Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Truyện dài
Truyền kì mạn lục-Chương 11: Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang -Butnghien.com
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 181963" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 18px"><strong> <strong><strong>Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 14 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ</strong> </strong> </strong></span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Chương 14: Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na</strong></span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Đất Thanh Hóa phần nhiều là núi, bát ngát bao la đến mấy nghìn dặm. Trong đó có một ngọn núi cao chót vót, tên gọi là núi Na. Núi có cái động, dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu, bụi trần không bén tới, chân người không bước tới. Hàng ngày, trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đổi lấy cá và rượu, cốt được no say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông già, trẻ con dưới đồng bằng lại nói những chuyện trồng dâu, trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên, nhà cửa, tiều phu chỉ cười không trả lời. Mặt trời ngậm núi, lại thủng thỉnh về động. Đương thời cho là người thuộc hạng Thần Môn, Tiếp Dư chứ Thái Hòa(1) trở xuống đều không đủ kể.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau đến năm Khai Đại(2) nhà Hồ, Hán Thương đi săn, chợt gặp người ấy trên đường, vừa đi vừa hát rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Na chi sơn hữu thạch toàn ngoan,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thụ thương thương,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Yên mịch mịch,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thủy sàn sàn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Triêu hề ngô xuất,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mộ hề ngô hoàn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hữu y hề chế kỹ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hữu bội hề nhận lan.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thát bài thanh hề bình hiểu chướng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Điền hộ lục hề chẩm tình than.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhậm tha triều thị</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhậm tha xa mã,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tri trần bất đáo thử giang san.</span></p><p><span style="font-size: 18px">U thảo Tống triều cung kiếm,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cổ khâu Tấn đại y quan.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vương, Tạ phong lưu,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Triệu, Tào sự nghiệp,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Toán vãng cổ lai kim khanh tướng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thạch triện đài man.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tranh như ngã trạo đầu nhất giác,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hồng nhật tam can.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trên Na sơn đá mọc ngổn ngang</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cây xanh xanh,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Khói mờ mịt,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nước tuôn tràn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sáng chừ ta ra đi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chiều chừ ta về ngàn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">áo ta mặc chừ sẵn đây cây lá,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cổ ta đeo chừ nào chuỗi cỏ lan.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Núi phơi xanh chừ bình phong sương sớm,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ruộng trải biếc chừ gối thác chon von.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mặc ai xe ngựa,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mặc ai phố phường,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nước non riêng chiếm, bụi đời không vương.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cung kiếm Tống triều, vùi cỏ rậm,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mũ đai Tấn đại, lấp gò hoang.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sự nghiệp Triệu, Tào(3)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Phong lưu Vương, Tạ(4)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngẫm lại cổ kim bao đời khanh tướng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Rêu phủ bia tàn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sao bằng ta: mặt trời đã cao ba thước,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Giấc điệp hãy mơ màng.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trần thị băng thanh dịch thơ</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hát xong rồi phất áo đi thẳng. Hán Thương đoán chắc đó là một vị ẩn sĩ, bèn sai quan hầu là Trương công đi theo mời lại. Nhưng Trương theo gần đến nơi thì người ấy đã rảo bước vào động, vội gọi cũng không trả lời, chỉ thấy cưỡi mây lách khói, đi trong khoảng cành tùng khóm trúc. Biết đó không phải là người thường, bèn rón bước theo sau, rẽ cỏ lấy đường, đi ước chừng vài dặm. Song đường núi gập ghềnh, càng vào sâu càng khó đi lắm, rồi trong thoắt chốc đã chẳng thấy người đâu cả. Ngẩng lên trông, bóng chiều gác đầu núi, cây cỏ đã bắt đầu lờ mờ, bàng hoàng muốn về, nhưng không kịp. Bỗng nghe tiếng gà gáy trên một khóm trúc, Trương mừng rỡ nghĩ rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Từ đây đến chỗ có nhà người ở cũng không xa gì. Chống gậy trèo lên thì thấy một cái am cỏ, hai bên tả hữu trồng mấy cây kim tiền, chen lẫn những cây bích đào hồng hạnh, tất cả đều xanh tốt đáng yêu. Trong am đặt một chiếc giường mây, trên giường để đàn sáo và chiếc gối dựa. Hai bên vách đông tây đều chát keo trắng và đề hai bài ca, một bài là Thích ngủ, một bài là Thích cờ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bài ca thích ngủ</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngô hà ái? ái duy miên,</span></p><p><span style="font-size: 18px">ái vị an thư thích tính nhiên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thiển mặc trướng thiêm tân phú quý,</span></p><p><span style="font-size: 18px">ủy đằng sàng kết cựu nhân duyên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mai chi hiên, trúc chi viên,</span></p><p><span style="font-size: 18px">U cư thú vị hữu lâm tuyền.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thanh nô ủng hậu,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hồng hữu la tiền.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mỗi dẫn hắc điềm thắng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">lương tứ khinh biền.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Song yểm nhĩ hồng trần thế thượng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiểu khúc quăng bạch ốc vân biên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ký ngạo thảo lư, Nam Dương nhàn nhật nguyệt,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Khiếm thân vân quán, Triệu Tống trách sơn xuyên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bắc song ngâm hồn dị xúc,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tây đường xuân mộng thường viên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thư lâu sơ quyển tịch,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tửu điếm dục tình thiên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Huyền hạc Hoàng Châu dạ dạ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mỹ nhân Tương thủy niên niên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hữu thời hướng túy hương đả ngọa,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thảo phô nhân, hoa phô ác, địa phô chiên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bành Trạch dạ thâm, bán liêm tàn nguyệt,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Liêm Khê viện tĩnh, nhất chẩm đề quyên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhậm nhân đạo vi lãn phu sĩ, vi khát</span></p><p><span style="font-size: 18px">thụy hán, vi ẩn thần tiên.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thích gì? Ta thích ngủ thôi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vì chưng ngủ được, trong người sởn sang.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhân duyên xe chặt giường màn,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trúc mai, rừng, suối, muôn vàn cảnh thanh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Quanh mình bạn đỏ hầu xanh,(5)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Giấc ngon bừng tỉnh, tâm linh nhẹ vèo.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bưng tai chuyện thế eo xèo,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Khoanh tay ngất ngưởng, nằm khoèo bên mây.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lều tranh một túp xinh thay,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nam Dương nọ kẻ tháng ngày thảnh thơi.(6)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Quán Vân(7) uể oải nằm dài,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Non sông coi nhỏ kìa ai Tống triều.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lầu tây, Song bắc tiêu diêu,(8)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Khi mai quán rượu lúc chiều hiên thơ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sông Tương người đẹp(9) trong mơ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Châu Hoàng bóng hạc vật vờ cao bay.(10)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Có khi ngủ tít làng say,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đất giường cỏ nệm hoa vây làm màn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Uyên Minh ngủ dưới trăng tàn,(11)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Liêm Khê gối chợp tiếng ran quyên gào(12).</span></p><p><span style="font-size: 18px">Chê khen ai bảo thế nào:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Đồ lười biếng, bậc thanh cao, mặc lòng.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bài ca thích cờ</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngô hà ái? ái duy kỳ,</span></p><p><span style="font-size: 18px">ái vị phong vân biến thái kỳ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Liệt xứ loại long xà thất thế,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thắng biên như hùng hổ dương uy.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Xa song trì, mã song phi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Độ hà nhất tốt kháo trùng vi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bắc nam tương giới, hình thế tương y,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mặc vận phương viên động tĩnh, diệu toán vô di.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Xuân tịch tịch xạ khao tàn mộng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thủ dao dao bãi toán hương nê.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Độc lạc viên trung, tân bằng sơ định hậu,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hoàng châu lâu hiểu, mính đính bán tinh thì.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trú vĩnh thiên lưu khách cửu,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Am cao tử lạc thanh trì.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Viện giao dung thiếp tảo,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Liêm hứa tiểu đồng khuy.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Doanh thâu đổ giang sơn bán cục,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Công danh tiêu đắc thất nhàn ky.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Hồn bất giác nhất thiên hướng tịch,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Nguyệt tà song, yên tà triện, trúc tà chi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Lãng uyển thần tiên, nhàn trung độ nhật,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trường An công tử túy lúy vong quy.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tương đối xứ kiêm tá cầm, kiêm tá họa, kiêm tá bích đề thi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thích gì? Ta thích cờ thôi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Gió mây biến hóa ai ôi lạ lùng.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cơn thua, rồng rắn khi cùng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Mà xem lúc thắng hổ hùng dương oai.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngựa xe rong ruổi đường dài,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Sang sông một tốt hãm ngoài trùng vi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bắc nam hình thế riêng chia,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tới lui động tĩnh tính suy đủ đường.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Xuân êm khua tỉnh giấc vàng,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Con cờ đập mạnh hương đàn thoảng bay.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Vườn riêng xum họp bạn bày(13),</span></p><p><span style="font-size: 18px">Châu Hoàng, lầu Trúc rượu say nửa vời.(14)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngày dài lưu khách ngồi chơi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Am cao điểm tiếng quân rơi trước bàn.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiểu đồng ngấp ngó bên lan,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cô hầu quanh viện quét tàn lá rơi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Giang san vật lộn tay đôi,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Công danh quên bẵng, chuyện đời hơn thua.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngày vui thời khắc êm đưa,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trăng tà hương lạnh trúc ngơ ngẩn cành.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thần tiên nhàn nhã vườn quỳnh,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trường An công tử thích tình vui say.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong khi vui nước cờ hay,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Thêm đàn, thêm rượu, thêm đầy vách thơ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bấy giờ người tiều phu đương ngồi ngoài hiên đá, dạy con chim yểng học nói, bên cạnh có mấy đứa nhỏ ngồi đánh cờ. Thấy Trương đến, tiều phu kinh ngạc nói rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Chỗ này quạnh vắng, đất thẳm rừng sâu, chim núi kêu ran, muông rừng chạy quẩn, sao ông lại lần mò tới đây như vậy, chẳng cũng khó nhọc lắm ư?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trương nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Tôi là chức quan cung phụng của đương triều. Vì ngài là bậc cao sĩ, nên tôi được vâng mệnh đến đây tuyên triệu. Hiện có loan giá ở ngoài kia, xin ngài ngoảnh lại một chút.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiều phu cười mà rằng:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Ta là kẻ dật dân(15) trốn đời, ông lão già lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng; ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục; bạn cùng ta là hươu nai tôm cá, quẩn bên ta là tuyết gió trăng hoa; chỉ biết đông kép mà hè đơn, nằm mây mà ngủ khói; múc khe mà uống, bới núi mà ăn; chứ có biết gì đâu ở ngoài là triều đại nào, vua quan nào?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Bèn mời Trương ở lại làm tiệc thết, cơm thổi bằng hạt điêu hồ(16), canh nấu bằng rau cẩm đái(7), lại còn có mấy món rau suối khác nữa. Canh khuya chuyện trò, đều là những nghĩa lý đáng nghe cả, nhưng không một câu nào đả động đến việc đương thời. Hôm sau, Trương lại mời:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Những bậc quân tử đời xưa, không phải là không muốn giúp đời hành đạo; khi ẩn kín ở một chỗ, chỉ là còn đợi giá mà thôi. Cho nên tất có bức tiếu tượng đi tìm, rồi sau đồng Thương mới thấm nước(18), tất có cỗ hậu xa đi chở, rồi sau nội Mục mới thành công(19). Nay phu tử lấy tấm thân vàng ngọc, ôm một bọc kinh luân, ngoài vòng vinh lợi, vùi lấp tiếng tăm trong đám người đánh cá hái củi, giấu tài giúp vua cứu dân, náu mình chốn rừng suối, vang tiếng đến cửu trùng; đốt nón lá, xé áo tơi, nay chính là đến lúc rồi đó. Dám xin bỏ bờ đập Phó Nham, ném cần câu sông Vị, đừng để uổng hoài khát vọng của bao kẻ thương sinh.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiều phu nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Kẻ sĩ ai có chí nấy, hà tất phải vậy! Cho nên Nghiêm Tử Lăng không đem chức Gián nghị ở Đông đô đánh đổi khỏi sóng sông Đồng (20), Khương Bá Hoài không đem bức tranh vẽ của thiên tử làm nhơ non nước Bành Thành (21). Tài ta tuy kém, so với người xưa chẳng bằng được, nhưng may lại giàu hơn Kiềm Lâu, thọ hơn Vệ Giới, no hơn Viên Tinh, đạt hơn Phụng Thiến (22), kể thì cũng đã được trời đất ban cho khá nhiều. Nếu lại còn tham cầu những cái ở ngoài phận mình, len lỏi vào đường làm quan, chẳng những xấu hổ với các bậc tiên hiền, lại còn phụ bạc với vượn hạc ở trong núi. Vậy xin ông đi đi, đừng nói lôi thôi gì nữa.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trương nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Ngài cho là thời nay không đủ để cho ngài làm việc hay chăng? Nay có đấng thánh nhân trị vì, bốn bể đều ngóng trông, người Chiêm dâng đất mà xưng thần, quân Minh nộp lễ để xin lui (23), Lão qua (24), Đại lý (25) các nước cũng tranh nhau quy phục. Hiện chỉ còn thiếu các bậc ẩn dật ở rừng núi ra giúp rập, khiến cho huân đức của chúa thượng được sánh cùng các vua Nghiêu, Thuấn ngày xưa. Ngài nếu định trọn đời ẩn lánh, bắt chước như Vụ Quang, Quyên Tử (26) thì cứ như vậy không sao. Nhưng nếu còn để ý chút nào đến đám dân chúng, mà bỏ lỡ dịp này không ra thì tôi sợ rằng sẽ mục nát cùng cỏ cây, không bao giờ lại có dịp gặp gỡ hay này nữa.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiều phu biến sắc nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Như lời ông nói, há chẳng phải là khoe khoang quá khiến cho người nghe phải thẹn thùng sao! Vả vị vua ngự trị bây giờ có phải họ Hồ không?</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Chính phải.</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Có phải là đã bỏ khu Long Đỗ về ở đất An Tôn (27) không?</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Phải.</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Ta tuy chân không bước đến thị thành, mình không vào đến cung đình, nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bây giờ là người thế nào. Ông ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu(28), dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai (29); phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay thì giết, kẻ nói điều nịnh thì thưởng; lòng dân động lay, nên đã xảy ra việc quân sông Đáy (30) bờ cõi chếch mếch nên đã mất dải đất Cổ Lâu (31). Vậy mà các kẻ đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết. Duy có Nguyễn Bằng Cử có lượng nhưng chậm chạp (32); Hoàng Hối Khanh có học nhưng lờ mờ (33); Lê Cảnh Kỳ giỏi mưu tính nhưng không quyết đoán (34); Lưu Thúc Kiệm quân tử nhưng chưa được là bậc nhân (35); còn ngoài ra phi là đồ tham tiền thì là đồ nát rượu; phi là đồ chỉ lấy yên vui làm thích thì là tuồng lấy thế vị mà khuynh loát nhau; chứ chưa thấy ai biết những kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả. Nay ta đương náu vết ở chốn núi rừng, lo lảng tránh đi chẳng được, há lại còn xắn áo mà lội nữa ư? (36) Xin ông vui lòng trở về, làm ơn từ chối hộ kẻ cư sĩ này. Ta không thể đem hòn ngọc Côn Sơn cho nó cùng cháy trong ngọn lửa Côn Sơn được. (37)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trương nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Sự xuất xử của bậc người hiền lại cố chấp đến như thế ư?</span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiều phu nói:</span></p><p><span style="font-size: 18px">- Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong triều đình, vẩn đục, rối loạn lại còn toan kéo người khác để cùng đắm với mình.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Trương lặng im không trả lời, trở về đem hết những lời của tiều phu tâu lại với chúa. Hán Thương không bằng lòng nhưng còn muốn đem cỗ xe êm để cố đón ra kỳ được, sai Trương lại đi vào lần nữa. Nhưng vào đến nơi thì rêu trùm cửa hang, gai góc đầy núi, dây leo, cành rậm đã lấp mất cả lối đi rồi. Chỉ thấy ở trên vách đá có hai câu thơ đề bằng nhựa cây như sau:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Kỳ La hải khẩu ngâm hồn đoạn,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cao Vọng sơn đầu khách tứ sầu.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch:</span></p><p><span style="font-size: 18px">Kỳ La cửa bể hồn thơ đứt,</span></p><p><span style="font-size: 18px">Cao Vọng đầu non dạ khách buồn. (38)</span></p><p><span style="font-size: 18px">Ý lời như giọng trào phúng của họ Nguyên họ Bạch, (39) thể chữ như lối triện lệ của ông Lưu ông Tư, (40) nhưng rút lại chẳng hiểu định nói gì. Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi; núi cháy hết vẫn không thấy gì, chỉ thấy con hạc đen lượn trên không bay múa. Sau cha con họ Hồ gặp phải tai họa đều đúng như lời thơ.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Người tiều phu ấy có lẽ là kẻ sĩ đắc đạo đó chăng?</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><em><strong>Lời bình:</strong></em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em><strong>Than ôi! Có cái thần để biết việc sau, có cái trí để giấu việc trước, (41) đó là việc của thánh nhân; tiều phu tuy là bậc hiền nhưng đâu đã được dự đến hạng ấy. Tuy nói việc táng bại của nhà Hồ, đúng như là bói cỏ, bói rùa (42), nhưng chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, chứng với lòng người, nói nhiều may ra thì tin, đó là cái lẽ đời như vậy. Kẻ làm vua chúa nên lấy sự chính lòng mình để làm cái gốc chính triều đình, chính trăm quan, chính muôn dân, đừng để cho kẻ xử sĩ (43) phải bàn ra nói vào là tốt hơn cả.</strong></em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><em>Chú thích</em></strong>:</span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>1) Thần Môn: người giữ việc mở cửa thành buổi sớm. Sau Khổng Tử dùng để chỉ một hiền sĩ thời Xuân thu thấy đời rối loạn không làm gì nữa nên lánh đời, ẩn thân làm việc đó.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Tiếp Dư: tên tự Lục Thông người đời Sở Chiêu vương, giả cách rồ dại không chịu ra làm quan, người đương thời gọi là Sở cuồng (người cuồng nước Sở).</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Thái Hòa: một dật sĩ cuối đời Đường, họ Lâm, cũng giả làm bộ ngông cuồng để che giấu tung tích. Tương truyền sau cưỡi hạc lên tiên.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>2) Khai Đại: niên hiệu của Hồ Hán Thương, từ 1403 đến 1407.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>3) Triệu, Tào: Triệu Phổ và Tào Bân đều có công giúp Tống Thái Tổ thống nhất thiên hạ, dựng cơ nghiệp nhà Tống, sau đều làm Tể tướng.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>4) Vương, Tạ: Vương Đạo và Tạ An đều làm quan to đời Tấn, hai nhân vật nổi tiếng phú quý phong lưu thời đó.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>5) Bạn đỏ hầu xanh, nguyên văn là "thanh nô hồng hữu". Thanh nô là một chiếc gối làm bằng trúc xanh, mùa hè để dựa lưng hay gác tay chân cho mát. Hồng hữu là một thứ rượu.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>6) Nam Dương: tên quận, đời Tam quốc. Gia Cát Khổng Minh ở ẩn trong lầu cỏ tại Nam Dương. Lưu Bị ba lần đến mời, ông giúp Lưu Bị lập nên cơ nghiệp nhà Thục Hán.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>7) Quán Vân: quán Vân Đài ở núi Họa Sơn. Trần Đoàn, một cao sĩ đời Tống đã ẩn dật tại đấy. Mấy lần Tống Thái Tông mời ra làm quan nhưng ông không ra.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>8) Lầu tây (Tây đường): nhà phía tây. Tạ Linh Vận và Tạ Huệ Liên người đời Nam Bắc triều đều giỏi thi văn. Huệ Liên chết trước. Khi Linh Vận ở nhà phía tây quận Vĩnh Gia làm thơ, bí, suốt ngày nghĩ không ra, bỗng nằm mơ thấy Huệ Liên, liền nghĩ được câu thơ hay.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Song bắc (Bắc song): cửa sổ phía bắc. Đào Tiềm người đời Tấn, sau khi từ quan về ở ẩn vào tiết tháng sáu thường nằm đón gió ở cửa sổ phía bắc, tự cho mình là hạng người thời Phục Hi.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>9) Sông Tương người đẹp (Mỹ nhân Tương thủy): ngày xưa có một người bắt được một cái gối, đêm gối đầu nằm ngủ, nằm mơ thấy cùng người con gái đẹp đi chơi thuyền trên sông Tương.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>10) Hoàng Châu: đời Tống, Tô Đông Pha bị trích ra Hoàng Châu, đêm đi chơi thuyền trên sông Xích Bích thấy một con hạc bay qua trên thuyền, vừa bay vừa kêu. Đêm về nằm ngủ mơ thấy một đạo sĩ mặc áo lông đến chơi, Đông Pha nói: "Ta biết rồi, có phải con hạc bay qua thuyền lúc nửa đêm là người đó chăng?".</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>11) Uyên Minh (nguyên văn Bành Trạch): tên tự của Đào Tiềm, làm huyện lệnh đất Bành Trạch, ông đã bỏ quan về ở ẩn.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>12) Liêm Khê: Chu Liêm Khê đời Tống có một cái gối, hễ gối vào ngủ thì nghe tiếng chim quyên kêu.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>13) Vườn riêng dịch chữ Độc lạc viên: Tư Mã Quang đời Tống, làm ngự sử đài ở Lạc Dương, dâng sớ xin về nghỉ có làm một khu vườn chơi ở gần núi, gọi là Độc lạc viên (vườn vui riêng một mình).</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>14) Vương Vũ Xứng đời Tống, làm bài ký Lầu Trúc ở Hoàng Châu có nói về cái thú đánh cờ: Nghi vi kỳ, tử thanh tranh tranh nhiên, nghĩa là nên đánh cờ, tiếng quân cờ kêu lát chát.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>15) Dật dân: người dân còn sót lại, ý nói người ngoài vòng cương tỏa, trốn đời.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>16) Hạt điêu hồ: tên một thứ gạo.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>17) Rau cẩm đái: tên một thứ rau.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>18) Vua Cao Tông nhà Thương nằm mơ thấy Thượng đế ban cho một người phù tá giỏi. Tỉnh dậy bèn vẽ một bức tranh giống người trong mộng rồi sai người mang tranh đi tìm. Sau tìm được Phó Duyệt đang đắp tường ở Phó Nham, liền đón về làm tướng. Cao Tông nói: "Ví như năm đại hạn, ta dùng người làm mưa rào".</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>19) Vua Văn Vương nhà Chu đã đi săn gặp Khương Tử Nha (tức Lã Vọng) câu cá ở sông Vị, mời lên chiếc xe sau chở về, tôn làm bậc thầy. Sau Lã Vọng giúp nhà Chu thắng nhà Ân ở Mục Dã.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>20) Nghiêm Tử Lăng tức Nghiêm Quang, một cao sĩ đời Hán, hồi nhỏ là bạn học của Hán Quang Vũ; khi Quang Vũ lên ngôi, ông bèn đi ở ẩn, thường đi cày ở trong núi Phú Xuân và câu cá ở bến sông Đồng.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>21) Khương Bá Hoài tức Khương Quảng người đời Hán Hoàn đế, quê ở Bành Thành. Vua nghe tiếng là người hiếu thuận mời ra làm quan, Quảng không chịu ra. Vua lại sai thợ vẽ đến vẽ chân dung, Quảng che mặt không cho vẽ. Ông từng nói: Quốc chính hiện nay ở trong tay bọn hoạn quan, đó là thời nào mà mình lại ra làm quan?</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>22) Kiềm Lâu: một hiền sĩ nước Tề, đời Xuân thu, ở ẩn, không chịu làm quan. Nhà rất nghèo, khi chết chỉ có một cái chăn để liệm, hễ che kín đầu thì hở chân, kín chân thì hở đầu.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Vệ Giới: danh sĩ đời Tấn, người đẹp, tính ôn hòa nhưng chết trẻ, khi mới 27 tuổi.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Viên Tinh: Theo sách Lã thị xuân thu, Viên Tinh Mục, một kẻ sĩ ở phương nam, đi giữa đường bị đói, nằm lả đi. Một tên ăn trộm trông thấy, đưa cơm cho ăn. Tinh Mục tỉnh lại, biết người cho ăn là kẻ trộm, liền nói: Ta không thèm ăn miếng cơm bất nghĩa của người. Rồi gượng dậy cố nôn ọe ra nhưng không được, sau đó gục đầu xuống chết.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Phụng Thiến: tên tự của Tuân Xán đời Ngụy. Vợ Xán rất đẹp, Xán rất yêu quý. Mùa đông vợ Xán bị bệnh phát nhiệt, Xán ra sân đầm hơi lạnh để vào ấp cho vợ được mát. Sau vợ chết Xán cùng chết theo.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>23) Nói việc nhà Minh giả danh giúp nhà Trần khôi phục ngôi vua, đưa Trần Thiêm Bình về định cướp nước ta, nhưng bị Hồ Hán Thương đánh thua, phải giao nộp Trần Thiêm Bình rồi xin lui quân.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>24) Lão Qua: nước Lào.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>25) Đại lý: một quốc gia của người Thái, thành lập và tồn tại khoảng thế kỷ 12, 13, 14 ở Vân Nam.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>26) Vụ Quang: người đời Hạ. Vua Thành Thang đánh được vua Kiệt nhà Hạ, đem thiên hạ nhường cho Quang, Quang không nhận đeo đá gieo mình xuống sông giả cách tự tử rồi ẩn náu biệt tích.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Quyên Tử: người nước Tề, ở ẩn tại Nham Sơn, học được đạo tiên, tương truyền có tài làm mưa làm gió.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Trên đây ý nói đó là những người ẩn dật vĩnh viễn.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>27) Long Đỗ: tức Thăng Long (Hà Nội ngày nay).</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>An Tôn: tên làng nay thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa. Nhà Hồ xây Tây Đô ở đây.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>28) Kim Âu: cung Kim Âu tức cung Bảo Thanh ở làng Kim Âu. Hồ Quý Ly xây dựng cung điện này tốn kém nên bị đời sau phê phán.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>29) Hoa Nhai: Hồ Quý Ly xây thành Tây Đô, bốn cửa đều bằng đá vân nên gọi là Hoa Nhai.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>30) Sông Đáy: tức sông Tiểu Đáy chảy từ huyện Sơn Dương, Tuyên Quang về qua địa phận các huyện Lập Thạch và Tam Dương (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Tháng 8 năm Kiến Tân thứ 2 (1399) đời Trần Thiếu đế, Nguyễn Nhữ Cái nổi dậy ở vùng sông Đáy chống triều đình, quân đông đến hàng vạn. Sau bị Nguyễn Bằng Cử đánh tan. Nguyễn Bằng Cử người Bắc Ninh, làm đến chức Đông lộ yên phủ sứ đời Trần.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>31. Cổ lâu: Hồ Quý Ly cắt đất 59 thôn ở khu Cổ Lâu cho nhà Minh. Cổ Lâu chưa rõ vùng nào.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>32. Nguyễn Bằng Cử: xem chú thích 30, cùng bài.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>33. Hoàng Hối Khanh: đậu Thái học sinh đời Trần, sau làm quan với nhà Hồ.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>34. Lê Cảnh Kỳ: trước làm quan với nhà Trần, sau làm quan cho nhà Hồ đến chức Hành khiển.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>35. Lưu Thúc Kiệm: đậu đầu khoa Thái học sinh cuối đời Trần.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>36. Lấy ý trong câu nói của Vi Trung, ẩn sĩ đời Tấn. Trương Hoa mời Trung ra làm quan, ông nói: Ta còn đương lo con sóng rớt ở cái vực sâu kia tràn đến, há lại còn xắn áo mà lội nữa ư?</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>37. Thiên Dân chinh trong Kinh Thư có câu: Hỏa viêm Côn sơn, ngọc thạch câu phần, nghĩa là: Lửa đốt núi Côn, ngọc đá đều cháy, (Núi Côn Sơn có tiếng sản sinh ra ngọc quý. ý nói theo nhà Hồ rồi cũng bị khốn đốn cùng nhà Hồ.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>38. Cửa bể Kỳ La ở làng Kỳ La, huyện Kỳ Anh nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh, Năm 1407 Hồ Quý Ly bị bắt ở đấy. Núi cao Vọng ở làng Bình Lễ, cùng huyện, là nơi Hồ Hán Thương bị bắt, cũng vào năm 1407.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>39. Nguyên, Bạch: tức Nguyên Chẩn, tự Vi Chi và Bạch Cư Dị, tự Lạc Thiên là hai nhà thơ nổi tiếng đời Đường.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>40. Lưu là quan Thái sử nhà Chu, họ Lưu, người chế ra lối chữ đại triện. Tư là Lý Tư nhà Tần, chế ra lối chữ tiểu triện.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>41. Lấy ý một câu trong Hệ từ thượng truyện của Kinh Dịch: Thần dĩ tri lại, trí dĩ tàng vãng, ý nói thánh nhân là người sáng suốt có thể hiểu biết và dành giữ mọi việc trước sau ở đời.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>42. Bói cỏ bói rùa: bói cỏ thi và mai rùa để đoán việc lành dữ. Đây là cách bói của Trung Quốc thời xưa.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>43. Xử sĩ: kẻ sĩ không ra làm quan, ẩn dật, trái với xuất sĩ là đi thi làm quan.</em> </span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Hết chương 14 mời các bạn đọc tiếp chương 15</span></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/threads/truyen-ki-man-luc-chuong-15-chuyen-cai-chua-hoang-o-huyen-dong-trieu-butnghien-com.79916/" target="_blank"><span style="font-size: 18px"><strong>Chương 15: Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều</strong></span></a></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 181963, member: 288054"] [SIZE=5][B] [B][B]Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 14 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ[/B] [/B] [/B][/SIZE] [SIZE=5][B]Chương 14: Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na[/B][/SIZE] [SIZE=5]Đất Thanh Hóa phần nhiều là núi, bát ngát bao la đến mấy nghìn dặm. Trong đó có một ngọn núi cao chót vót, tên gọi là núi Na. Núi có cái động, dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu, bụi trần không bén tới, chân người không bước tới. Hàng ngày, trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đổi lấy cá và rượu, cốt được no say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông già, trẻ con dưới đồng bằng lại nói những chuyện trồng dâu, trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên, nhà cửa, tiều phu chỉ cười không trả lời. Mặt trời ngậm núi, lại thủng thỉnh về động. Đương thời cho là người thuộc hạng Thần Môn, Tiếp Dư chứ Thái Hòa(1) trở xuống đều không đủ kể. Sau đến năm Khai Đại(2) nhà Hồ, Hán Thương đi săn, chợt gặp người ấy trên đường, vừa đi vừa hát rằng: Na chi sơn hữu thạch toàn ngoan, Thụ thương thương, Yên mịch mịch, Thủy sàn sàn. Triêu hề ngô xuất, Mộ hề ngô hoàn. Hữu y hề chế kỹ, Hữu bội hề nhận lan. Thát bài thanh hề bình hiểu chướng, Điền hộ lục hề chẩm tình than. Nhậm tha triều thị Nhậm tha xa mã, Tri trần bất đáo thử giang san. U thảo Tống triều cung kiếm, Cổ khâu Tấn đại y quan. Vương, Tạ phong lưu, Triệu, Tào sự nghiệp, Toán vãng cổ lai kim khanh tướng, Thạch triện đài man. Tranh như ngã trạo đầu nhất giác, Hồng nhật tam can. Dịch: Trên Na sơn đá mọc ngổn ngang Cây xanh xanh, Khói mờ mịt, Nước tuôn tràn. Sáng chừ ta ra đi, Chiều chừ ta về ngàn. áo ta mặc chừ sẵn đây cây lá, Cổ ta đeo chừ nào chuỗi cỏ lan. Núi phơi xanh chừ bình phong sương sớm, Ruộng trải biếc chừ gối thác chon von. Mặc ai xe ngựa, Mặc ai phố phường, Nước non riêng chiếm, bụi đời không vương. Cung kiếm Tống triều, vùi cỏ rậm, Mũ đai Tấn đại, lấp gò hoang. Sự nghiệp Triệu, Tào(3) Phong lưu Vương, Tạ(4) Ngẫm lại cổ kim bao đời khanh tướng, Rêu phủ bia tàn. Sao bằng ta: mặt trời đã cao ba thước, Giấc điệp hãy mơ màng. Trần thị băng thanh dịch thơ Hát xong rồi phất áo đi thẳng. Hán Thương đoán chắc đó là một vị ẩn sĩ, bèn sai quan hầu là Trương công đi theo mời lại. Nhưng Trương theo gần đến nơi thì người ấy đã rảo bước vào động, vội gọi cũng không trả lời, chỉ thấy cưỡi mây lách khói, đi trong khoảng cành tùng khóm trúc. Biết đó không phải là người thường, bèn rón bước theo sau, rẽ cỏ lấy đường, đi ước chừng vài dặm. Song đường núi gập ghềnh, càng vào sâu càng khó đi lắm, rồi trong thoắt chốc đã chẳng thấy người đâu cả. Ngẩng lên trông, bóng chiều gác đầu núi, cây cỏ đã bắt đầu lờ mờ, bàng hoàng muốn về, nhưng không kịp. Bỗng nghe tiếng gà gáy trên một khóm trúc, Trương mừng rỡ nghĩ rằng: - Từ đây đến chỗ có nhà người ở cũng không xa gì. Chống gậy trèo lên thì thấy một cái am cỏ, hai bên tả hữu trồng mấy cây kim tiền, chen lẫn những cây bích đào hồng hạnh, tất cả đều xanh tốt đáng yêu. Trong am đặt một chiếc giường mây, trên giường để đàn sáo và chiếc gối dựa. Hai bên vách đông tây đều chát keo trắng và đề hai bài ca, một bài là Thích ngủ, một bài là Thích cờ. Bài ca thích ngủ Ngô hà ái? ái duy miên, ái vị an thư thích tính nhiên. Thiển mặc trướng thiêm tân phú quý, ủy đằng sàng kết cựu nhân duyên. Mai chi hiên, trúc chi viên, U cư thú vị hữu lâm tuyền. Thanh nô ủng hậu, Hồng hữu la tiền. Mỗi dẫn hắc điềm thắng, lương tứ khinh biền. Song yểm nhĩ hồng trần thế thượng, Tiểu khúc quăng bạch ốc vân biên. Ký ngạo thảo lư, Nam Dương nhàn nhật nguyệt, Khiếm thân vân quán, Triệu Tống trách sơn xuyên. Bắc song ngâm hồn dị xúc, Tây đường xuân mộng thường viên. Thư lâu sơ quyển tịch, Tửu điếm dục tình thiên. Huyền hạc Hoàng Châu dạ dạ. Mỹ nhân Tương thủy niên niên. Hữu thời hướng túy hương đả ngọa, Thảo phô nhân, hoa phô ác, địa phô chiên. Bành Trạch dạ thâm, bán liêm tàn nguyệt, Liêm Khê viện tĩnh, nhất chẩm đề quyên. Nhậm nhân đạo vi lãn phu sĩ, vi khát thụy hán, vi ẩn thần tiên. Dịch: Thích gì? Ta thích ngủ thôi, Vì chưng ngủ được, trong người sởn sang. Nhân duyên xe chặt giường màn, Trúc mai, rừng, suối, muôn vàn cảnh thanh. Quanh mình bạn đỏ hầu xanh,(5) Giấc ngon bừng tỉnh, tâm linh nhẹ vèo. Bưng tai chuyện thế eo xèo, Khoanh tay ngất ngưởng, nằm khoèo bên mây. Lều tranh một túp xinh thay, Nam Dương nọ kẻ tháng ngày thảnh thơi.(6) Quán Vân(7) uể oải nằm dài, Non sông coi nhỏ kìa ai Tống triều. Lầu tây, Song bắc tiêu diêu,(8) Khi mai quán rượu lúc chiều hiên thơ. Sông Tương người đẹp(9) trong mơ, Châu Hoàng bóng hạc vật vờ cao bay.(10) Có khi ngủ tít làng say, Đất giường cỏ nệm hoa vây làm màn. Uyên Minh ngủ dưới trăng tàn,(11) Liêm Khê gối chợp tiếng ran quyên gào(12). Chê khen ai bảo thế nào: Đồ lười biếng, bậc thanh cao, mặc lòng. Bài ca thích cờ Ngô hà ái? ái duy kỳ, ái vị phong vân biến thái kỳ. Liệt xứ loại long xà thất thế, Thắng biên như hùng hổ dương uy. Xa song trì, mã song phi, Độ hà nhất tốt kháo trùng vi, Bắc nam tương giới, hình thế tương y, Mặc vận phương viên động tĩnh, diệu toán vô di. Xuân tịch tịch xạ khao tàn mộng, Thủ dao dao bãi toán hương nê. Độc lạc viên trung, tân bằng sơ định hậu, Hoàng châu lâu hiểu, mính đính bán tinh thì. Trú vĩnh thiên lưu khách cửu, Am cao tử lạc thanh trì. Viện giao dung thiếp tảo, Liêm hứa tiểu đồng khuy. Doanh thâu đổ giang sơn bán cục, Công danh tiêu đắc thất nhàn ky. Hồn bất giác nhất thiên hướng tịch, Nguyệt tà song, yên tà triện, trúc tà chi. Lãng uyển thần tiên, nhàn trung độ nhật, Trường An công tử túy lúy vong quy. Tương đối xứ kiêm tá cầm, kiêm tá họa, kiêm tá bích đề thi. Dịch: Thích gì? Ta thích cờ thôi, Gió mây biến hóa ai ôi lạ lùng. Cơn thua, rồng rắn khi cùng, Mà xem lúc thắng hổ hùng dương oai. Ngựa xe rong ruổi đường dài, Sang sông một tốt hãm ngoài trùng vi. Bắc nam hình thế riêng chia, Tới lui động tĩnh tính suy đủ đường. Xuân êm khua tỉnh giấc vàng, Con cờ đập mạnh hương đàn thoảng bay. Vườn riêng xum họp bạn bày(13), Châu Hoàng, lầu Trúc rượu say nửa vời.(14) Ngày dài lưu khách ngồi chơi, Am cao điểm tiếng quân rơi trước bàn. Tiểu đồng ngấp ngó bên lan, Cô hầu quanh viện quét tàn lá rơi. Giang san vật lộn tay đôi, Công danh quên bẵng, chuyện đời hơn thua. Ngày vui thời khắc êm đưa, Trăng tà hương lạnh trúc ngơ ngẩn cành. Thần tiên nhàn nhã vườn quỳnh, Trường An công tử thích tình vui say. Trong khi vui nước cờ hay, Thêm đàn, thêm rượu, thêm đầy vách thơ. Bấy giờ người tiều phu đương ngồi ngoài hiên đá, dạy con chim yểng học nói, bên cạnh có mấy đứa nhỏ ngồi đánh cờ. Thấy Trương đến, tiều phu kinh ngạc nói rằng: - Chỗ này quạnh vắng, đất thẳm rừng sâu, chim núi kêu ran, muông rừng chạy quẩn, sao ông lại lần mò tới đây như vậy, chẳng cũng khó nhọc lắm ư? Trương nói: - Tôi là chức quan cung phụng của đương triều. Vì ngài là bậc cao sĩ, nên tôi được vâng mệnh đến đây tuyên triệu. Hiện có loan giá ở ngoài kia, xin ngài ngoảnh lại một chút. Tiều phu cười mà rằng: - Ta là kẻ dật dân(15) trốn đời, ông lão già lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng; ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục; bạn cùng ta là hươu nai tôm cá, quẩn bên ta là tuyết gió trăng hoa; chỉ biết đông kép mà hè đơn, nằm mây mà ngủ khói; múc khe mà uống, bới núi mà ăn; chứ có biết gì đâu ở ngoài là triều đại nào, vua quan nào? Bèn mời Trương ở lại làm tiệc thết, cơm thổi bằng hạt điêu hồ(16), canh nấu bằng rau cẩm đái(7), lại còn có mấy món rau suối khác nữa. Canh khuya chuyện trò, đều là những nghĩa lý đáng nghe cả, nhưng không một câu nào đả động đến việc đương thời. Hôm sau, Trương lại mời: - Những bậc quân tử đời xưa, không phải là không muốn giúp đời hành đạo; khi ẩn kín ở một chỗ, chỉ là còn đợi giá mà thôi. Cho nên tất có bức tiếu tượng đi tìm, rồi sau đồng Thương mới thấm nước(18), tất có cỗ hậu xa đi chở, rồi sau nội Mục mới thành công(19). Nay phu tử lấy tấm thân vàng ngọc, ôm một bọc kinh luân, ngoài vòng vinh lợi, vùi lấp tiếng tăm trong đám người đánh cá hái củi, giấu tài giúp vua cứu dân, náu mình chốn rừng suối, vang tiếng đến cửu trùng; đốt nón lá, xé áo tơi, nay chính là đến lúc rồi đó. Dám xin bỏ bờ đập Phó Nham, ném cần câu sông Vị, đừng để uổng hoài khát vọng của bao kẻ thương sinh. Tiều phu nói: - Kẻ sĩ ai có chí nấy, hà tất phải vậy! Cho nên Nghiêm Tử Lăng không đem chức Gián nghị ở Đông đô đánh đổi khỏi sóng sông Đồng (20), Khương Bá Hoài không đem bức tranh vẽ của thiên tử làm nhơ non nước Bành Thành (21). Tài ta tuy kém, so với người xưa chẳng bằng được, nhưng may lại giàu hơn Kiềm Lâu, thọ hơn Vệ Giới, no hơn Viên Tinh, đạt hơn Phụng Thiến (22), kể thì cũng đã được trời đất ban cho khá nhiều. Nếu lại còn tham cầu những cái ở ngoài phận mình, len lỏi vào đường làm quan, chẳng những xấu hổ với các bậc tiên hiền, lại còn phụ bạc với vượn hạc ở trong núi. Vậy xin ông đi đi, đừng nói lôi thôi gì nữa. Trương nói: - Ngài cho là thời nay không đủ để cho ngài làm việc hay chăng? Nay có đấng thánh nhân trị vì, bốn bể đều ngóng trông, người Chiêm dâng đất mà xưng thần, quân Minh nộp lễ để xin lui (23), Lão qua (24), Đại lý (25) các nước cũng tranh nhau quy phục. Hiện chỉ còn thiếu các bậc ẩn dật ở rừng núi ra giúp rập, khiến cho huân đức của chúa thượng được sánh cùng các vua Nghiêu, Thuấn ngày xưa. Ngài nếu định trọn đời ẩn lánh, bắt chước như Vụ Quang, Quyên Tử (26) thì cứ như vậy không sao. Nhưng nếu còn để ý chút nào đến đám dân chúng, mà bỏ lỡ dịp này không ra thì tôi sợ rằng sẽ mục nát cùng cỏ cây, không bao giờ lại có dịp gặp gỡ hay này nữa. Tiều phu biến sắc nói: - Như lời ông nói, há chẳng phải là khoe khoang quá khiến cho người nghe phải thẹn thùng sao! Vả vị vua ngự trị bây giờ có phải họ Hồ không? - Chính phải. - Có phải là đã bỏ khu Long Đỗ về ở đất An Tôn (27) không? - Phải. - Ta tuy chân không bước đến thị thành, mình không vào đến cung đình, nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bây giờ là người thế nào. Ông ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu(28), dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai (29); phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay thì giết, kẻ nói điều nịnh thì thưởng; lòng dân động lay, nên đã xảy ra việc quân sông Đáy (30) bờ cõi chếch mếch nên đã mất dải đất Cổ Lâu (31). Vậy mà các kẻ đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết. Duy có Nguyễn Bằng Cử có lượng nhưng chậm chạp (32); Hoàng Hối Khanh có học nhưng lờ mờ (33); Lê Cảnh Kỳ giỏi mưu tính nhưng không quyết đoán (34); Lưu Thúc Kiệm quân tử nhưng chưa được là bậc nhân (35); còn ngoài ra phi là đồ tham tiền thì là đồ nát rượu; phi là đồ chỉ lấy yên vui làm thích thì là tuồng lấy thế vị mà khuynh loát nhau; chứ chưa thấy ai biết những kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả. Nay ta đương náu vết ở chốn núi rừng, lo lảng tránh đi chẳng được, há lại còn xắn áo mà lội nữa ư? (36) Xin ông vui lòng trở về, làm ơn từ chối hộ kẻ cư sĩ này. Ta không thể đem hòn ngọc Côn Sơn cho nó cùng cháy trong ngọn lửa Côn Sơn được. (37) Trương nói: - Sự xuất xử của bậc người hiền lại cố chấp đến như thế ư? Tiều phu nói: - Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong triều đình, vẩn đục, rối loạn lại còn toan kéo người khác để cùng đắm với mình. Trương lặng im không trả lời, trở về đem hết những lời của tiều phu tâu lại với chúa. Hán Thương không bằng lòng nhưng còn muốn đem cỗ xe êm để cố đón ra kỳ được, sai Trương lại đi vào lần nữa. Nhưng vào đến nơi thì rêu trùm cửa hang, gai góc đầy núi, dây leo, cành rậm đã lấp mất cả lối đi rồi. Chỉ thấy ở trên vách đá có hai câu thơ đề bằng nhựa cây như sau: Kỳ La hải khẩu ngâm hồn đoạn, Cao Vọng sơn đầu khách tứ sầu. Dịch: Kỳ La cửa bể hồn thơ đứt, Cao Vọng đầu non dạ khách buồn. (38) Ý lời như giọng trào phúng của họ Nguyên họ Bạch, (39) thể chữ như lối triện lệ của ông Lưu ông Tư, (40) nhưng rút lại chẳng hiểu định nói gì. Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi; núi cháy hết vẫn không thấy gì, chỉ thấy con hạc đen lượn trên không bay múa. Sau cha con họ Hồ gặp phải tai họa đều đúng như lời thơ. Người tiều phu ấy có lẽ là kẻ sĩ đắc đạo đó chăng?[/SIZE] [SIZE=5][I][B]Lời bình:[/B][/I] [I][B]Than ôi! Có cái thần để biết việc sau, có cái trí để giấu việc trước, (41) đó là việc của thánh nhân; tiều phu tuy là bậc hiền nhưng đâu đã được dự đến hạng ấy. Tuy nói việc táng bại của nhà Hồ, đúng như là bói cỏ, bói rùa (42), nhưng chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, chứng với lòng người, nói nhiều may ra thì tin, đó là cái lẽ đời như vậy. Kẻ làm vua chúa nên lấy sự chính lòng mình để làm cái gốc chính triều đình, chính trăm quan, chính muôn dân, đừng để cho kẻ xử sĩ (43) phải bàn ra nói vào là tốt hơn cả.[/B][/I] [B][I]Chú thích[/I][/B]: [I]1) Thần Môn: người giữ việc mở cửa thành buổi sớm. Sau Khổng Tử dùng để chỉ một hiền sĩ thời Xuân thu thấy đời rối loạn không làm gì nữa nên lánh đời, ẩn thân làm việc đó.[/I] [I]Tiếp Dư: tên tự Lục Thông người đời Sở Chiêu vương, giả cách rồ dại không chịu ra làm quan, người đương thời gọi là Sở cuồng (người cuồng nước Sở).[/I] [I]Thái Hòa: một dật sĩ cuối đời Đường, họ Lâm, cũng giả làm bộ ngông cuồng để che giấu tung tích. Tương truyền sau cưỡi hạc lên tiên.[/I] [I]2) Khai Đại: niên hiệu của Hồ Hán Thương, từ 1403 đến 1407.[/I] [I]3) Triệu, Tào: Triệu Phổ và Tào Bân đều có công giúp Tống Thái Tổ thống nhất thiên hạ, dựng cơ nghiệp nhà Tống, sau đều làm Tể tướng.[/I] [I]4) Vương, Tạ: Vương Đạo và Tạ An đều làm quan to đời Tấn, hai nhân vật nổi tiếng phú quý phong lưu thời đó.[/I] [I]5) Bạn đỏ hầu xanh, nguyên văn là "thanh nô hồng hữu". Thanh nô là một chiếc gối làm bằng trúc xanh, mùa hè để dựa lưng hay gác tay chân cho mát. Hồng hữu là một thứ rượu.[/I] [I]6) Nam Dương: tên quận, đời Tam quốc. Gia Cát Khổng Minh ở ẩn trong lầu cỏ tại Nam Dương. Lưu Bị ba lần đến mời, ông giúp Lưu Bị lập nên cơ nghiệp nhà Thục Hán.[/I] [I]7) Quán Vân: quán Vân Đài ở núi Họa Sơn. Trần Đoàn, một cao sĩ đời Tống đã ẩn dật tại đấy. Mấy lần Tống Thái Tông mời ra làm quan nhưng ông không ra.[/I] [I]8) Lầu tây (Tây đường): nhà phía tây. Tạ Linh Vận và Tạ Huệ Liên người đời Nam Bắc triều đều giỏi thi văn. Huệ Liên chết trước. Khi Linh Vận ở nhà phía tây quận Vĩnh Gia làm thơ, bí, suốt ngày nghĩ không ra, bỗng nằm mơ thấy Huệ Liên, liền nghĩ được câu thơ hay.[/I] [I]Song bắc (Bắc song): cửa sổ phía bắc. Đào Tiềm người đời Tấn, sau khi từ quan về ở ẩn vào tiết tháng sáu thường nằm đón gió ở cửa sổ phía bắc, tự cho mình là hạng người thời Phục Hi.[/I] [I]9) Sông Tương người đẹp (Mỹ nhân Tương thủy): ngày xưa có một người bắt được một cái gối, đêm gối đầu nằm ngủ, nằm mơ thấy cùng người con gái đẹp đi chơi thuyền trên sông Tương.[/I] [I]10) Hoàng Châu: đời Tống, Tô Đông Pha bị trích ra Hoàng Châu, đêm đi chơi thuyền trên sông Xích Bích thấy một con hạc bay qua trên thuyền, vừa bay vừa kêu. Đêm về nằm ngủ mơ thấy một đạo sĩ mặc áo lông đến chơi, Đông Pha nói: "Ta biết rồi, có phải con hạc bay qua thuyền lúc nửa đêm là người đó chăng?".[/I] [I]11) Uyên Minh (nguyên văn Bành Trạch): tên tự của Đào Tiềm, làm huyện lệnh đất Bành Trạch, ông đã bỏ quan về ở ẩn.[/I] [I]12) Liêm Khê: Chu Liêm Khê đời Tống có một cái gối, hễ gối vào ngủ thì nghe tiếng chim quyên kêu.[/I] [I]13) Vườn riêng dịch chữ Độc lạc viên: Tư Mã Quang đời Tống, làm ngự sử đài ở Lạc Dương, dâng sớ xin về nghỉ có làm một khu vườn chơi ở gần núi, gọi là Độc lạc viên (vườn vui riêng một mình).[/I] [I]14) Vương Vũ Xứng đời Tống, làm bài ký Lầu Trúc ở Hoàng Châu có nói về cái thú đánh cờ: Nghi vi kỳ, tử thanh tranh tranh nhiên, nghĩa là nên đánh cờ, tiếng quân cờ kêu lát chát.[/I] [I]15) Dật dân: người dân còn sót lại, ý nói người ngoài vòng cương tỏa, trốn đời.[/I] [I]16) Hạt điêu hồ: tên một thứ gạo.[/I] [I]17) Rau cẩm đái: tên một thứ rau.[/I] [I]18) Vua Cao Tông nhà Thương nằm mơ thấy Thượng đế ban cho một người phù tá giỏi. Tỉnh dậy bèn vẽ một bức tranh giống người trong mộng rồi sai người mang tranh đi tìm. Sau tìm được Phó Duyệt đang đắp tường ở Phó Nham, liền đón về làm tướng. Cao Tông nói: "Ví như năm đại hạn, ta dùng người làm mưa rào".[/I] [I]19) Vua Văn Vương nhà Chu đã đi săn gặp Khương Tử Nha (tức Lã Vọng) câu cá ở sông Vị, mời lên chiếc xe sau chở về, tôn làm bậc thầy. Sau Lã Vọng giúp nhà Chu thắng nhà Ân ở Mục Dã.[/I] [I]20) Nghiêm Tử Lăng tức Nghiêm Quang, một cao sĩ đời Hán, hồi nhỏ là bạn học của Hán Quang Vũ; khi Quang Vũ lên ngôi, ông bèn đi ở ẩn, thường đi cày ở trong núi Phú Xuân và câu cá ở bến sông Đồng.[/I] [I]21) Khương Bá Hoài tức Khương Quảng người đời Hán Hoàn đế, quê ở Bành Thành. Vua nghe tiếng là người hiếu thuận mời ra làm quan, Quảng không chịu ra. Vua lại sai thợ vẽ đến vẽ chân dung, Quảng che mặt không cho vẽ. Ông từng nói: Quốc chính hiện nay ở trong tay bọn hoạn quan, đó là thời nào mà mình lại ra làm quan?[/I] [I]22) Kiềm Lâu: một hiền sĩ nước Tề, đời Xuân thu, ở ẩn, không chịu làm quan. Nhà rất nghèo, khi chết chỉ có một cái chăn để liệm, hễ che kín đầu thì hở chân, kín chân thì hở đầu.[/I] [I]Vệ Giới: danh sĩ đời Tấn, người đẹp, tính ôn hòa nhưng chết trẻ, khi mới 27 tuổi.[/I] [I]Viên Tinh: Theo sách Lã thị xuân thu, Viên Tinh Mục, một kẻ sĩ ở phương nam, đi giữa đường bị đói, nằm lả đi. Một tên ăn trộm trông thấy, đưa cơm cho ăn. Tinh Mục tỉnh lại, biết người cho ăn là kẻ trộm, liền nói: Ta không thèm ăn miếng cơm bất nghĩa của người. Rồi gượng dậy cố nôn ọe ra nhưng không được, sau đó gục đầu xuống chết.[/I] [I]Phụng Thiến: tên tự của Tuân Xán đời Ngụy. Vợ Xán rất đẹp, Xán rất yêu quý. Mùa đông vợ Xán bị bệnh phát nhiệt, Xán ra sân đầm hơi lạnh để vào ấp cho vợ được mát. Sau vợ chết Xán cùng chết theo.[/I] [I]23) Nói việc nhà Minh giả danh giúp nhà Trần khôi phục ngôi vua, đưa Trần Thiêm Bình về định cướp nước ta, nhưng bị Hồ Hán Thương đánh thua, phải giao nộp Trần Thiêm Bình rồi xin lui quân.[/I] [I]24) Lão Qua: nước Lào.[/I] [I]25) Đại lý: một quốc gia của người Thái, thành lập và tồn tại khoảng thế kỷ 12, 13, 14 ở Vân Nam.[/I] [I]26) Vụ Quang: người đời Hạ. Vua Thành Thang đánh được vua Kiệt nhà Hạ, đem thiên hạ nhường cho Quang, Quang không nhận đeo đá gieo mình xuống sông giả cách tự tử rồi ẩn náu biệt tích.[/I] [I]Quyên Tử: người nước Tề, ở ẩn tại Nham Sơn, học được đạo tiên, tương truyền có tài làm mưa làm gió.[/I] [I]Trên đây ý nói đó là những người ẩn dật vĩnh viễn.[/I] [I]27) Long Đỗ: tức Thăng Long (Hà Nội ngày nay).[/I] [I]An Tôn: tên làng nay thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa. Nhà Hồ xây Tây Đô ở đây.[/I] [I]28) Kim Âu: cung Kim Âu tức cung Bảo Thanh ở làng Kim Âu. Hồ Quý Ly xây dựng cung điện này tốn kém nên bị đời sau phê phán.[/I] [I]29) Hoa Nhai: Hồ Quý Ly xây thành Tây Đô, bốn cửa đều bằng đá vân nên gọi là Hoa Nhai.[/I] [I]30) Sông Đáy: tức sông Tiểu Đáy chảy từ huyện Sơn Dương, Tuyên Quang về qua địa phận các huyện Lập Thạch và Tam Dương (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Tháng 8 năm Kiến Tân thứ 2 (1399) đời Trần Thiếu đế, Nguyễn Nhữ Cái nổi dậy ở vùng sông Đáy chống triều đình, quân đông đến hàng vạn. Sau bị Nguyễn Bằng Cử đánh tan. Nguyễn Bằng Cử người Bắc Ninh, làm đến chức Đông lộ yên phủ sứ đời Trần.[/I] [I]31. Cổ lâu: Hồ Quý Ly cắt đất 59 thôn ở khu Cổ Lâu cho nhà Minh. Cổ Lâu chưa rõ vùng nào.[/I] [I]32. Nguyễn Bằng Cử: xem chú thích 30, cùng bài.[/I] [I]33. Hoàng Hối Khanh: đậu Thái học sinh đời Trần, sau làm quan với nhà Hồ.[/I] [I]34. Lê Cảnh Kỳ: trước làm quan với nhà Trần, sau làm quan cho nhà Hồ đến chức Hành khiển.[/I] [I]35. Lưu Thúc Kiệm: đậu đầu khoa Thái học sinh cuối đời Trần.[/I] [I]36. Lấy ý trong câu nói của Vi Trung, ẩn sĩ đời Tấn. Trương Hoa mời Trung ra làm quan, ông nói: Ta còn đương lo con sóng rớt ở cái vực sâu kia tràn đến, há lại còn xắn áo mà lội nữa ư?[/I] [I]37. Thiên Dân chinh trong Kinh Thư có câu: Hỏa viêm Côn sơn, ngọc thạch câu phần, nghĩa là: Lửa đốt núi Côn, ngọc đá đều cháy, (Núi Côn Sơn có tiếng sản sinh ra ngọc quý. ý nói theo nhà Hồ rồi cũng bị khốn đốn cùng nhà Hồ.[/I] [I]38. Cửa bể Kỳ La ở làng Kỳ La, huyện Kỳ Anh nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh, Năm 1407 Hồ Quý Ly bị bắt ở đấy. Núi cao Vọng ở làng Bình Lễ, cùng huyện, là nơi Hồ Hán Thương bị bắt, cũng vào năm 1407.[/I] [I]39. Nguyên, Bạch: tức Nguyên Chẩn, tự Vi Chi và Bạch Cư Dị, tự Lạc Thiên là hai nhà thơ nổi tiếng đời Đường.[/I] [I]40. Lưu là quan Thái sử nhà Chu, họ Lưu, người chế ra lối chữ đại triện. Tư là Lý Tư nhà Tần, chế ra lối chữ tiểu triện.[/I] [I]41. Lấy ý một câu trong Hệ từ thượng truyện của Kinh Dịch: Thần dĩ tri lại, trí dĩ tàng vãng, ý nói thánh nhân là người sáng suốt có thể hiểu biết và dành giữ mọi việc trước sau ở đời.[/I] [I]42. Bói cỏ bói rùa: bói cỏ thi và mai rùa để đoán việc lành dữ. Đây là cách bói của Trung Quốc thời xưa.[/I] [I]43. Xử sĩ: kẻ sĩ không ra làm quan, ẩn dật, trái với xuất sĩ là đi thi làm quan.[/I] [/SIZE] [SIZE=5]Hết chương 14 mời các bạn đọc tiếp chương 15[/SIZE] [URL='https://vnkienthuc.com/threads/truyen-ki-man-luc-chuong-15-chuyen-cai-chua-hoang-o-huyen-dong-trieu-butnghien-com.79916/'][SIZE=5][B]Chương 15: Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều[/B][/SIZE][/URL] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Truyện dài
Truyền kì mạn lục-Chương 11: Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang -Butnghien.com
Top