Đường. Thủa hàn vi có người hiệp sĩ là Lý Sinh đem vợ lẽ yêu và đẹp là Liễu Thị tặng cho, lại giúp cho một số tiền lớn. Sau gặp loạn vợ chồng mỗi người mỗi nơi, Liễu Thị giữ tiết với chồng cắt tóc đi tu ở chùa Pháp Linh. Khi hết loạn, Hoành thuê người đi tìm, có bài thơ rằng: "Chương đài liễu! Tích nhật thanh thanh Kim tại Phủ? Túng sử trường điền tự cựu thùy, Dã ưng phan thiết tha nhân thủ! Nghĩa là: Chương đài liễu xanh xanh ngày trước, Nay còn chăng tha thướt ỏe oai? Ví còn tha thướt cành dài, Bẻ vin chắc đã tay ai khỏi nào! Liễu được thơ cũng làm một bài đáp lại. Nhưng khi Hàn về thì Liễu đã bị tướng Phiên là Sa Tra Lợi bắt đi. Hiệp khách Hứa Tuấn thương Hoành đột nhập vào phủ tướng Phiên cướp được Liễu Thị đem về trả cho Hoành. Hai người lại được đoàn viên. (5) Đời Đường, Lưu Vô Song là vợ chưa cưới của Vương Tiên Khách. Gặp loạn, nàng bị bắt vào cung. Tiên Khách nhờ được nghĩa sĩ Cổ áp Nha dùng kế đưa thuốc vào cho Vô Song. Uống xong nàng chết. áp Nha giả làm người thân xin chuộc xác nàng mang ra. Đến ngoài, thuốc nhạt, nàng tỉnh lại, vợ chồng đưa nhau đi trốn rồi ở với nhau đến già. (6) Xem chú thích (4) cùng chuyện. (7) Bến Diễn: có lẽ là một bến sông thuộc Nghệ An. (8) Vương Xán: tên tự là Trọng Tuyên, người thời Tam quốc, chạy loạn Đổng Trác, nương náu tại nhà Lưu Biển chốn Kinh Châu; Xán thường lên lầu làm bài phú để tỏ nỗi nhớ nhà. (9) Đỗ Phủ (712-770): hiệu là Thiếu Lăng, là một nhà thơ lớn đời Đường, có Đỗ Lăng tập. (10) Từ câu này đến cuối bài thơ dịch giả tóm tắt, cốt giữ ý và thần câu thơ, không dịch sát nguyên văn. Vì thấy tứ thơ vẫn được giữ đầy đủ nên chúng tôi không hiệu chỉnh. (11) Đỉnh giáp: Tức Vu Giáp, theo bài Cao đường phú của Tống Ngọc, giữa đầm Vân Mộng có quán Cao Đường. Tại đây Sở Hoài Vương ngủ ngày chiêm bao thấy thần nữ đến hầu chăn gối. Hỏi thì nàng nói là thần nữ núi Vu Sơn, sớm làm mây tối làm mưa ở chốn Dương Đài. Sau trong văn học, Vu Sơn, Vu Giáp, Cao Đường thường dùng làm điển để biểu đạt chuyện chăn gối ái ân trai gái. Nguồn đào: Theo Đào hoa nguyên ký của Đào Tiền thì có người đánh cá ở Vũ Lăng theo suối lạc vào rừng đào. ở đấy chàng gặp một thôn xóm thanh bình, hỏi thì được biết họ là những người lánh nạn nhà Tần vào trú ngụ. Nguồn đào đây chỉ xóm tiên. (12) Đỗ Mục: xem chú thích (23), Câu chuyện ở đền Hạng Vương. Lưu Thần: Lưu Thần và Nguyễn Triệu người đời Hán, khoảng đầu công nguyên vào núi hái thuốc, lạc đến động tiên, được kết duyên cùng tiên nữ. Được nửa năm, hai người nhớ nhà đòi về. Nhưng đến nhà thì không còn ai quen biết, đã qua bảy đời từ khi hai chàng ra đi. Hai chàng buồn rầu muốn trở lại cõi tiên nhưng không tìm thấy lối cũ đâu nữa. (13) Bài này lược phần phiên âm. (14) Quy Hóa: nguyên chú "thuộc xứ Hưng Hóa", nay thuộc tỉnh Phú Thọ. (15) Đền Trưng Vương: nguyên chú "tại xã Hát Giang, huyện Phú Lộc", nay thuộc tỉnh Hà Tây. (16) Bính tuất: Năm này ở đây là 1406.[/SIZE] [SIZE=5]Hết chương 2 mời các bạn đọc tiếp [B]chương 3[/B][/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Truyện dài
Truyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ
Top