Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trường Sơn - Đường khát vọng
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 84478" data-attributes="member: 17223"><p>Từ Tà Khống trở vào, Tuyến II phải chống lầy để vận chuyển thường xuyên. Đồng thời tổ chức 2.000 người gánh bộ theo đường từ làng Ho kết hợp với mở đường thồ vào đường 9 (khu vực Bản Đông) để thồ hàng đảm bảo kế hoạch và nội bộ. Đến 30 tháng 10 năm 1965, Tuyến II phải giao 2.247 tấn cho Tuyến III, giao cho Trị - Thiên tại A Túc 245 tấn và đảm bảo 230 tấn gạo cho bộ đội hành quân. </p><p></p><p>Tuyến III sử dụng lực lượng gùi thồ và một phần cơ giới đưa vào Sa Khe 1.334 tấn Đắc Lây 345 tấn và đảm bảo cho bộ đội hành quân 189 tấn. </p><p></p><p>Để vận chuyển vượt túi nước, việc quan trọng đầu tiên là chuẩn bị khoảng 300 đến 400 thuyền nhỏ, loại từ 0,5 tấn đến 1 tấn và hàng trăm thủy thủ. Bộ Tư lệnh Đoàn chủ trương đóng tại chỗ một phần, đưa một số thuyền từ Tuyến II ra và mua thêm thuyền nan từ Nam Hà, Phú Thọ chuyển vào. </p><p></p><p>Bộ Tư lệnh Đoàn đã cử cán bộ ra các tỉnh Quảng Bình, Nam Hà huy động gấp một số công nhân lên mở công trường đóng thuyền ngay tại rừng săng lẻ ở khu vực 050. Đồng thời chuyển 700 nam thanh niên xung phong của Thanh Hóa dự định sử dụng làm lực lượng thồ ở Tuyến II, bổ sung cho Tuyến I đưa vào phục vụ công trường đóng thuyền và huấn luyện làm thủy thủ; giao cho lực lượng công binh đi phát cây, đánh đá, khai quang luồng lạch. Thuyền đóng được đến đâu đưa vào vận chuyển đến đấy. </p><p></p><p>Do lúng túng về tổ chức và gấp gáp về chuẩn bị, nên đến giữa tháng 7 mới vận chuyển được thuyền đầu. Thời tiết mưa lũ lớn, thủy thủ mới huấn luyện, phải chèo chống trên dòng sông hẹp, nước chảy mạnh, luồng lạch chưa quen, thuyền gặp chướng ngại tránh không kịp thường bị lật. Thuyền xuôi dòng từ 050 xuống Xiêng Phan khoảng 35km chỉ mất 1 ngày nhưng ngược về phải lên bờ kéo nên thường mất 3 - 4 ngày mới được một chuyến. Những ngày sau dùng thêm thuyền nan và một số thuyền bằng vải bạt bọc khung tre, để khi về có thể khiêng bộ nhưng vô cùng nặng nề, vất vả. Hiệu suất vận chuyển rất thấp, mỗi ngày chỉ được từ 10 đến 20 tấn. </p><p></p><p>Đến cuối tháng 8 số thuyền đóng được lên tới 84 thuyền gỗ, 250 thuyền bạt. Nhưng vì tải trọng hạn chế, thới gian mỗi chuyến bị kéo dài, từ cuối tháng 8 trời giảm mưa, nước cạn dần khó đi, nên chỉ đưa vào Xiêng Phan được 460 tấn là phải kết thúc. </p><p></p><p>Đoạn phía nam túi nước từ Xiêng Phan vào Xóm Péng đã lát "rông đanh" toàn bộ, nhưng đường rất lầy, ô tô không đi được, phải dùng một số đại đội dân quân gánh bộ vào Pác Pha Năng được hơn 20 tấn. Phần lớn số hàng vượt túi nước vẫn đọng lại ở Xiêng Phan. Kế hoạch vận chuyển hàng vào đường 9 tuy đã phấn đấu rất gian khổ tốn kém, nhưng đành bỏ dở. </p><p></p><p>Ở tuyến 11, tuy không có hàng từ Tuyến I đưa vào, Ban chỉ huy tuyến đã huy động mọi lực lượng ra chống lầy, vận chuyển số hàng tồn từ đường 9 vào Tuyến III cung cấp cho chiến trường, bộ đội hành quân và cứu đói cho lực lượng phía trong. </p><p></p><p>Đường gùi từ làng Ho đi Bản Đông không có hiệu quả; Bộ Tư lệnh cho mở thành đường thồ đồng thời khai thác chở thuyền theo sông Sê Băng Hiêng từ Chà Lì về Bản Cọ, rồi gùi tiếp về Bản Đông được hơn 100 tấn. Tuyến III cũng cố gắng đảm bảo cho Khu 5 được 2 tấn/ngày ở hướng B46 và từ 1 tấn đến 2 tấn/ngày ở Sa Khe. </p><p></p><p>Thời gian này, Bộ Tư lệnh Đoàn đã động viên các đơn vị ở bên kia tai nước, nhất là ở Tuyến II và Tuyến III rút bớt khẩu phần gạo xuống 3 đến 4 lạng mỗi ngày để tăng thêm lượng hàng cung cấp cho chiến trường. </p><p></p><p>Nhờ các biện pháp tích cực như vậy nên kế hoạch vận chuyển van đảm bảo được một phần gạo cho chiến trường và đủ gạo cho các đơn vị hành quân. Riêng đối với đời sống của bộ đội trên toàn tuyến rất thiếu thốn, kham khổ, ốm đau bệnh tật hoành hành. </p><p></p><p>Công việc mở đường mới cũng gặp khó khăn lớn. Tiến độ thi công đường 128 rất chậm. Tuy có nhiều máy nhưng do mưa lớn, đất lầy không phát huy được. Đường mở đến đâu bị lầy đến đó lại phải chặt cây chống lầy, nên càng thiếu lực lượng thi công nghiêm trọng. Ngay lực lượng tiếp tế hậu cần cho các đơn vị cũng không đảm bảo. Bộ đội thiếu đói, ốm đau hàng loạt. Nhất là số nữ công nhân và nữ thanh niên xung phong sống rất cực vì thiếu thốn những nhu cầu tối thiểu cho sinh hoạt, vệ sinh và phòng bệnh.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 84478, member: 17223"] Từ Tà Khống trở vào, Tuyến II phải chống lầy để vận chuyển thường xuyên. Đồng thời tổ chức 2.000 người gánh bộ theo đường từ làng Ho kết hợp với mở đường thồ vào đường 9 (khu vực Bản Đông) để thồ hàng đảm bảo kế hoạch và nội bộ. Đến 30 tháng 10 năm 1965, Tuyến II phải giao 2.247 tấn cho Tuyến III, giao cho Trị - Thiên tại A Túc 245 tấn và đảm bảo 230 tấn gạo cho bộ đội hành quân. Tuyến III sử dụng lực lượng gùi thồ và một phần cơ giới đưa vào Sa Khe 1.334 tấn Đắc Lây 345 tấn và đảm bảo cho bộ đội hành quân 189 tấn. Để vận chuyển vượt túi nước, việc quan trọng đầu tiên là chuẩn bị khoảng 300 đến 400 thuyền nhỏ, loại từ 0,5 tấn đến 1 tấn và hàng trăm thủy thủ. Bộ Tư lệnh Đoàn chủ trương đóng tại chỗ một phần, đưa một số thuyền từ Tuyến II ra và mua thêm thuyền nan từ Nam Hà, Phú Thọ chuyển vào. Bộ Tư lệnh Đoàn đã cử cán bộ ra các tỉnh Quảng Bình, Nam Hà huy động gấp một số công nhân lên mở công trường đóng thuyền ngay tại rừng săng lẻ ở khu vực 050. Đồng thời chuyển 700 nam thanh niên xung phong của Thanh Hóa dự định sử dụng làm lực lượng thồ ở Tuyến II, bổ sung cho Tuyến I đưa vào phục vụ công trường đóng thuyền và huấn luyện làm thủy thủ; giao cho lực lượng công binh đi phát cây, đánh đá, khai quang luồng lạch. Thuyền đóng được đến đâu đưa vào vận chuyển đến đấy. Do lúng túng về tổ chức và gấp gáp về chuẩn bị, nên đến giữa tháng 7 mới vận chuyển được thuyền đầu. Thời tiết mưa lũ lớn, thủy thủ mới huấn luyện, phải chèo chống trên dòng sông hẹp, nước chảy mạnh, luồng lạch chưa quen, thuyền gặp chướng ngại tránh không kịp thường bị lật. Thuyền xuôi dòng từ 050 xuống Xiêng Phan khoảng 35km chỉ mất 1 ngày nhưng ngược về phải lên bờ kéo nên thường mất 3 - 4 ngày mới được một chuyến. Những ngày sau dùng thêm thuyền nan và một số thuyền bằng vải bạt bọc khung tre, để khi về có thể khiêng bộ nhưng vô cùng nặng nề, vất vả. Hiệu suất vận chuyển rất thấp, mỗi ngày chỉ được từ 10 đến 20 tấn. Đến cuối tháng 8 số thuyền đóng được lên tới 84 thuyền gỗ, 250 thuyền bạt. Nhưng vì tải trọng hạn chế, thới gian mỗi chuyến bị kéo dài, từ cuối tháng 8 trời giảm mưa, nước cạn dần khó đi, nên chỉ đưa vào Xiêng Phan được 460 tấn là phải kết thúc. Đoạn phía nam túi nước từ Xiêng Phan vào Xóm Péng đã lát "rông đanh" toàn bộ, nhưng đường rất lầy, ô tô không đi được, phải dùng một số đại đội dân quân gánh bộ vào Pác Pha Năng được hơn 20 tấn. Phần lớn số hàng vượt túi nước vẫn đọng lại ở Xiêng Phan. Kế hoạch vận chuyển hàng vào đường 9 tuy đã phấn đấu rất gian khổ tốn kém, nhưng đành bỏ dở. Ở tuyến 11, tuy không có hàng từ Tuyến I đưa vào, Ban chỉ huy tuyến đã huy động mọi lực lượng ra chống lầy, vận chuyển số hàng tồn từ đường 9 vào Tuyến III cung cấp cho chiến trường, bộ đội hành quân và cứu đói cho lực lượng phía trong. Đường gùi từ làng Ho đi Bản Đông không có hiệu quả; Bộ Tư lệnh cho mở thành đường thồ đồng thời khai thác chở thuyền theo sông Sê Băng Hiêng từ Chà Lì về Bản Cọ, rồi gùi tiếp về Bản Đông được hơn 100 tấn. Tuyến III cũng cố gắng đảm bảo cho Khu 5 được 2 tấn/ngày ở hướng B46 và từ 1 tấn đến 2 tấn/ngày ở Sa Khe. Thời gian này, Bộ Tư lệnh Đoàn đã động viên các đơn vị ở bên kia tai nước, nhất là ở Tuyến II và Tuyến III rút bớt khẩu phần gạo xuống 3 đến 4 lạng mỗi ngày để tăng thêm lượng hàng cung cấp cho chiến trường. Nhờ các biện pháp tích cực như vậy nên kế hoạch vận chuyển van đảm bảo được một phần gạo cho chiến trường và đủ gạo cho các đơn vị hành quân. Riêng đối với đời sống của bộ đội trên toàn tuyến rất thiếu thốn, kham khổ, ốm đau bệnh tật hoành hành. Công việc mở đường mới cũng gặp khó khăn lớn. Tiến độ thi công đường 128 rất chậm. Tuy có nhiều máy nhưng do mưa lớn, đất lầy không phát huy được. Đường mở đến đâu bị lầy đến đó lại phải chặt cây chống lầy, nên càng thiếu lực lượng thi công nghiêm trọng. Ngay lực lượng tiếp tế hậu cần cho các đơn vị cũng không đảm bảo. Bộ đội thiếu đói, ốm đau hàng loạt. Nhất là số nữ công nhân và nữ thanh niên xung phong sống rất cực vì thiếu thốn những nhu cầu tối thiểu cho sinh hoạt, vệ sinh và phòng bệnh. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trường Sơn - Đường khát vọng
Top