Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trường Sơn - Đường khát vọng
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 84484" data-attributes="member: 17223"><p>Phía tây, công trường 128 thi đua với công trường 20 quyết thông đường nhanh trước thời hạn. Cùng thời gian này, tại Tuyến I, đường tránh Pha Nốp được mở thông. Bộ Tư lệnh Đoàn còn chỉ đạo mở thêm đường từ Bản Viếng đi Na Phi Lăng nối với đường 129 tạo thành đường vu hồi tránh trọng điểm Văng Mu xuống đường 9. </p><p></p><p>Tại Tuyến II, công trình mở đường 35 (Tha Mé - Mường Noọng) cũng được thi công gấp... </p><p></p><p>Cuối tháng 2 năm 1966 Bộ Tư lệnh Đoàn giải thể các tuyến, chia thành 7 binh trạm nhằm tăng cường sự chỉ huy trực tiếp. Việc điều chỉnh lớn về tổ chức đã bước đầu tăng cường được chỉ huy trực tiếp nhưng chưa tạo được chuyển biến về vận chuyển. Toàn Đoàn vẫn trong thế bị động, khó khăn. Cầu đường tuy được mở thêm nhưng chất lượng rất xấu và mang tính độc đạo. Lực lượng cao xạ mỏng, không đủ chốt ở các trọng điểm. Lực lượng ô tô vận tải chủ yếu là xe cũ nhiều chủng loại (gát 63, Praga, Star cũ) sức chở thấp (2 tấn), đầu xe thường xuyên bị hao hụt do hư hỏng không có phụ tùng vật tư thay thế, nhiều xe bị đâm đổ và bị địch đánh cháy. </p><p></p><p>Đặc biệt là khâu chỉ đạo chỉ huy còn rất hạn chế. Thế trận vận chuyển chưa được hoạch định. Quan điểm tư tưởng đánh giá địch ta chưa rõ ràng, chiến thuật vận chuyển, tác chiến phòng không, chống phá hoại chưa được định hình. Nhận thức tư tưởng của bộ đội về tình hình nhiệm vụ chưa sâu. Thông tin liên lạc chưa đáp ứng yêu cầu chỉ huy thông suốt từ trên xuống dưới để đảm bảo xử lý kịp thời các tình huống xảy ra trên đường. </p><p></p><p>Từ tháng 2 năm 1966, địch đánh trở lại miền Bắc nên cường độ đánh phá trên toàn tuyến có giảm. Tuy vậy các trọng điểm Văng Mu, Tà Khống, Bản Đông, Dốc Thơm vẫn bị địch khống chế, đánh tắc liên tục. Cuối tháng 2, một đoàn xe của tiểu đoàn 52 bị tắc đường ở Dốc Thơm, Bản Đông, đã ùn lại tại cua chữ S phía đông Tà Khống. Địch phát hiện, tập trung đánh phá liên tục 2 ngày, phá hủy 45 xe. </p><p></p><p>Một số đơn vị cao xạ 37 ly và súng máy 12,7 ly đã tích cực đánh địch, hạ được 3 máy bay, bắn bị thương một số khác, nhưng do không bám và bảo vệ mục tiêu vẫn để chúng tự do đánh phá cầu đường và đội hình xe. </p><p></p><p>Mặc dù cán bộ, chiến sĩ nỗ lực rất lớn nhưng khối lượng vận chuyển trong tháng của toàn tuyến đạt thấp so với chỉ tiêu kế hoạch. Hàng vào đường 9 được 870 tấn (32%), vào La Hạp được 232 tấn (23%), giao cho Trị - Thiên được 327 tấn (96%), vào Chà Vằn được 107 tấn (27%), giao cho Khu 5 được 35 tấn. </p><p></p><p>Sau 4 tháng mùa khô 1965 - 1966 toàn Đoàn mới giao cho các chiến trường được 10% kế hoạch. Riêng với lực lượng nội bộ của các binh trạm từ Sa Khe vào Tà Xẻng và chiến trường Tây Nguyên hoàn toàn chưa chuyển được gì, gây nên thiếu đói nghiêm trọng, gạo không đủ để nấu cháo! </p><p></p><p>Để cứu vãn tình hình, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cẩn chỉ thị cho Bộ Tư lệnh 559 phái đồng chí Hồng Kỳ vào tổ chức rút hàng từ phía Tà Ngâu ra Tà Xẻng, Chà Vằn cứu đói cho các chiến trường Khu 5, Tây Nguyên và các binh trạm phía trong; đồng thời chỉ thị cho bộ phận thu mua của Tổng cục Hậu cần do đồng chí Đức Phương phụ trách khai thác nguồn hàng ở đông bắc Campuchia và nam Lào khoảng 10.000 tấn gạo, thực phẩm và 1.000 tấn xăng dầu giao cho Đoàn 559. </p><p></p><p>Do đường từ Campuchia về còn là đường thồ nên khối lượng vận chuyển được không đáng kể. Ngày 24 tháng 1 năm 1966, Bộ Tư lệnh Đoàn lệnh cho trung đoàn 98 cơ động gấp sang mở đường C4 từ Phi Hà đi Tà Ngâu thành đường cơ giới - gọi là đường 49, cố gắng hoàn thành vào tháng 3 năm 1966 để đưa xe từ các binh trạm ngoài vào rút hàng ra Tà Xẻng, Chà Vằn. </p><p></p><p>Trước những khó khăn gay gắt trên tuyến 559, đầu tháng 3 năm 1966, Quân ủy Trung ương cử đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và đồng chí Phạm Ngọc Mậu - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính tri vào tuyến kiểm tra và trực tiếp chỉ đạo. Nhiều cán bộ ở cơ quan Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Chính trị đi cùng. Đồng chí Đinh Đức Thiện và đồng chí Phạm Ngọc Mậu đã cùng Bộ Tư lệnh 559 nghiên cứu, đề ra nhiều biện pháp cụ thể về vận chuyển, đảm bảo giao thông, tác chiến bảo vệ hành lang, về công tác chính trị và cải thiện đời sống vật chất cho bộ đội để đẩy mạnh các hoạt động trên tuyến.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 84484, member: 17223"] Phía tây, công trường 128 thi đua với công trường 20 quyết thông đường nhanh trước thời hạn. Cùng thời gian này, tại Tuyến I, đường tránh Pha Nốp được mở thông. Bộ Tư lệnh Đoàn còn chỉ đạo mở thêm đường từ Bản Viếng đi Na Phi Lăng nối với đường 129 tạo thành đường vu hồi tránh trọng điểm Văng Mu xuống đường 9. Tại Tuyến II, công trình mở đường 35 (Tha Mé - Mường Noọng) cũng được thi công gấp... Cuối tháng 2 năm 1966 Bộ Tư lệnh Đoàn giải thể các tuyến, chia thành 7 binh trạm nhằm tăng cường sự chỉ huy trực tiếp. Việc điều chỉnh lớn về tổ chức đã bước đầu tăng cường được chỉ huy trực tiếp nhưng chưa tạo được chuyển biến về vận chuyển. Toàn Đoàn vẫn trong thế bị động, khó khăn. Cầu đường tuy được mở thêm nhưng chất lượng rất xấu và mang tính độc đạo. Lực lượng cao xạ mỏng, không đủ chốt ở các trọng điểm. Lực lượng ô tô vận tải chủ yếu là xe cũ nhiều chủng loại (gát 63, Praga, Star cũ) sức chở thấp (2 tấn), đầu xe thường xuyên bị hao hụt do hư hỏng không có phụ tùng vật tư thay thế, nhiều xe bị đâm đổ và bị địch đánh cháy. Đặc biệt là khâu chỉ đạo chỉ huy còn rất hạn chế. Thế trận vận chuyển chưa được hoạch định. Quan điểm tư tưởng đánh giá địch ta chưa rõ ràng, chiến thuật vận chuyển, tác chiến phòng không, chống phá hoại chưa được định hình. Nhận thức tư tưởng của bộ đội về tình hình nhiệm vụ chưa sâu. Thông tin liên lạc chưa đáp ứng yêu cầu chỉ huy thông suốt từ trên xuống dưới để đảm bảo xử lý kịp thời các tình huống xảy ra trên đường. Từ tháng 2 năm 1966, địch đánh trở lại miền Bắc nên cường độ đánh phá trên toàn tuyến có giảm. Tuy vậy các trọng điểm Văng Mu, Tà Khống, Bản Đông, Dốc Thơm vẫn bị địch khống chế, đánh tắc liên tục. Cuối tháng 2, một đoàn xe của tiểu đoàn 52 bị tắc đường ở Dốc Thơm, Bản Đông, đã ùn lại tại cua chữ S phía đông Tà Khống. Địch phát hiện, tập trung đánh phá liên tục 2 ngày, phá hủy 45 xe. Một số đơn vị cao xạ 37 ly và súng máy 12,7 ly đã tích cực đánh địch, hạ được 3 máy bay, bắn bị thương một số khác, nhưng do không bám và bảo vệ mục tiêu vẫn để chúng tự do đánh phá cầu đường và đội hình xe. Mặc dù cán bộ, chiến sĩ nỗ lực rất lớn nhưng khối lượng vận chuyển trong tháng của toàn tuyến đạt thấp so với chỉ tiêu kế hoạch. Hàng vào đường 9 được 870 tấn (32%), vào La Hạp được 232 tấn (23%), giao cho Trị - Thiên được 327 tấn (96%), vào Chà Vằn được 107 tấn (27%), giao cho Khu 5 được 35 tấn. Sau 4 tháng mùa khô 1965 - 1966 toàn Đoàn mới giao cho các chiến trường được 10% kế hoạch. Riêng với lực lượng nội bộ của các binh trạm từ Sa Khe vào Tà Xẻng và chiến trường Tây Nguyên hoàn toàn chưa chuyển được gì, gây nên thiếu đói nghiêm trọng, gạo không đủ để nấu cháo! Để cứu vãn tình hình, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cẩn chỉ thị cho Bộ Tư lệnh 559 phái đồng chí Hồng Kỳ vào tổ chức rút hàng từ phía Tà Ngâu ra Tà Xẻng, Chà Vằn cứu đói cho các chiến trường Khu 5, Tây Nguyên và các binh trạm phía trong; đồng thời chỉ thị cho bộ phận thu mua của Tổng cục Hậu cần do đồng chí Đức Phương phụ trách khai thác nguồn hàng ở đông bắc Campuchia và nam Lào khoảng 10.000 tấn gạo, thực phẩm và 1.000 tấn xăng dầu giao cho Đoàn 559. Do đường từ Campuchia về còn là đường thồ nên khối lượng vận chuyển được không đáng kể. Ngày 24 tháng 1 năm 1966, Bộ Tư lệnh Đoàn lệnh cho trung đoàn 98 cơ động gấp sang mở đường C4 từ Phi Hà đi Tà Ngâu thành đường cơ giới - gọi là đường 49, cố gắng hoàn thành vào tháng 3 năm 1966 để đưa xe từ các binh trạm ngoài vào rút hàng ra Tà Xẻng, Chà Vằn. Trước những khó khăn gay gắt trên tuyến 559, đầu tháng 3 năm 1966, Quân ủy Trung ương cử đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và đồng chí Phạm Ngọc Mậu - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính tri vào tuyến kiểm tra và trực tiếp chỉ đạo. Nhiều cán bộ ở cơ quan Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Chính trị đi cùng. Đồng chí Đinh Đức Thiện và đồng chí Phạm Ngọc Mậu đã cùng Bộ Tư lệnh 559 nghiên cứu, đề ra nhiều biện pháp cụ thể về vận chuyển, đảm bảo giao thông, tác chiến bảo vệ hành lang, về công tác chính trị và cải thiện đời sống vật chất cho bộ đội để đẩy mạnh các hoạt động trên tuyến. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trường Sơn - Đường khát vọng
Top