Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trường Sơn - Đường khát vọng
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 84479" data-attributes="member: 17223"><p>Giữa tháng 10 năm 1965, Tư lệnh Phan Trọng Tuệ vào kiểm tra tình hình ở công trường đã chỉ thị Tuyến I tổ chức một chuyến hàng đặc biệt gồm 20 xe Zil 57 đưa hàng tứ Xóm Péng vào Lùm Bùm cứu đói cho công trường 128. Nhờ đó tiến độ thi công được đẩy lên nhưng thời gian cũng phải kéo dài tới đầu tháng 11 mới thông đến đường 9. </p><p></p><p>Đoạn đường từ Bạc đi Tà Xẻng còn khó khăn hơn. Thời gian thi công triển khai chậm, máy móc ít, thuốc nổ thiếu, phần lớn phải dùng lao động thủ công. Gặp những đoạn núi đá các đơn vị phải nhảy cóc thi công sang đoạn khác chờ khi có thuốc nổ mới quay lại làm tiếp. </p><p></p><p>Lương thực và thuốc men đều rất thiếu thốn. Bộ đội phải đào củ mài, củ dái ngựa, củ chuối để ăn. Thực phẩm chủ yếu là măng, lá sần. Thuốc sốt rét và các loại vi-ta-min không đủ, ăn uống kham khổ trong khi lao động rất căng thẳng, sức khỏe của cán bộ, chiến sĩ giảm sút nghiêm trọng, quân số ốm cao. Nhiều người gầy sút, cơ bắp bị teo lại. Tuy vậy, cán bộ chiến sĩ các đơn vị vẫn động viên nhau giữ vững quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. </p><p></p><p>Trước tình hình bức xúc, Bộ Tư lệnh 559 đã điều tiểu đoàn 56 ô tô vận tải dưới sự chỉ huy của thượng úy tiểu đoàn trưởng Trần Đức Dục và thượng úy chính trị viên Nguyễn Long thực hiện một chuyến vận chuyển đột kích mang mật danh “ngọn đèn xanh Bác Hồ" xuất phát từ Xóm Péng thuộc Tuyến I, theo đường 129 vào thẳng Tuyến III, chuyển gấp một số lương thực, thực phẩm, thuốc nổ và dụng cụ làm đường để đẩy nhanh việc làm đường từ Bạc vào Tà Xẻng kịp đưa vào sử dụng. </p><p></p><p>Đại đội trưởng Nguyễn Văn Cân được chỉ định trực tiếp lái xe mở đường mỗi khi vượt qua những đèo dốc hiểm trở. Được tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ lái xe tay nghề vững và hành quân bí mật bất ngờ, không bị địch phát hiện đánh phá nên toàn đơn vị đến đích gọn, đúng thời gian, tổn thất nhẹ, một xe đổ xuống vực khi qua dốc Đèo Long. </p><p></p><p>Được tiếp tế những nhu cầu cần thiết, tiến độ thi công được đẩy mạnh. Đầu tháng 1 năm 1966, đường đã được mở thông đến Tà Xẻng tạo được tuyến giao thông vận tải cơ giới liền mạch từ Mụ Giạ vào ngã ba biên giới Việt - Lào - Campuchia. </p><p></p><p>Hoàn thành được đoạn đường này là một thắng lợi to lớn, thể hiện nỗ lực phi thường của Bộ đội 559. Tuy vậy đường vẫn mang tính chất quân sự làm gấp, mặt đường và bán kính đường vòng rất hẹp, gồ ghề, độ dốc leo đèo rất cao đòi hỏi phải tiếp tục cải tạo mới sử dựng có hiệu quả và an toàn. </p><p></p><p>Cùng với việc mở đường mới, từ tháng 9, Tuyến I đã đưa lực lượng công binh, công nhân, thanh niên xung phong vào sửa chữa đường 129 rút được số xe bị mắc kẹt từ Na Mô, Na Nhôm, khôi phục lại hệ thống đường, cầu trên đường 12; củng cố hoàn chỉnh đường 050 tránh đèo Mụ Giạ. Từ 19 tháng 9 năm 1965, xe đã chạy được từng đoạn. Đầu tháng 11 đường đã thông từ Mụ Giạ đến Tà Khống trên cả 2 trục đường 129 và 128. </p><p></p><p>Trong khi phải tập trung cố gắng thực hiện các nhiệm vụ mở đường và vân chuyển, Bộ Tư lệnh Đoàn vẫn xúc tiến nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm cho bộ đội hành quân vào chiến trường. Toàn tuyến giao liên được tổ chức thành 33 trạm: Từ làng Ho đến Bạc có 18 trạm. Từ Bạc trở vào có 15 trạm. Mỗi trạm có từ 9 đến 11 người do một chuẩn úy hoặc thiếu úy (có nơi là thượng sĩ phụ trách). </p><p></p><p>Lưu lượng hành quân mỗi ngày khoảng 600 người và ngày càng tăng thêm, nhưng biên chế phục vụ của các trạm giao liên quá ít, không đủ người làm cấp dưỡng, cáng thương, dẫn đường, đào hầm hố, làm lán trại. Có chiến sĩ đang lên cơn sốt rét cũng phải lên đường đưa quân. Với sự nỗ lực vượt bậc của bộ đội giao liên, đến tháng 10 năm 1965, đã có 29.000 người được giao cho các chiến trường. </p><p>Nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ hành lang cũng bắt đầu được đặt ra. </p><p></p><p>Mùa mưa ở Lào là lúc địch thường lợi dụng tung các toán quân thâm nhập, hoạt động gián điệp, biệt kích phá hoại kho tàng của ta, chỉ điểm cho máy bay đánh phá. Các đơn vị trên tuyến đã chủ động ngụy trang che phòng, truy lùng gián điệp biệt kích, không cho chúng tiếp cận phá hoại. Ngày 7 tháng 5 năm 1965, Tuyến III sử dụng đặc công tiêu diệt đồn Na Kay diệt 60 tên, bắt 1 tên. </p><p></p><p>Nhiệm vụ tác chiến phòng không ngày càng bức thiết nhưng Đoàn chưa có biên chế lực lượng cao xạ. Vì vậy còn lấy phương châm phòng tránh là chủ yếu. Tiểu đoàn 20 và tiểu đoàn 12 cao xạ 37 ly của Quân khu 4 vào phối hợp chiến đấu ở khu vực Lằng Khằng, Tà Khống đã chiến đấu dũng cảm, lần đầu tiên bắn rơi 2 máy bay F 105 trên tuyển Trường Sơn nhưng bộ đội pháo cao xạ chưa quán triệt tư tưởng tác chiến bảo vệ hành lang và đội hình xe, nên tác dụng còn hạn chế.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 84479, member: 17223"] Giữa tháng 10 năm 1965, Tư lệnh Phan Trọng Tuệ vào kiểm tra tình hình ở công trường đã chỉ thị Tuyến I tổ chức một chuyến hàng đặc biệt gồm 20 xe Zil 57 đưa hàng tứ Xóm Péng vào Lùm Bùm cứu đói cho công trường 128. Nhờ đó tiến độ thi công được đẩy lên nhưng thời gian cũng phải kéo dài tới đầu tháng 11 mới thông đến đường 9. Đoạn đường từ Bạc đi Tà Xẻng còn khó khăn hơn. Thời gian thi công triển khai chậm, máy móc ít, thuốc nổ thiếu, phần lớn phải dùng lao động thủ công. Gặp những đoạn núi đá các đơn vị phải nhảy cóc thi công sang đoạn khác chờ khi có thuốc nổ mới quay lại làm tiếp. Lương thực và thuốc men đều rất thiếu thốn. Bộ đội phải đào củ mài, củ dái ngựa, củ chuối để ăn. Thực phẩm chủ yếu là măng, lá sần. Thuốc sốt rét và các loại vi-ta-min không đủ, ăn uống kham khổ trong khi lao động rất căng thẳng, sức khỏe của cán bộ, chiến sĩ giảm sút nghiêm trọng, quân số ốm cao. Nhiều người gầy sút, cơ bắp bị teo lại. Tuy vậy, cán bộ chiến sĩ các đơn vị vẫn động viên nhau giữ vững quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Trước tình hình bức xúc, Bộ Tư lệnh 559 đã điều tiểu đoàn 56 ô tô vận tải dưới sự chỉ huy của thượng úy tiểu đoàn trưởng Trần Đức Dục và thượng úy chính trị viên Nguyễn Long thực hiện một chuyến vận chuyển đột kích mang mật danh “ngọn đèn xanh Bác Hồ" xuất phát từ Xóm Péng thuộc Tuyến I, theo đường 129 vào thẳng Tuyến III, chuyển gấp một số lương thực, thực phẩm, thuốc nổ và dụng cụ làm đường để đẩy nhanh việc làm đường từ Bạc vào Tà Xẻng kịp đưa vào sử dụng. Đại đội trưởng Nguyễn Văn Cân được chỉ định trực tiếp lái xe mở đường mỗi khi vượt qua những đèo dốc hiểm trở. Được tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ lái xe tay nghề vững và hành quân bí mật bất ngờ, không bị địch phát hiện đánh phá nên toàn đơn vị đến đích gọn, đúng thời gian, tổn thất nhẹ, một xe đổ xuống vực khi qua dốc Đèo Long. Được tiếp tế những nhu cầu cần thiết, tiến độ thi công được đẩy mạnh. Đầu tháng 1 năm 1966, đường đã được mở thông đến Tà Xẻng tạo được tuyến giao thông vận tải cơ giới liền mạch từ Mụ Giạ vào ngã ba biên giới Việt - Lào - Campuchia. Hoàn thành được đoạn đường này là một thắng lợi to lớn, thể hiện nỗ lực phi thường của Bộ đội 559. Tuy vậy đường vẫn mang tính chất quân sự làm gấp, mặt đường và bán kính đường vòng rất hẹp, gồ ghề, độ dốc leo đèo rất cao đòi hỏi phải tiếp tục cải tạo mới sử dựng có hiệu quả và an toàn. Cùng với việc mở đường mới, từ tháng 9, Tuyến I đã đưa lực lượng công binh, công nhân, thanh niên xung phong vào sửa chữa đường 129 rút được số xe bị mắc kẹt từ Na Mô, Na Nhôm, khôi phục lại hệ thống đường, cầu trên đường 12; củng cố hoàn chỉnh đường 050 tránh đèo Mụ Giạ. Từ 19 tháng 9 năm 1965, xe đã chạy được từng đoạn. Đầu tháng 11 đường đã thông từ Mụ Giạ đến Tà Khống trên cả 2 trục đường 129 và 128. Trong khi phải tập trung cố gắng thực hiện các nhiệm vụ mở đường và vân chuyển, Bộ Tư lệnh Đoàn vẫn xúc tiến nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm cho bộ đội hành quân vào chiến trường. Toàn tuyến giao liên được tổ chức thành 33 trạm: Từ làng Ho đến Bạc có 18 trạm. Từ Bạc trở vào có 15 trạm. Mỗi trạm có từ 9 đến 11 người do một chuẩn úy hoặc thiếu úy (có nơi là thượng sĩ phụ trách). Lưu lượng hành quân mỗi ngày khoảng 600 người và ngày càng tăng thêm, nhưng biên chế phục vụ của các trạm giao liên quá ít, không đủ người làm cấp dưỡng, cáng thương, dẫn đường, đào hầm hố, làm lán trại. Có chiến sĩ đang lên cơn sốt rét cũng phải lên đường đưa quân. Với sự nỗ lực vượt bậc của bộ đội giao liên, đến tháng 10 năm 1965, đã có 29.000 người được giao cho các chiến trường. Nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ hành lang cũng bắt đầu được đặt ra. Mùa mưa ở Lào là lúc địch thường lợi dụng tung các toán quân thâm nhập, hoạt động gián điệp, biệt kích phá hoại kho tàng của ta, chỉ điểm cho máy bay đánh phá. Các đơn vị trên tuyến đã chủ động ngụy trang che phòng, truy lùng gián điệp biệt kích, không cho chúng tiếp cận phá hoại. Ngày 7 tháng 5 năm 1965, Tuyến III sử dụng đặc công tiêu diệt đồn Na Kay diệt 60 tên, bắt 1 tên. Nhiệm vụ tác chiến phòng không ngày càng bức thiết nhưng Đoàn chưa có biên chế lực lượng cao xạ. Vì vậy còn lấy phương châm phòng tránh là chủ yếu. Tiểu đoàn 20 và tiểu đoàn 12 cao xạ 37 ly của Quân khu 4 vào phối hợp chiến đấu ở khu vực Lằng Khằng, Tà Khống đã chiến đấu dũng cảm, lần đầu tiên bắn rơi 2 máy bay F 105 trên tuyển Trường Sơn nhưng bộ đội pháo cao xạ chưa quán triệt tư tưởng tác chiến bảo vệ hành lang và đội hình xe, nên tác dụng còn hạn chế. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trường Sơn - Đường khát vọng
Top