Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Truyện dài
Truyền kì mạn lục- Chương 7: Chuyện nghiệp oan của Đào Thị-Butnghien.com
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 181934" data-attributes="member: 288054"><p><strong>Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 7 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ</strong></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Chương 7: Chuyện nghiệp oan của Đào Thị</strong></span></p><p></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Ả danh kỹ ở Từ Sơn (1) là Đào Thị, tiểu tự Hàn Than, thông hiểu âm luật và chữ nghĩa. Niên hiệu Thiệu Phong (2) thứ năm (1345) đời nhà Trần, nàng được tuyển sung vào làm cung nhân, hằng ngày chầu vua ở tiệc rượu hay ở chiếu bạc.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Một hôm vua thả thuyền chơi trên sông Nhị, rồi đi lần xuống tận bến Đông Bộ Đầu (3). Vua lãng ngâm rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vụ ế chung thanh tiểu,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sa bình thụ ảnh trường.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nghĩa là:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mù tỏa tiếng chuông nhỏ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cát phẳng bóng cây trường (dài).</span></p><p><span style="font-size: 18px">Các quan chưa ai nối được vần, nàng Đào liền ứng khẩu được ngay:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hàn than ngư hấp nguyệt,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cổ lũy nhạn minh sương.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nghĩa là:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bến lạnh cá đớp nguyệt,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lũy cổ nhạn kêu sương.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vua khen ngợi hồi lâu rồi nhân đó gọi là: "ả Hàn Than".</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vua Dụ Tôn mất, nàng phải thải ra ở ngoài phố, thường đi lại nhà quan Hành khiển là Ngụy Nhược Chân. Bà vợ quan Hành khiển không có con mà tính hay ghen, ngờ Hàn Than tư thông với chồng, bắt nàng đánh một trận rất là tàn nhẫn. Nàng tức tối vô cùng, bèn đem những trâm hoa bằng vàng ngọc bán đi để thuê thích khách vào nhà Nhược Chân trả thù.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhưng thích khách đến, bị người nhà Nhược Chân bắt được, lúc đem tra khảo, hắn xưng ra Hàn Than. Hàn Than sợ, phải cạo trọc đầu và mặc đồ nâu sồng, trốn đến tu ở chùa Phật Tích (4), giảng kinh thuyết kệ, chỉ mấy tháng đã làu thông lắm. Nàng có dựng ra am gọi là am Cư Tĩnh, mời họp các văn nhân để xin một bài bảng văn. Bấy giờ trong làng có một cậu học trò tuổi độ 14, 15, cũng đến hội họp. Hàn Thanh khinh là còn ít tuổi, nói đùa rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Anh bé con này cũng làm văn được à? Vậy thử làm cho tôi xem nào.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cậu học trò không tỏ vẻ giận gì cả, lui lại dò hỏi được gốc tích Hàn Than, rồi làm bài văn như sau:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cái văn: Phật bản từ bi, kỳ danh viết giác,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhân năng thanh tịnh, tức ngụy thành chân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Năng tu pháp giới tân lương,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiện thị tùng lâm tông chủ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Kính duy Phật Tích am sơn chủ Đào Thị</span></p><p><span style="font-size: 18px">Danh đào nhạc tịch,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đính lễ Phạm vương.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đào khẩu liễu yêu, trạo thiệt tế tài án duyệt Lương Châu kỷ khúc,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Từ vân tuệ nhật, đài đầu gian dĩ quy y Đâu suất chư thiên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Quần phao tương thủy tằng tằng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mấn lạc Sở vãn đoạn đoạn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mộng lý vô đoan xúc cảnh, bán chẩm du tiên,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phong tiền hà xứ liêu nhân, sổ xoang đoản địch.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ca viện bất như tăng viện tĩnh,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nạp y tuyệt thắng vũ y lương.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thủy cúc Tào khê, do phân khuy kính ảnh,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dạ tuyên bối diệp, thượng tác nhiễu lương thanh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tuy vân thiền định vong cơ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phả nại cuồng tâm bị tửu.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Túc bất hướng Tầm Dương tống khách,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thân khước lai Hàng Quận tham thiền.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngũ Lăng nhi phao cẩm triền đầu, tuy tùy vị dĩ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tam sinh khách kết Liên hoa xã, chiêu dẫn hà tần.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Y! chung tàn trà yết vô dư sự,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hảo hướng sơn phòng nhất đả miên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mảng nghe:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phật vốn từ bi, gọi tên là Giác,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Người mà thanh tĩnh, hóa giả thành chân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Muốn lên tông chủ trong rừng thiền,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hãy gắng tu trì trong cõi phép.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Kính nghĩ am chủ ở núi Phật Tích là Đào Thị,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sổ ca nhạc rút tên ra khỏi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cửa Phạm vương (5) núp bóng tìm vào,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Miệng đào lưng liễu, uốn lưỡi vừa véo von mấy khúc Lương Châu (6).</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhật sáng mây lành, nghển đầu đã tựa nương dưới trời Đâu Suất (7),</span></p><p><span style="font-size: 18px">Quần ném dòng Tương lớp lớp.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tóc rơi mây Sở từng từng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong mơ xúc cảnh bâng khuâng, du tiên nửa gối,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trước gió ghẹo người réo rắt, đoản địch vừa xong.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phòng tăng vắng vẻ khác phòng ca,</span></p><p><span style="font-size: 18px">áo đạo nhẹ nhàng hơn áo múa.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Khe Tào múc nước (8), chợt ngờ mặt phấn trong gương,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lá bối (9) tụng kinh, còn thoảng âm vang trước nóc (10).</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mùi thiền dẫu bén,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lòng tục chưa phai.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bến Tầm Dương (11) không đến gẩy tỳ bà,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chùa Hàng Quận (12) lại vào nghiền kinh kệ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Gấm triền đầu phấp phới, theo đuổi chưa thôi (13),</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hội Liên Hoa dập dìu, đón mời sao khéo (14).</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ôi! chuông tàn trà cạn ngồi chi nữa?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Buồng núi vào tìm một giấc say.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bài văn làm xong, viết lớn rồi dán vào cửa chùa, xa gần đua nhau chép. Hàn Than nhân thế, đương đêm bỏ chùa mà trốn. Nghe chùa Lệ Kỳ (15) ở hạt Hải Dương là một nơi nước tú non kỳ, phong cảnh tuyệt đẹp, trụ trì có sư già Pháp Vân và sư bác Vô Kỷ, bèn đến chùa xin bái yết. Pháp Vân không nhận và bảo Vô Kỷ rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Người con gái này, nết không cẩn nguyện, tính bén lẳng lơ, tuổi đã trẻ trung, sắc lại lộng lẫy, ta e lòng thiền không phải đá, sắc đẹp dễ mê người; tuy sen hồng chẳng nhuộm bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng nguyệt. Vậy ngươi nên liệu lời từ chối, đừng để hối hận về sau.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vô Kỷ không nghe, lại cứ nhận cho Hàn Than ở. Pháp Vân lập tức dời lên ở tận trên đỉnh núi Phượng Hoàng.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hàn Than tuy ở chốn thanh tịnh nhưng nết cũ vẫn chưa từ bỏ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mỗi lúc ở nhà dưới đi lên mặc áo lụa, mang quần là, điểm môi son, tô má phấn. Cõi dục đã gần, máy thiền dễ chạm, bèn cùng Vô Kỷ tư thông. Hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, chẳng khác nào con bướm gặp xuân, trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý gì đến kinh kệ nữa.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hằng ngày hai người cùng nhau làm thơ liên cú, phàm những cảnh vật trong núi, cái gì có thể ngâm vịnh được đều dấp bút đề vịnh để ghi danh thắng. Những thơ như thế nhiều lắm không thể chép hết được, xin thuật ra đây độ một hai phần:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn Vân</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dao đễ nùng hoàn đạm,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thiên biên thấp vị hy.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hiểu tùy sơ vũ khứ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mộ đới lạc hà quy.</span></p><p><span style="font-size: 18px">ái đại nhân phong quyển,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Du dương đáo xứ phi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tăng dung đồng diệc lãn,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thùy vị yểm nham phi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mây núi</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bên trời đậm nhạt không thường,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ráng chiều mưa sớm bốn phương đi về.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sư lười tiểu cũng lười ghê,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Siêng năng khép cửa bồ đề ấy ai?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn vũ</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhất vũ thiên nham mính,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiêu tiêu tác ý minh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Châu cơ đôi địa sắc,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tinh đẩu lạc thiên thanh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lựu đoạt toàn lưu cấp,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lương hồi khách mộng thanh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn phòng vô cá sự,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhập dạ kỷ tàn canh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mưa núi</span></p><p><span style="font-size: 18px">Rào rào một trận mưa rơi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đầu non ngọc rụng, lưng trời sao sa.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nước xô hơi lạnh vào nhà,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Buồng sâu quạnh vắng đêm tà tà canh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn phong</span></p><p><span style="font-size: 18px">Linh lại khư u động,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chung tiêu sách sách thanh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phiên hoa hồng ý loạn,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Quyển thụ lục âm kinh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tăng nạp hàm lương thiển,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chung lâu tống hưởng thanh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mang mang thiên địa nội,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phi vị bất bình minh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Gió núi</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thâu đêm tiếng thổi ào ào,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hoa xơ xác thắm, cây rào rạt xanh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chuông lầu đưa tiếng thanh thanh,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Không gian nào phải bất bình mà kêu.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn nguyệt</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ẩn ẩn lâm sao quýnh,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Liên không hạo khí phù.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hàm sơn ngân kính khuyết,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cách vụ ngọc bàn thu.</span></p><p><span style="font-size: 18px">ảnh lạc tùng quan tĩnh,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lương hồi trúc viện u.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thanh quang tùy xứ hữu,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hà tất thướng Nam lầu.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trăng núi</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau rừng khí sáng lên cao,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Long lanh gương bạc gác vào đỉnh non.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bóng soi mát dịu tâm hồn,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lên lầu Nam, lọ phải còn tốn công (16).</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn tự</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhất thốc huy kim bích,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nham yêu ẩn tịch dương.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phong cao tùng húng lãng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thiên cận quế phiêu hương.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Động tiểu cầm thanh náo,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phong tà tháp ảnh trường.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trần gian danh lợi khách,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vọng thử kỳ bàng hoàng.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chùa núi</span></p><p><span style="font-size: 18px">Âm thanh ẩn dưới bóng tà,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thông cao hát gió, quế già phun hương,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chim rừng ríu rít kêu vang,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Khách trần ai có mơ màng chăng ai?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn đồng</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sinh trưởng tiều tô địa,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ninh tri thiển thảo nguyên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cuồng ca vân hắc ám,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đoản địch nhật hoàng hôn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">My lộc phù ê lữ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Yên hà thủy thạch thôn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Quy lai thâm động lý,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vân bế tiểu càn khôn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiểu đồng trong núi</span></p><p><span style="font-size: 18px">Năm năm sinh trưởng trong rừng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đùa mây hát sớm, thét trăng còi chiều.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bạn bầy chim đá nai hươu,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Càn khôn riêng mở bên đèo khói mây.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn viên</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ẩn ước sào nam lữ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Duyên nhai nhật kỷ hồi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sầu tương Ba lệ lạc,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thanh nhập Sở vân ai.</span></p><p><span style="font-size: 18px">ẩm giản hô bằng khứ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Văn kinh tác bạn lai.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vân thâm hà xứ mịch,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn sắc chính thôi ngôi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vượn núi</span></p><p><span style="font-size: 18px">Non cao ngoăn ngoắt leo chơi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiếng kêu buồn để cho người rơi châu.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Uống khe dắt rủ bạn bầu,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngàn mây ẩn bóng biết đâu dò tìm.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn điểu</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thân thế vân yên ngoại,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Y y tận nhật nhân.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhất thanh sơn sắc minh,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sổ cá tịch dương hoàn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tăng củng hàm lai quả,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sào thê đáo xứ san.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chu thu thùy hội ý,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phi nhiễu tiết la gian.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chim núi</span></p><p><span style="font-size: 18px">Khói mây ngày tháng thong dong,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Kêu trong sắc núi, vờn trong bóng chiều.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tha quả chín, đậu đồi kiêu,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bên rừng lá rậm dập dìu liệng quanh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn hoa</span></p><p><span style="font-size: 18px">Noãn nhập cao đê thụ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chi chi hỏa dục nhiên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đông tây hà thế giới,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Viễn cận cẩm sơn xuyên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hồng vũ lâm yêu đọa,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hương phong động khẩu truyền.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tự khai hoàn tự lạc,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Kim cổ kỷ xuân thiên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hoa núi</span></p><p><span style="font-size: 18px">Xuân sang đỏ ối cành cành,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mây thêu gấm dệt bao quanh bốn bề.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sắc hương man mác rừng khe,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cổ kim từng biết bao khi nở tàn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sơn diệp</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhất bích thiên vô tế,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tùng điều nhân vọng mê.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thu lai hoàng bị kính,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Xuân đáo lục doanh khê.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trú quyện vô nhân tảo,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Yên thâm hữu điểu đề.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thương nhiên khan bất tận,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thiên lý tịch dương tê (tây).</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lá núi</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lưng không bát ngát bốn bề,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thu sang ngập úa, xuân về rợp xanh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chim kêu ríu rít đầu cành,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tà dương bóng ngả chênh chênh ngàn đoài.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hai người ham mê nhau quá, chỉ cốt cái thú vui sướng trước mắt. Nhưng vui quá hóa buồn, lẽ tự nhiên như thế, không có gì là lạ. Năm Kỷ Sửu (1349) nàng quả vì có thai rồi ốm, lay lứt từ mùa xuân đến mùa hạ, ngồi lên nằm xuống, tất thảy đều có người đỡ vực. Sư Vô Kỷ vốn không biết thuốc, lại không biết đường chạy chữa, khiến nàng sau phải nằm quằn quại chết ở trên giường cữ. Vô Kỷ xót thương vô hạn, quàn nàng ở cuối mái hành lang phía Tây, sớm tối vỗ vào áo quan mà khóc rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Em ơi, em vì anh mà chết một cách oan uổng. Nếu anh được theo em cùng chết, anh rất sẵn lòng, khỏi để em vò võ một mình ở nơi chín suối. Huống chi khi em bình sinh vốn thông tuệ, khác hẳn với mọi người thường, nếu có linh thiêng, xin sớm cho anh được theo về dưới đất, anh không muốn lại trông thấy sư cụ Pháp Vân nữa.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau mấy tháng Vô Kỷ cũng vì nhớ thương mà thành ốm, lai rai đến nửa năm trời, bỏ cả cơm cháo. Một đêm thấy Hàn Than hiện đến bảo rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Thiếp buổi trước ngàn dâu xế bóng, cửa Phật nương mình, đáng cười thay chưa dứt lòng trần, thêm ngán nỗi còn vương nợ nghiệt, đài Dao mệnh dứt, đến nỗi chia bày, sống còn chưa được thỏa yêu đương, chết xuống sẽ cùng nhau quấn quýt. Mong chàng hiểu câu lục như (17), như bỏ giường thiền tứ đại (18), tạm rời cảnh Phật, về chốn suối vàng để thiếp được ngửa nhờ Phật lực, thác hóa đầu thai, đặng trả cho xong một cái nợ oan gia ngày trước.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nói xong thì không thấy đâu cả. Từ đấy bệnh Vô Kỷ ngày càng nguy kịch. Sư cụ Pháp Vân nghe tin, xuống núi để thăm, thì bệnh đã không thể cứu vãn được nữa, đành chỉ trông nhau ứa nước mắt, rồi một lát thì Vô Kỷ chết.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đêm hôm ấy gió mưa dữ dội, ở kinh đô có nhiều nhà lật mái đổ tường. Bà vợ quan Hành khiển Ngụy Nhược Chân chiêm bao thấy hai con rắn cắn vào mạng sườn ở dưới nách bên tả. Sau đó rồi bà có mang sinh ra được hai người con trai, đặt tên người con lớn là Long Thúc, người con bé là Long Quý. Hai đứa trẻ ấy mới đầy một tuổi đã biết nói, lên tám tuổi đã biết làm văn, được cha mẹ rất là yêu quý. Bây giờ đang giữa mùa hè nóng bức, Nhược Chân một hôm ngồi hóng mát trên cái lầu cao. Cửa lầu trông xuống đường, có một vị thầy tu đói khó đi qua ở dưới, dùng dằng trông ngắm, muốn đi mà không đi dứt được. Chợt rồi người ấy phàn nàn:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Lạ thay tòa lâu đài thế kia mà rồi sẽ thành cái vực của thuồng luồng. Đáng tiếc! Đáng tiếc!</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhược Chân sợ hãi thất sắc, vội chạy theo hỏi; ban đầu thầy tu không chịu nói, chỉ bảo vừa rồi bàng hoàng nói nhảm chứ không thấy có gì lạ, xin bất tất phải nghi ngờ. Nhưng Nhược Chân cứ cố khẩn nài, thầy tu mới bảo là nhà ông chứa đầy khí yêu quái, nếu không là nghiệp báo kiếp trước thì tất là oan gia kiếp này; người ta đã ở trong nhà ông, chỉ năm tháng nữa thì cả nhà không còn sống sót một mống. Nhược Chân kêu xin cứu cho, thầy tu nói: Tôi vốn có con mắt xem người rất sành. Xin cho tôi xem tất cả người trong nhà, hễ tôi thấy đúng người nào thì gõ vào chậu để cho ông biết. Nếu tiết lộ ra một lời thì tai vạ xảy ra ngay lập tức.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhược Chân gọi tất cả người nhà ra lạy chào; thầy tu xem khắp lượt rồi lắc đầu nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Đều không phải cả. Vị tất đã biến thành hình. Lại hỏi trong nhà còn ai phải gọi nốt ra. Nhược Chân vào gọi nốt hai con trai đang ngồi trong nhà học. Khi hai người con trai đến, thầy tu liền gõ vào chậu rồi nức nở khen:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Quý hóa thay hai cậu con trai! Sau này làm nên sự nghiệp lừng lẫy, vẻ vang cho nhà và danh giá với đời, tất nhiên là những cậu này.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hai người đều giận nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Thầy chùa ở đâu đến đây mà bẻm mép tán xằng gì thế?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nói rồi đều phất áo đi vào. Nhược Chân không bằng lòng; thầy tu cũng từ giã ra đi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đêm hôm ấy, Long Quý khóc bảo với Long Thúc rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Vị yêu tăng hôm nay, lời nói ba hoa hình như có ý dòm dỏ. Nếu hắn mà biết, e rằng sẽ nguy cho chúng ta lắm đấy.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Long Thúc cười mà rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Trừ được chúng ta, duy có một sư cụ Pháp Vân. Còn những kẻ khác, ta chỉ giơ tay là cướp được bùa dấu của họ. Huống chi Nhược Chân đối với ta, tất vì tình cốt nhục mà không hiềm nghi gì cả, ta có thể yên ổn không lo ngại gì.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bấy giờ Nhược Chân nằm ngủ không yên, đang dậy đi một mình thơ thẩn, tình cờ do chỗ khe cửa sổ mà nghe lóng được, sợ hãi kinh hoàng không biết tính thế nào. Ngày hôm sau, nói vờ là có chút việc, từ nhà ra đi, dò thăm khắp chốn danh lam, tìm hỏi vị sư cụ có tên hiệu là Pháp Vân. Trải hơn một tháng đến tìm chùa ở Lệ Kỳ, thấy gã tiểu đồng nói hồi nhỏ có nghe tên hiệu ấy nhưng sư cụ đã dời vào núi sâu từ lâu rồi. Tiểu đồng nhân trỏ lên ngọn núi Phượng Hoàng (19) mà bảo:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Sư cụ ở trên núi kia kìa.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhược Chân bèn xắn áo đi lên, qua bốn năm dặm nữa mới tới chỗ sư cụ ở. Bấy giờ sư cụ đang nằm ngủ ở trên ghế tiếng ngáy như sấm, hai bên tả hữu có hai chú tiểu đứng hầu. Nhược Chân khúm núm đi lên, hai gã tiểu đồng quát mắng làm cho sư cụ tỉnh giấc. Nhược Chân đến trước sụp lạy và kể cái bản ý tìm đến của mình. Sư cụ cười mà rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Sao tiên sinh lầm thế? Lão phu thân không ở chùa chiền, chân không đến thành thị đã lâu năm rồi. Nay chỉ có thể ở trong am cỏ, quét đất thắp hương, tụng kinh Lăng nghiêm mấy lần. Chứ còn đến bay bùa chạy dấu thì không phải là việc của lão.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sư cụ từ chối rất dứt khoát. Hai tiểu đồng đứng bên bàn rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Đức Phật nhà ta lấy từ bi làm bè, tế độ làm cửa, thương bể khổ trôi nổi, cứu sông mê đắm chìm. Bởi vì ngài muốn ai nấy cùng sang bỉ ngạn, cùng gội thiện duyên. Nếu thầy nhất định chối từ thì sao làm rộng đạo nhà Phật ra được.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bấy giờ sư cụ mới vui vẻ nhận lời. Bèn dựng một đàn tràng ngay ở trên núi, treo đèn bốn mặt và lấy bút son vẽ bùa dấu. Ước độ trống canh thì có đám mây đen mươi trượng bao bọc ở chung quanh đàn, một cơn gió lạnh thổi ào làm cho người phải ghê rợn. Sư cụ cầm cây tích trượng chỉ huy tả hữu, có lúc lại ra khỏi đàn làm ra bộ quát mắng. Nhược Chân ngồi ở một ngôi nhà phía xa, vén mành trông trộm; nhưng vắng lặng chẳng thấy gì cả, chỉ nghe trên không có tiếng khóc y ỷ, một lúc tiếng tắt mà đám mây cũng tan. Sáng hôm sau, sư cụ lấy một phiến đá bôi hùng hoàng vào rồi viết mực lên, trao cho Nhược Chân mà bảo:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Ông về hễ thấy loài yêu quái biến ra vật gì, kịp lấy đá này mà ném thì những mối thừa của tai họa sẽ dứt được hết.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhược Chân về đến nhà. Thấy người nhà đương ngồi châu đầu mà khóc. Bà vợ kể chuyện canh ba đêm nọ, hai con trai cùng dắt nhau xuống giếng mà chết, nước giếng dâng lên hầu ngập cả thềm, hiện ra hai cái thây đều đã quàn ở vườn nam, chỉ đợi Nhược Chân về thì đem mai táng. Nhược Chân hỏi:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Trước lúc chết, chúng có nói gì không?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Người nhà nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Chúng chỉ phàn nàn là giá chậm độ mấy tháng nữa thì công việc xong, không ngờ bị kẻ cuồng tăng làm hại.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nói xong, lại gào khóc. Nhược Chân can ngăn rồi cùng ra vườn nam mở nắp quan tài để xem. Khi mở thấy hai cái thây đã hóa thành hai con rắn vàng, lấy hòn đá ném thì chúng liền nát ra tro cả.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vợ chồng liền sắm nhiều vàng lụa đem đến tạ ơn sư cụ Pháp Vân. Nhưng đến nơi thì thấy am cỏ rêu phong, không tìm nhận ra được vết đi nào cả, nhân buồn bã cùng nhau trở về.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong> <em>Lời bình:</em></strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Than ôi! Theo về dị đoan chỉ là có hại (20). Huống chi đã theo lại còn không giữ cho đúng phép, thì mối hại phỏng còn xiết nói được ư? Gã Vô Kỷ kia, là một kẻ gian dâm, buông thói tà dục, chẳng những dối người lại còn dối Phật của hắn thờ nữa. Giả đem xử vào cái tội như vua Ngụy giết bọn Sa Môn (21) ngày xưa thì hắn cũng không oan chút nào.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Thế còn Nhược Chân thì hẳn là không có lỗi chăng? Đáp rằng làm quan mà như thế, còn gì gọi là chính gia được nữa! Mầm vạ mọc lên, suýt nữa hãm vào bước nguy khốn, chính mình làm mình chịu, không đáng lấy làm lạ chút nào.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><em>Chú thích</em></strong>:</span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(*) Nguyên văn: Đào Thị nghiệp oan ký.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>* Nguyên văn: Tản Viên từ phán sự lục.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(1) Từ Sơn: tên huyện, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(2) Thiệu Phong: niên hiệu vua Trần Dụ Tông (1341-1357)</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(3) Đông Bộ Đầu: bến sông Hồng phía trên cầu Long Biên, gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(4) Chùa Phật Tích: nguyên chú: "Chùa núi Phật Tích thuộc xã Sài Khê, huyện Thạch Thất", tức chùa Thày, nay thuộc tỉnh Hà Tây.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(5) Cửa Phạn Vương: cửa chùa, cửa Phật..</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(6) Khúc Lương Châu: khoảng niên hiệu Thiên Bảo đời Đường, các điệu nhạc đều lấy tên các vùng đất ngoài biên tái như Lương Châu, Cam Châu, Y Châu...</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(7) Đâu Suất: là tầng trời thứ tư trong sáu tầng dục giới, nơi Di Lặc ở và giáo hóa những người có thiện duyên (Theo kinh Phật).</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(8) Khe Tào múc nước: Đời Lương có vị cao tăng là Trí Dược từ nước Thiên Trúc vào Trung Quốc. Thuyền đến cửa Khe Tào ở Thiều Châu, thoảng thấy mùi thơm, múc nước nếm rồi bảo: "Thượng lưu dòng nước này có thắng địa". Bèn khai núi làm chùa, đặt tên là Bảo Lâm.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(9) Lá bối: Một thứ lá cây, trước đây thường dùng chép kinh Phật.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(10) Hàn Nga sang Tề, đi qua cửa Ung thì hết lương, phải hát rong kiếm tiền ăn; đi rồi mà tiếng hát còn văng vẳng trên nóc nhà ba ngày không dứt.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(11) Tầm Dương: Bạch Cư Dị bị giáng chức làm tư mã Giang Châu. Một hôm đi thuyền tiễn khách, đậu ở bến Tầm Dương đã nghe tiếng đàn tì bà ai oán mà tuyệt diệu, thổ lộ tâm tình của người kỹ nữ tài hoa luống tuổi lấy người lái buôn chè. Người lái buôn ham lợi để nàng ca nữ một mình trên bến sông lạnh lùng.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(12) Hàng Quận: Cầm Tháo là một ca kỹ ở Tây Hồ thuộc Hàng Châu, một lần tiếp Tô Đông Pha, một trong bát đại gia Đường Tống, nghe ông đọc hai câu thơ: Môn ngoại lãnh lạc yên mã hi; Lão đại giá tác thương thân phụ (Ngoài cửa lạnh lùng xe ngựa vắng; tuổi già duyên kết chú phường buôn). Cầm Tháo tỉnh ngộ bèn cắt tóc đi tu.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(13) Đời Đường các công tử vương tôn nghe hát, thường lấy gấm quàng đầu con hát để thưởng, gọi là "phao cẩm triền đầu" (Ném gấm quấn đầu).</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(14) Thầy chùa Tuệ Viễn đời Tấn cùng các bạn tu 15 người họp thành hội Bạch Liên hoa, viết thư mời Đào Uyên Minh đến dự, Uyên Minh bảo có rượu mới tới. Viễn nhận lời, nhưng Uyên Minh đến lại không có rượu, ông chau mày bỏ đi.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(15) Chùa Lệ Kỳ: Nguyên chú: "Chùa Lệ Kỳ nay thuộc huyện Chí Linh". Chí Linh nay thuộc tỉnh Hải Dương.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(16) Dữu Lượng đời Tấn làm Đô đốc Kinh Châu thường lên lầu Nam thưởng nguyệt.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(17) Kệ lục như: Bài kệ trong kinh Phật nói hết thảy mọi việc đời đều: như mộng, như huyễn, như bọt, như sương, như điện, như bóng (tám điều như).</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(18) Giường thiền tứ đại: Kinh Phật nói thân thể người ta là do tứ đại (đất, nước, lửa, gió) hợp thành. Tô Đông Pha vốn chơi thân với sư Phật ấn. Một hôm ông Tô đến chơi, Phật ấn đùa bảo "Quan nội hàn đến làm gì? ở đây không có chỗ ngồi". Ông Tô đùa lại: "Xin mượn cái "tứ đại" của sư làm giường thiền".</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(19) Núi Phượng Hoàng: nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(20) Câu này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ. Nhà nho coi các học thuyết khác (không phải đạo nho) là "dị đoan", ở đây chỉ đạo Phật.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>(21) Thôi Hạo đời Ngụy ghét đạo Phật. Nhân vua Ngụy đến thành Trường An, vào một ngôi chùa, thấy có binh khí và nhà hầm giấu con gái, Hạo bèn xin vua giết hết sa môn (sư) trong thiên hạ.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"> </span></p><p><span style="font-size: 18px">Hết chương 7 mời các bạn đọc tiếp chương 8</span></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/threads/truyen-ki-man-luc-chuong-8-chuyen-chuc-phan-su-den-tan-vien-butnghien-com.79894/" target="_blank">Chương 8: Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên </a></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 181934, member: 288054"] [B]Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 7 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ[/B] [SIZE=5][B]Chương 7: Chuyện nghiệp oan của Đào Thị[/B][/SIZE] [SIZE=5]Ả danh kỹ ở Từ Sơn (1) là Đào Thị, tiểu tự Hàn Than, thông hiểu âm luật và chữ nghĩa. Niên hiệu Thiệu Phong (2) thứ năm (1345) đời nhà Trần, nàng được tuyển sung vào làm cung nhân, hằng ngày chầu vua ở tiệc rượu hay ở chiếu bạc. Một hôm vua thả thuyền chơi trên sông Nhị, rồi đi lần xuống tận bến Đông Bộ Đầu (3). Vua lãng ngâm rằng: Vụ ế chung thanh tiểu, Sa bình thụ ảnh trường. Nghĩa là: Mù tỏa tiếng chuông nhỏ, Cát phẳng bóng cây trường (dài). Các quan chưa ai nối được vần, nàng Đào liền ứng khẩu được ngay: Hàn than ngư hấp nguyệt, Cổ lũy nhạn minh sương. Nghĩa là: Bến lạnh cá đớp nguyệt, Lũy cổ nhạn kêu sương. Vua khen ngợi hồi lâu rồi nhân đó gọi là: "ả Hàn Than". Vua Dụ Tôn mất, nàng phải thải ra ở ngoài phố, thường đi lại nhà quan Hành khiển là Ngụy Nhược Chân. Bà vợ quan Hành khiển không có con mà tính hay ghen, ngờ Hàn Than tư thông với chồng, bắt nàng đánh một trận rất là tàn nhẫn. Nàng tức tối vô cùng, bèn đem những trâm hoa bằng vàng ngọc bán đi để thuê thích khách vào nhà Nhược Chân trả thù. Nhưng thích khách đến, bị người nhà Nhược Chân bắt được, lúc đem tra khảo, hắn xưng ra Hàn Than. Hàn Than sợ, phải cạo trọc đầu và mặc đồ nâu sồng, trốn đến tu ở chùa Phật Tích (4), giảng kinh thuyết kệ, chỉ mấy tháng đã làu thông lắm. Nàng có dựng ra am gọi là am Cư Tĩnh, mời họp các văn nhân để xin một bài bảng văn. Bấy giờ trong làng có một cậu học trò tuổi độ 14, 15, cũng đến hội họp. Hàn Thanh khinh là còn ít tuổi, nói đùa rằng: - Anh bé con này cũng làm văn được à? Vậy thử làm cho tôi xem nào. Cậu học trò không tỏ vẻ giận gì cả, lui lại dò hỏi được gốc tích Hàn Than, rồi làm bài văn như sau: Cái văn: Phật bản từ bi, kỳ danh viết giác, Nhân năng thanh tịnh, tức ngụy thành chân. Năng tu pháp giới tân lương, Tiện thị tùng lâm tông chủ. Kính duy Phật Tích am sơn chủ Đào Thị Danh đào nhạc tịch, Đính lễ Phạm vương. Đào khẩu liễu yêu, trạo thiệt tế tài án duyệt Lương Châu kỷ khúc, Từ vân tuệ nhật, đài đầu gian dĩ quy y Đâu suất chư thiên. Quần phao tương thủy tằng tằng, Mấn lạc Sở vãn đoạn đoạn. Mộng lý vô đoan xúc cảnh, bán chẩm du tiên, Phong tiền hà xứ liêu nhân, sổ xoang đoản địch. Ca viện bất như tăng viện tĩnh, Nạp y tuyệt thắng vũ y lương. Thủy cúc Tào khê, do phân khuy kính ảnh, Dạ tuyên bối diệp, thượng tác nhiễu lương thanh. Tuy vân thiền định vong cơ, Phả nại cuồng tâm bị tửu. Túc bất hướng Tầm Dương tống khách, Thân khước lai Hàng Quận tham thiền. Ngũ Lăng nhi phao cẩm triền đầu, tuy tùy vị dĩ, Tam sinh khách kết Liên hoa xã, chiêu dẫn hà tần. Y! chung tàn trà yết vô dư sự, Hảo hướng sơn phòng nhất đả miên. Dịch: Mảng nghe: Phật vốn từ bi, gọi tên là Giác, Người mà thanh tĩnh, hóa giả thành chân. Muốn lên tông chủ trong rừng thiền, Hãy gắng tu trì trong cõi phép. Kính nghĩ am chủ ở núi Phật Tích là Đào Thị, Sổ ca nhạc rút tên ra khỏi. Cửa Phạm vương (5) núp bóng tìm vào, Miệng đào lưng liễu, uốn lưỡi vừa véo von mấy khúc Lương Châu (6). Nhật sáng mây lành, nghển đầu đã tựa nương dưới trời Đâu Suất (7), Quần ném dòng Tương lớp lớp. Tóc rơi mây Sở từng từng, Trong mơ xúc cảnh bâng khuâng, du tiên nửa gối, Trước gió ghẹo người réo rắt, đoản địch vừa xong. Phòng tăng vắng vẻ khác phòng ca, áo đạo nhẹ nhàng hơn áo múa. Khe Tào múc nước (8), chợt ngờ mặt phấn trong gương, Lá bối (9) tụng kinh, còn thoảng âm vang trước nóc (10). Mùi thiền dẫu bén, Lòng tục chưa phai. Bến Tầm Dương (11) không đến gẩy tỳ bà, Chùa Hàng Quận (12) lại vào nghiền kinh kệ. Gấm triền đầu phấp phới, theo đuổi chưa thôi (13), Hội Liên Hoa dập dìu, đón mời sao khéo (14). Ôi! chuông tàn trà cạn ngồi chi nữa? Buồng núi vào tìm một giấc say. Bài văn làm xong, viết lớn rồi dán vào cửa chùa, xa gần đua nhau chép. Hàn Than nhân thế, đương đêm bỏ chùa mà trốn. Nghe chùa Lệ Kỳ (15) ở hạt Hải Dương là một nơi nước tú non kỳ, phong cảnh tuyệt đẹp, trụ trì có sư già Pháp Vân và sư bác Vô Kỷ, bèn đến chùa xin bái yết. Pháp Vân không nhận và bảo Vô Kỷ rằng: - Người con gái này, nết không cẩn nguyện, tính bén lẳng lơ, tuổi đã trẻ trung, sắc lại lộng lẫy, ta e lòng thiền không phải đá, sắc đẹp dễ mê người; tuy sen hồng chẳng nhuộm bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng nguyệt. Vậy ngươi nên liệu lời từ chối, đừng để hối hận về sau. Vô Kỷ không nghe, lại cứ nhận cho Hàn Than ở. Pháp Vân lập tức dời lên ở tận trên đỉnh núi Phượng Hoàng. Hàn Than tuy ở chốn thanh tịnh nhưng nết cũ vẫn chưa từ bỏ. Mỗi lúc ở nhà dưới đi lên mặc áo lụa, mang quần là, điểm môi son, tô má phấn. Cõi dục đã gần, máy thiền dễ chạm, bèn cùng Vô Kỷ tư thông. Hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, chẳng khác nào con bướm gặp xuân, trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý gì đến kinh kệ nữa. Hằng ngày hai người cùng nhau làm thơ liên cú, phàm những cảnh vật trong núi, cái gì có thể ngâm vịnh được đều dấp bút đề vịnh để ghi danh thắng. Những thơ như thế nhiều lắm không thể chép hết được, xin thuật ra đây độ một hai phần: Sơn Vân Dao đễ nùng hoàn đạm, Thiên biên thấp vị hy. Hiểu tùy sơ vũ khứ, Mộ đới lạc hà quy. ái đại nhân phong quyển, Du dương đáo xứ phi. Tăng dung đồng diệc lãn, Thùy vị yểm nham phi. Dịch: Mây núi Bên trời đậm nhạt không thường, Ráng chiều mưa sớm bốn phương đi về. Sư lười tiểu cũng lười ghê, Siêng năng khép cửa bồ đề ấy ai? Sơn vũ Nhất vũ thiên nham mính, Tiêu tiêu tác ý minh. Châu cơ đôi địa sắc, Tinh đẩu lạc thiên thanh. Lựu đoạt toàn lưu cấp, Lương hồi khách mộng thanh. Sơn phòng vô cá sự, Nhập dạ kỷ tàn canh. Dịch: Mưa núi Rào rào một trận mưa rơi, Đầu non ngọc rụng, lưng trời sao sa. Nước xô hơi lạnh vào nhà, Buồng sâu quạnh vắng đêm tà tà canh. Sơn phong Linh lại khư u động, Chung tiêu sách sách thanh. Phiên hoa hồng ý loạn, Quyển thụ lục âm kinh. Tăng nạp hàm lương thiển, Chung lâu tống hưởng thanh. Mang mang thiên địa nội, Phi vị bất bình minh. Dịch: Gió núi Thâu đêm tiếng thổi ào ào, Hoa xơ xác thắm, cây rào rạt xanh. Chuông lầu đưa tiếng thanh thanh, Không gian nào phải bất bình mà kêu. Sơn nguyệt Ẩn ẩn lâm sao quýnh, Liên không hạo khí phù. Hàm sơn ngân kính khuyết, Cách vụ ngọc bàn thu. ảnh lạc tùng quan tĩnh, Lương hồi trúc viện u. Thanh quang tùy xứ hữu, Hà tất thướng Nam lầu. Dịch: Trăng núi Sau rừng khí sáng lên cao, Long lanh gương bạc gác vào đỉnh non. Bóng soi mát dịu tâm hồn, Lên lầu Nam, lọ phải còn tốn công (16). Sơn tự Nhất thốc huy kim bích, Nham yêu ẩn tịch dương. Phong cao tùng húng lãng, Thiên cận quế phiêu hương. Động tiểu cầm thanh náo, Phong tà tháp ảnh trường. Trần gian danh lợi khách, Vọng thử kỳ bàng hoàng. Dịch: Chùa núi Âm thanh ẩn dưới bóng tà, Thông cao hát gió, quế già phun hương, Chim rừng ríu rít kêu vang, Khách trần ai có mơ màng chăng ai? Sơn đồng Sinh trưởng tiều tô địa, Ninh tri thiển thảo nguyên. Cuồng ca vân hắc ám, Đoản địch nhật hoàng hôn. My lộc phù ê lữ, Yên hà thủy thạch thôn. Quy lai thâm động lý, Vân bế tiểu càn khôn. Dịch: Tiểu đồng trong núi Năm năm sinh trưởng trong rừng, Đùa mây hát sớm, thét trăng còi chiều. Bạn bầy chim đá nai hươu, Càn khôn riêng mở bên đèo khói mây. Sơn viên Ẩn ước sào nam lữ, Duyên nhai nhật kỷ hồi. Sầu tương Ba lệ lạc, Thanh nhập Sở vân ai. ẩm giản hô bằng khứ, Văn kinh tác bạn lai. Vân thâm hà xứ mịch, Sơn sắc chính thôi ngôi. Dịch: Vượn núi Non cao ngoăn ngoắt leo chơi, Tiếng kêu buồn để cho người rơi châu. Uống khe dắt rủ bạn bầu, Ngàn mây ẩn bóng biết đâu dò tìm. Sơn điểu Thân thế vân yên ngoại, Y y tận nhật nhân. Nhất thanh sơn sắc minh, Sổ cá tịch dương hoàn. Tăng củng hàm lai quả, Sào thê đáo xứ san. Chu thu thùy hội ý, Phi nhiễu tiết la gian. Dịch: Chim núi Khói mây ngày tháng thong dong, Kêu trong sắc núi, vờn trong bóng chiều. Tha quả chín, đậu đồi kiêu, Bên rừng lá rậm dập dìu liệng quanh. Sơn hoa Noãn nhập cao đê thụ, Chi chi hỏa dục nhiên. Đông tây hà thế giới, Viễn cận cẩm sơn xuyên. Hồng vũ lâm yêu đọa, Hương phong động khẩu truyền. Tự khai hoàn tự lạc, Kim cổ kỷ xuân thiên. Dịch: Hoa núi Xuân sang đỏ ối cành cành, Mây thêu gấm dệt bao quanh bốn bề. Sắc hương man mác rừng khe, Cổ kim từng biết bao khi nở tàn. Sơn diệp Nhất bích thiên vô tế, Tùng điều nhân vọng mê. Thu lai hoàng bị kính, Xuân đáo lục doanh khê. Trú quyện vô nhân tảo, Yên thâm hữu điểu đề. Thương nhiên khan bất tận, Thiên lý tịch dương tê (tây). Dịch: Lá núi Lưng không bát ngát bốn bề, Thu sang ngập úa, xuân về rợp xanh. Chim kêu ríu rít đầu cành, Tà dương bóng ngả chênh chênh ngàn đoài. Hai người ham mê nhau quá, chỉ cốt cái thú vui sướng trước mắt. Nhưng vui quá hóa buồn, lẽ tự nhiên như thế, không có gì là lạ. Năm Kỷ Sửu (1349) nàng quả vì có thai rồi ốm, lay lứt từ mùa xuân đến mùa hạ, ngồi lên nằm xuống, tất thảy đều có người đỡ vực. Sư Vô Kỷ vốn không biết thuốc, lại không biết đường chạy chữa, khiến nàng sau phải nằm quằn quại chết ở trên giường cữ. Vô Kỷ xót thương vô hạn, quàn nàng ở cuối mái hành lang phía Tây, sớm tối vỗ vào áo quan mà khóc rằng: - Em ơi, em vì anh mà chết một cách oan uổng. Nếu anh được theo em cùng chết, anh rất sẵn lòng, khỏi để em vò võ một mình ở nơi chín suối. Huống chi khi em bình sinh vốn thông tuệ, khác hẳn với mọi người thường, nếu có linh thiêng, xin sớm cho anh được theo về dưới đất, anh không muốn lại trông thấy sư cụ Pháp Vân nữa. Sau mấy tháng Vô Kỷ cũng vì nhớ thương mà thành ốm, lai rai đến nửa năm trời, bỏ cả cơm cháo. Một đêm thấy Hàn Than hiện đến bảo rằng: - Thiếp buổi trước ngàn dâu xế bóng, cửa Phật nương mình, đáng cười thay chưa dứt lòng trần, thêm ngán nỗi còn vương nợ nghiệt, đài Dao mệnh dứt, đến nỗi chia bày, sống còn chưa được thỏa yêu đương, chết xuống sẽ cùng nhau quấn quýt. Mong chàng hiểu câu lục như (17), như bỏ giường thiền tứ đại (18), tạm rời cảnh Phật, về chốn suối vàng để thiếp được ngửa nhờ Phật lực, thác hóa đầu thai, đặng trả cho xong một cái nợ oan gia ngày trước. Nói xong thì không thấy đâu cả. Từ đấy bệnh Vô Kỷ ngày càng nguy kịch. Sư cụ Pháp Vân nghe tin, xuống núi để thăm, thì bệnh đã không thể cứu vãn được nữa, đành chỉ trông nhau ứa nước mắt, rồi một lát thì Vô Kỷ chết. Đêm hôm ấy gió mưa dữ dội, ở kinh đô có nhiều nhà lật mái đổ tường. Bà vợ quan Hành khiển Ngụy Nhược Chân chiêm bao thấy hai con rắn cắn vào mạng sườn ở dưới nách bên tả. Sau đó rồi bà có mang sinh ra được hai người con trai, đặt tên người con lớn là Long Thúc, người con bé là Long Quý. Hai đứa trẻ ấy mới đầy một tuổi đã biết nói, lên tám tuổi đã biết làm văn, được cha mẹ rất là yêu quý. Bây giờ đang giữa mùa hè nóng bức, Nhược Chân một hôm ngồi hóng mát trên cái lầu cao. Cửa lầu trông xuống đường, có một vị thầy tu đói khó đi qua ở dưới, dùng dằng trông ngắm, muốn đi mà không đi dứt được. Chợt rồi người ấy phàn nàn: - Lạ thay tòa lâu đài thế kia mà rồi sẽ thành cái vực của thuồng luồng. Đáng tiếc! Đáng tiếc! Nhược Chân sợ hãi thất sắc, vội chạy theo hỏi; ban đầu thầy tu không chịu nói, chỉ bảo vừa rồi bàng hoàng nói nhảm chứ không thấy có gì lạ, xin bất tất phải nghi ngờ. Nhưng Nhược Chân cứ cố khẩn nài, thầy tu mới bảo là nhà ông chứa đầy khí yêu quái, nếu không là nghiệp báo kiếp trước thì tất là oan gia kiếp này; người ta đã ở trong nhà ông, chỉ năm tháng nữa thì cả nhà không còn sống sót một mống. Nhược Chân kêu xin cứu cho, thầy tu nói: Tôi vốn có con mắt xem người rất sành. Xin cho tôi xem tất cả người trong nhà, hễ tôi thấy đúng người nào thì gõ vào chậu để cho ông biết. Nếu tiết lộ ra một lời thì tai vạ xảy ra ngay lập tức. Nhược Chân gọi tất cả người nhà ra lạy chào; thầy tu xem khắp lượt rồi lắc đầu nói: - Đều không phải cả. Vị tất đã biến thành hình. Lại hỏi trong nhà còn ai phải gọi nốt ra. Nhược Chân vào gọi nốt hai con trai đang ngồi trong nhà học. Khi hai người con trai đến, thầy tu liền gõ vào chậu rồi nức nở khen: - Quý hóa thay hai cậu con trai! Sau này làm nên sự nghiệp lừng lẫy, vẻ vang cho nhà và danh giá với đời, tất nhiên là những cậu này. Hai người đều giận nói: - Thầy chùa ở đâu đến đây mà bẻm mép tán xằng gì thế? Nói rồi đều phất áo đi vào. Nhược Chân không bằng lòng; thầy tu cũng từ giã ra đi. Đêm hôm ấy, Long Quý khóc bảo với Long Thúc rằng: - Vị yêu tăng hôm nay, lời nói ba hoa hình như có ý dòm dỏ. Nếu hắn mà biết, e rằng sẽ nguy cho chúng ta lắm đấy. Long Thúc cười mà rằng: - Trừ được chúng ta, duy có một sư cụ Pháp Vân. Còn những kẻ khác, ta chỉ giơ tay là cướp được bùa dấu của họ. Huống chi Nhược Chân đối với ta, tất vì tình cốt nhục mà không hiềm nghi gì cả, ta có thể yên ổn không lo ngại gì. Bấy giờ Nhược Chân nằm ngủ không yên, đang dậy đi một mình thơ thẩn, tình cờ do chỗ khe cửa sổ mà nghe lóng được, sợ hãi kinh hoàng không biết tính thế nào. Ngày hôm sau, nói vờ là có chút việc, từ nhà ra đi, dò thăm khắp chốn danh lam, tìm hỏi vị sư cụ có tên hiệu là Pháp Vân. Trải hơn một tháng đến tìm chùa ở Lệ Kỳ, thấy gã tiểu đồng nói hồi nhỏ có nghe tên hiệu ấy nhưng sư cụ đã dời vào núi sâu từ lâu rồi. Tiểu đồng nhân trỏ lên ngọn núi Phượng Hoàng (19) mà bảo: - Sư cụ ở trên núi kia kìa. Nhược Chân bèn xắn áo đi lên, qua bốn năm dặm nữa mới tới chỗ sư cụ ở. Bấy giờ sư cụ đang nằm ngủ ở trên ghế tiếng ngáy như sấm, hai bên tả hữu có hai chú tiểu đứng hầu. Nhược Chân khúm núm đi lên, hai gã tiểu đồng quát mắng làm cho sư cụ tỉnh giấc. Nhược Chân đến trước sụp lạy và kể cái bản ý tìm đến của mình. Sư cụ cười mà rằng: - Sao tiên sinh lầm thế? Lão phu thân không ở chùa chiền, chân không đến thành thị đã lâu năm rồi. Nay chỉ có thể ở trong am cỏ, quét đất thắp hương, tụng kinh Lăng nghiêm mấy lần. Chứ còn đến bay bùa chạy dấu thì không phải là việc của lão. Sư cụ từ chối rất dứt khoát. Hai tiểu đồng đứng bên bàn rằng: - Đức Phật nhà ta lấy từ bi làm bè, tế độ làm cửa, thương bể khổ trôi nổi, cứu sông mê đắm chìm. Bởi vì ngài muốn ai nấy cùng sang bỉ ngạn, cùng gội thiện duyên. Nếu thầy nhất định chối từ thì sao làm rộng đạo nhà Phật ra được. Bấy giờ sư cụ mới vui vẻ nhận lời. Bèn dựng một đàn tràng ngay ở trên núi, treo đèn bốn mặt và lấy bút son vẽ bùa dấu. Ước độ trống canh thì có đám mây đen mươi trượng bao bọc ở chung quanh đàn, một cơn gió lạnh thổi ào làm cho người phải ghê rợn. Sư cụ cầm cây tích trượng chỉ huy tả hữu, có lúc lại ra khỏi đàn làm ra bộ quát mắng. Nhược Chân ngồi ở một ngôi nhà phía xa, vén mành trông trộm; nhưng vắng lặng chẳng thấy gì cả, chỉ nghe trên không có tiếng khóc y ỷ, một lúc tiếng tắt mà đám mây cũng tan. Sáng hôm sau, sư cụ lấy một phiến đá bôi hùng hoàng vào rồi viết mực lên, trao cho Nhược Chân mà bảo: - Ông về hễ thấy loài yêu quái biến ra vật gì, kịp lấy đá này mà ném thì những mối thừa của tai họa sẽ dứt được hết. Nhược Chân về đến nhà. Thấy người nhà đương ngồi châu đầu mà khóc. Bà vợ kể chuyện canh ba đêm nọ, hai con trai cùng dắt nhau xuống giếng mà chết, nước giếng dâng lên hầu ngập cả thềm, hiện ra hai cái thây đều đã quàn ở vườn nam, chỉ đợi Nhược Chân về thì đem mai táng. Nhược Chân hỏi: - Trước lúc chết, chúng có nói gì không? Người nhà nói: - Chúng chỉ phàn nàn là giá chậm độ mấy tháng nữa thì công việc xong, không ngờ bị kẻ cuồng tăng làm hại. Nói xong, lại gào khóc. Nhược Chân can ngăn rồi cùng ra vườn nam mở nắp quan tài để xem. Khi mở thấy hai cái thây đã hóa thành hai con rắn vàng, lấy hòn đá ném thì chúng liền nát ra tro cả. Vợ chồng liền sắm nhiều vàng lụa đem đến tạ ơn sư cụ Pháp Vân. Nhưng đến nơi thì thấy am cỏ rêu phong, không tìm nhận ra được vết đi nào cả, nhân buồn bã cùng nhau trở về.[/SIZE] [SIZE=5][B] [I]Lời bình:[/I][/B] [I]Than ôi! Theo về dị đoan chỉ là có hại (20). Huống chi đã theo lại còn không giữ cho đúng phép, thì mối hại phỏng còn xiết nói được ư? Gã Vô Kỷ kia, là một kẻ gian dâm, buông thói tà dục, chẳng những dối người lại còn dối Phật của hắn thờ nữa. Giả đem xử vào cái tội như vua Ngụy giết bọn Sa Môn (21) ngày xưa thì hắn cũng không oan chút nào.[/I] [I]Thế còn Nhược Chân thì hẳn là không có lỗi chăng? Đáp rằng làm quan mà như thế, còn gì gọi là chính gia được nữa! Mầm vạ mọc lên, suýt nữa hãm vào bước nguy khốn, chính mình làm mình chịu, không đáng lấy làm lạ chút nào.[/I] [B][I]Chú thích[/I][/B]: [I](*) Nguyên văn: Đào Thị nghiệp oan ký.[/I] [I]* Nguyên văn: Tản Viên từ phán sự lục.[/I] [I](1) Từ Sơn: tên huyện, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh[/I] [I](2) Thiệu Phong: niên hiệu vua Trần Dụ Tông (1341-1357)[/I] [I](3) Đông Bộ Đầu: bến sông Hồng phía trên cầu Long Biên, gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay.[/I] [I](4) Chùa Phật Tích: nguyên chú: "Chùa núi Phật Tích thuộc xã Sài Khê, huyện Thạch Thất", tức chùa Thày, nay thuộc tỉnh Hà Tây.[/I] [I](5) Cửa Phạn Vương: cửa chùa, cửa Phật..[/I] [I](6) Khúc Lương Châu: khoảng niên hiệu Thiên Bảo đời Đường, các điệu nhạc đều lấy tên các vùng đất ngoài biên tái như Lương Châu, Cam Châu, Y Châu...[/I] [I](7) Đâu Suất: là tầng trời thứ tư trong sáu tầng dục giới, nơi Di Lặc ở và giáo hóa những người có thiện duyên (Theo kinh Phật).[/I] [I](8) Khe Tào múc nước: Đời Lương có vị cao tăng là Trí Dược từ nước Thiên Trúc vào Trung Quốc. Thuyền đến cửa Khe Tào ở Thiều Châu, thoảng thấy mùi thơm, múc nước nếm rồi bảo: "Thượng lưu dòng nước này có thắng địa". Bèn khai núi làm chùa, đặt tên là Bảo Lâm.[/I] [I](9) Lá bối: Một thứ lá cây, trước đây thường dùng chép kinh Phật.[/I] [I](10) Hàn Nga sang Tề, đi qua cửa Ung thì hết lương, phải hát rong kiếm tiền ăn; đi rồi mà tiếng hát còn văng vẳng trên nóc nhà ba ngày không dứt.[/I] [I](11) Tầm Dương: Bạch Cư Dị bị giáng chức làm tư mã Giang Châu. Một hôm đi thuyền tiễn khách, đậu ở bến Tầm Dương đã nghe tiếng đàn tì bà ai oán mà tuyệt diệu, thổ lộ tâm tình của người kỹ nữ tài hoa luống tuổi lấy người lái buôn chè. Người lái buôn ham lợi để nàng ca nữ một mình trên bến sông lạnh lùng.[/I] [I](12) Hàng Quận: Cầm Tháo là một ca kỹ ở Tây Hồ thuộc Hàng Châu, một lần tiếp Tô Đông Pha, một trong bát đại gia Đường Tống, nghe ông đọc hai câu thơ: Môn ngoại lãnh lạc yên mã hi; Lão đại giá tác thương thân phụ (Ngoài cửa lạnh lùng xe ngựa vắng; tuổi già duyên kết chú phường buôn). Cầm Tháo tỉnh ngộ bèn cắt tóc đi tu.[/I] [I](13) Đời Đường các công tử vương tôn nghe hát, thường lấy gấm quàng đầu con hát để thưởng, gọi là "phao cẩm triền đầu" (Ném gấm quấn đầu).[/I] [I](14) Thầy chùa Tuệ Viễn đời Tấn cùng các bạn tu 15 người họp thành hội Bạch Liên hoa, viết thư mời Đào Uyên Minh đến dự, Uyên Minh bảo có rượu mới tới. Viễn nhận lời, nhưng Uyên Minh đến lại không có rượu, ông chau mày bỏ đi.[/I] [I](15) Chùa Lệ Kỳ: Nguyên chú: "Chùa Lệ Kỳ nay thuộc huyện Chí Linh". Chí Linh nay thuộc tỉnh Hải Dương.[/I] [I](16) Dữu Lượng đời Tấn làm Đô đốc Kinh Châu thường lên lầu Nam thưởng nguyệt.[/I] [I](17) Kệ lục như: Bài kệ trong kinh Phật nói hết thảy mọi việc đời đều: như mộng, như huyễn, như bọt, như sương, như điện, như bóng (tám điều như).[/I] [I](18) Giường thiền tứ đại: Kinh Phật nói thân thể người ta là do tứ đại (đất, nước, lửa, gió) hợp thành. Tô Đông Pha vốn chơi thân với sư Phật ấn. Một hôm ông Tô đến chơi, Phật ấn đùa bảo "Quan nội hàn đến làm gì? ở đây không có chỗ ngồi". Ông Tô đùa lại: "Xin mượn cái "tứ đại" của sư làm giường thiền".[/I] [I](19) Núi Phượng Hoàng: nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.[/I] [I](20) Câu này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ. Nhà nho coi các học thuyết khác (không phải đạo nho) là "dị đoan", ở đây chỉ đạo Phật.[/I] [I](21) Thôi Hạo đời Ngụy ghét đạo Phật. Nhân vua Ngụy đến thành Trường An, vào một ngôi chùa, thấy có binh khí và nhà hầm giấu con gái, Hạo bèn xin vua giết hết sa môn (sư) trong thiên hạ.[/I] Hết chương 7 mời các bạn đọc tiếp chương 8[/SIZE] [URL='https://vnkienthuc.com/threads/truyen-ki-man-luc-chuong-8-chuyen-chuc-phan-su-den-tan-vien-butnghien-com.79894/']Chương 8: Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên [/URL] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Truyện dài
Truyền kì mạn lục- Chương 7: Chuyện nghiệp oan của Đào Thị-Butnghien.com
Top