Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Trước tác khoa học để một đời để hiểu muôn đời
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="vanchuong83" data-source="post: 146297" data-attributes="member: 303055"><p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"> <span style="font-size: 15px"><strong>TRƯỚC TÁC KHOA HỌC ĐỂ MỘT ĐỜI ĐỂ HIỂU MUÔN ĐỜI</strong></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px">(Tưởng niệm nhân 229 năm ngày sinh nhà bác học Phan Huy Chú)</span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"></span> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"><strong>Thái Doãn Hiểu</strong></span></span> <span style="font-size: 15px"></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span></p><p><span style="font-size: 15px">Năng lượng khoa học mà Phan Huy Chú gửi vào bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí là khuynh hướng tư tưởng duy lý, phương pháp tư biện phân tích, phân loại, tổng hợp một cách nhất quán, hệ thống logic, tạo nên được một sản phẩm văn hóa khổng lồ, đột phá, vượt quá xa thời phong kiến trung cổ của văn minh… nông nghiệp. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chính Phan chứ không ai khác là người tiên phong khai sáng cho sự tiến triển của văn hóa nước nhà từ cổ đại sang hiện đại.</span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Phan Huy Chú (1782-1840) là nhà thơ, nhà bác học lỗi lạc của thế kỷ XIX.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Phan Huy Chú tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong. Quê quán của ông ở xã Thụy Khê, tục gọi làng Thày, một vùng quê có thắng tích Sài Sơn ở Hà Tây. Quê gốc - họ Phan Huy của ông hiện nay vẫn là một dòng họ lớn có truyền thống khoa bảng ở xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. Gốc gác xa xưa của họ nổi tiếng về nghề ca xướng.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Phan xuất thân trong một gia đình trí thức có tầm cỡ với những tên tuổi đáng nể trọng : Phan Huy Cận (ông nội), Ngô Thì Sĩ (ông ngoai), Phan Huy Ích (cha), Ngô Thời Nhiệm (bác – anh mẹ), Ngô Thì Vị (cậu), Phan Huy Ôn (chú), Phan Huy Sáng (chú), bà Ngô Thị Thục (mẹ) là người có học, rồi vợ ông (con gái danh y, quan thượng thư, tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch tức Nguyễn Gia Phan)… Gen di truyền, sự kế thừa và môi trường ấy đã nâng đỡ, tơ trời vấn vít tạo nên tài năng, học vấn cho Phan. Vốn thông minh, lại được các thành viên trong gia đình rèn cặp nên Phan học rất giỏi, nổi tiếng uyên bác cả vùng Sài Sơn.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Phan sống trong gai góc vây bủa thời tráng niên của mình là một hàng rào lý lịch khá đặc biệt nguy hiểm: nội thân ngoại thích của ông đều là trụ cột của Tây Sơn - kẻ tử thù của nhà Nguyễn vừa bị họ đánh đổ, trả thù khốc liệt, hèn mạt. Con đường thi thố tài năng bằng hoạn lộ thật mịt mờ. Sau vài phen thử vận may vào năm 1807 và 1819, không vượt khỏi tú tài vì bị kỳ thị, ông Kép Thày (dân làng nể trọng gọi thế) đành chuyển sang con đường trước thuật với tất cả năng lực được tu luyện khá kỹ càng cùng chí hướng nung nấu của một trí thức tự do. Ròng rã 10 năm trời từ tuổi 27 (1809) đến tuổi 37 (1819), Phan dựng nhà trong núi, “đóng cửa tạ khách” (đóng cửa không tiếp khách) để làm sách. Sống giữa một thiên nhiên u nhã với bạt ngàn sách vở tàng trữ được bao đời trong kho thư tịch gia bảo của gia đình, Phan đã chịu đói lạnh dùi mài nghiên cứu, tổng kết được mọi điển chương, thâu tóm được mọi tinh túy học vấn dân tộc của những người đi trước, soạn ra bộ bách khoa sử học đồ sộ Lịch triều hiến chương loại chí.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Năng lượng khoa học mà Phan gửi vào bộ sách là khuynh hướng tư tưởng duy lý, phương pháp tư biện phân tích, phân loại, tổng hợp một cách nhất quán, hệ thống logic, tạo nên được một sản phẩm văn hóa khổng lồ, đột phá, vượt quá xa thời phong kiến trung cổ của văn minh… nông nghiệp. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chính Phan chứ không ai khác là người tiên phong khai sáng cho sự tiến triển của văn hóa nước nhà từ cổ đại sang hiện đại.</span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Dẫu không có chân trong đám đại khoa nhưng tiếng thơm của Phan vẫn bay xa. Vua Minh Mệnh nghe tin đồn xuống chiếu triệu ông vào Huế cho giữ chức Hàn lâm viện biên tu (1821), sung đoàn sứ bộ đi sứ nhà Thanh (1828), thăng Hiệp trấn Quảng Nam (1829). Sau đó Phan bị giáng. Năm 1831, lại được cử đi sứ Trung Quốc lần hai, khi về bị cách tuột vì bị ghép tội lộng hành. Năm 1832, lại bị Minh Mạng bắt đi tiền quân hiệu lực ở Inđônêxia về công thương buôn bán… Xong việc, Phan được khôi phục với chức vụ Tư vụ bộ Công. Trên thực tế, Minh mạng cũng muốn dùng Phan nhưng không thể ưu ái, tin cậy được bọn cừu gia đệ tử. Bản thân Phan cũng vậy, làm sao ông có thể yêu quý cái triều đình đã nọc cổ cha và bác ông đánh tóe máu, một người mang đầy thương tích, một người tử thương giữa Văn Miếu? Phan không phạm lỗi sao được khi tài năng và đức thương dân của ông vượt ra khỏi trí não lôi long hẹp hòi, bảo thủ của bọn hủ nho già (1).</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Có lẽ đến đây, trên mười năm “tha hóa” (chữ dùng của nhà sứ học Lê Văn Lan) làm quan chức hành chánh triều nhà Nguyễn, Phan đã lợm mùi khổ nhục thăng giáng nơi quan trường, lấy cớ đau yếu xin cáo quan về nghỉ, mở trường dạy học ở Thanh Mai, rồi mất ở đó. Mộ ông hiện nay còn táng tại ở xã Vân Thắng, huyện Ba Vì, Hà Nội.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Ngoài bộ Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú còn để lại: Hoàng Việt địa dư ký: sách viết về địa lý nước ta dưới triều Nguyễn; Hoa thiều ngâm lục là tập thơ Phan đi sứ Trung Quốc lần thứ nhất (1825) gồm: quyển thượng có một bài tựa, 161 bài thơ, 3 bài phú, quyển hạ có 114 bài thơ, 1 bài phú và 8 bài từ; Hoa trình tập ngâm là tập thơ Phan đi sứ Trung Quốc lần thứ hai (1831) gồm 127 bài thơ; Dương trình ký kiến (ghi chép những điều tai nghe mắt thấy trong cuộc hành trình trên biển) khi Phan đi tiền quân hiệu lực sang Inđônêxia (1832), tác phẩm này bị mất nay chưa tìm thấy; Nam trình tạp ngâm tập thơ 36 bài (bị mất); Tiến Ngọc phả biểu là cuốn gia phả nhà Nguyễn do Phan và một người khác soạn dâng Minh Mệnh.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Lịch triều loại chí là công trình lớn nhất làm cho tên tuổi của Phan sống mãi. Toàn bộ trí tuệ, tài năng, sự đam mê khoa học, ý chí lao động Phan dồn hết cho công trình này. Nó là sự kết tinh một tình yêu lớn đối với lịch sử và văn hóa của dân tộc.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Trong lời tựa của tác phẩm, Phan đã kể về công việc của mình:</span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"><em>“Nước Nam từ Triệu, Đinh, Lê, Lý, trần, phong hội đã mở, đời nào cũng có chế độ của thời ấy. Đến thời nhà Lê kiến thiết kỹ càng, phép tắc đầy đủ, thanh danh của nước và văn hóa, nhân tài đều thịnh không kém gì Trung Hoa…</em></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Duy điển lễ của các triều trước chưa có sách sẵn. Trong quốc sử biên chép công việc hàng năm về điển lễ còn sơ lược nhiều. Huống chi từ năm Bính Ngọ (1786) xẩy ra việc binh đao đến giờ, sách cũ tan nát, chỉ còn lại một ít của các cố gia thế tộc cất giấu đi. Các sách nát, vở cũ còn lại biên chép lẫn lộn sai lầm chưa lần ra đầu mối, có bàn về điển cố các triều thì lờ mờ không bằng cớ vào đâu. Vậy thì, chép lấy những điều mắt thấy tai nghe, chia ra từng việc, từng loại để làm một quyển có khuôn phép há chẳng phải là nhiệm vụ của nhà học giả ư ?</em></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tôi từ nhỏ đi học vẫn thường có chí ấy. May nhờ sách vở của mấy đời để lại và sự dạy dỗ của gia đình nên về điển chương gọi là có biết qua đầu mối, nhưng hiềm vì sử sách tản mát chưa kịp sửa chép. Từ khi vào núi đến giờ, mới đóng của tạ khách cố sức tìm nhặt, sau khi đọc sách được nhàn rỗi, thì lại tùy từng loại khảo xét và đính chính, có khi nghĩ được điều gì thì làm ra lời bàn. Ngày tháng góp lại đến nay đã trải 10 năm, biên chép đã xong”…</em></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Lịch triều hiến chương loại chí tất cả có 10 chí, 49 quyển ghi chép 10 bộ môn được phân loại, nghiên cứu, theo trình tự:</span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">1- Dư địa chí: nghiên cứu sự thay đổi về lãnh thổ bờ cõi qua các thời đại <span style="font-size: 15px">.</span></span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">2- Nhân vật chí: kể về hành trạng các vua chúa, những nhân vật như danh tướng, hiền sĩ có công tích đối với các triều đại.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">3- Quan chức chí: việc đặt quan chức và thay đổi quan chức các triều đại, chế độ phân phát bổng lộc, chế độ bổ dụng người làm quan.</span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">4- Lễ nghi chí: những quy định về y phục, mũ miện, xe cộ của vua chúa, các phong tục thờ cúng, tang ma, cưới hỏi.</span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">5- Khoa mục chí: phép tắc thi cử, thể lệ các kỳ thi, học vị học chế các đời.</span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">6- Quốc dụng chí: sổ hộ khẩu, phép thu thuế, đánh thuế hàng hoá, tiền tệ, chế độ ruộng đất…</span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">7- Hình luật chí: khái quát về luật lệ, luật pháp các đời.</span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">8- Binh chế chí: việc tổ chức quân đội, chế độ quân lương, quân trang, quân dụng, phép thi võ.</span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">9- Văn tịch chí: nói về sách vở, văn hóa, văn học các thời.</span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">10- Bang giao chí: thể chế ngoại giao, nghi lễ đón tiếp các sứ thần các nước.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Đó là toàn bộ lịch sử văn hiến của một dân tộc chứa đựng trong bộ sách bách khoa toàn thư với chiều rộng và bề sâu 10 khoa học thiết yếu của một quốc gia. Thực chất công việc nghiên cứu của Phan là tỉ mẩn làm công việc phân loại, hệ thống và đánh giá các tri thức. Với cốt cách sáng suốt, sành sỏi, bao quát, tường tận với tính chính xác của tư liệu, sự tôn trọng sự thực khách quan, Phan Huy Chú đã vững vàng đóng các vai nhà sử học, nhà địa lý, nhà luật học, nhà kinh tế học, nhà giáo dục, nhà quân sự, nhà ngoại giao, nhà thư tịch học, nhà nghiên cứu và phê bình văn học… Lĩnh vục nào Phan cũng tỏ ra uyên thâm, chứa đựng nhiều tư tưởng tiến bộ, thể hiện tinh thần dân tộc độc lập và bản lĩnh học thuật cao cường của cá nhân Phan cũng như tinh hoa của các thế hệ. Sau 177 năm từ khi Lịch triều hiến chương loại chí ra đời, liệu có ai đó ở nước ta dám làm một công trình quy mô như ông “tú quèn” họ Phan này chăng?</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Tính mục đích của Lịch triều hiến chương loại chí nằm ngay trong tên gọi của nó: hãy giữ vững và làm theo pháp chế, điển chế của các đời. Rõ ràng sách là đối tượng nghiên cứu phổ biến tâm thuật trọng yếu của nhà bác học, ông nghĩ: “Cái tinh vi của lòng nghĩ ngợi lo toan, đều gửi gắm trong văn chương để hiếu thấu đường đời. Văn minh của loài người đều chứa trong sách” (Tựa Văn tịch chí).</span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Cùng với tập ký Vân đài loại ngữ của nhà bác học Lê Quý Đôn, Lịch triều hiến chương loại chí là một trước tác khoa học chặt chẽ, khuôn mẫu để “người đọc một đời hiểu thấu muôn đời”.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'">Khi bộ Lịch triều hiến chương loại chí dâng lên, vua Minh Mạng thưởng cho Phan 30 lạng bạc, 1 chiếc áo sa, 30 ngòi bút lông, 30 thỏi mực. Chút nhuận bút hương hoa bạc bẽo cho mười năm lao động khoa học với công trình không ai sánh nổi đã không làm cho Phan buồn tủi, trái lại làm ông vui sướng vì bao điều tâm huyết của nhà học giả kiêm nghệ sĩ gửi gắm trong đó đã được khắc in và phổ biến.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'Arial'"></span></span> <span style="font-size: 15px"><strong>S <span style="font-size: 15px">ưu t <span style="font-size: 15px">ầm</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="vanchuong83, post: 146297, member: 303055"] [CENTER] [SIZE=4] [SIZE=4][B]TRƯỚC TÁC KHOA HỌC ĐỂ MỘT ĐỜI ĐỂ HIỂU MUÔN ĐỜI[/B][/SIZE] (Tưởng niệm nhân 229 năm ngày sinh nhà bác học Phan Huy Chú) [/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial][B]Thái Doãn Hiểu[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4] [/SIZE][/CENTER] [SIZE=4] Năng lượng khoa học mà Phan Huy Chú gửi vào bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí là khuynh hướng tư tưởng duy lý, phương pháp tư biện phân tích, phân loại, tổng hợp một cách nhất quán, hệ thống logic, tạo nên được một sản phẩm văn hóa khổng lồ, đột phá, vượt quá xa thời phong kiến trung cổ của văn minh… nông nghiệp. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chính Phan chứ không ai khác là người tiên phong khai sáng cho sự tiến triển của văn hóa nước nhà từ cổ đại sang hiện đại. [/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Phan Huy Chú (1782-1840) là nhà thơ, nhà bác học lỗi lạc của thế kỷ XIX.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Phan Huy Chú tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong. Quê quán của ông ở xã Thụy Khê, tục gọi làng Thày, một vùng quê có thắng tích Sài Sơn ở Hà Tây. Quê gốc - họ Phan Huy của ông hiện nay vẫn là một dòng họ lớn có truyền thống khoa bảng ở xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. Gốc gác xa xưa của họ nổi tiếng về nghề ca xướng.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Phan xuất thân trong một gia đình trí thức có tầm cỡ với những tên tuổi đáng nể trọng : Phan Huy Cận (ông nội), Ngô Thì Sĩ (ông ngoai), Phan Huy Ích (cha), Ngô Thời Nhiệm (bác – anh mẹ), Ngô Thì Vị (cậu), Phan Huy Ôn (chú), Phan Huy Sáng (chú), bà Ngô Thị Thục (mẹ) là người có học, rồi vợ ông (con gái danh y, quan thượng thư, tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch tức Nguyễn Gia Phan)… Gen di truyền, sự kế thừa và môi trường ấy đã nâng đỡ, tơ trời vấn vít tạo nên tài năng, học vấn cho Phan. Vốn thông minh, lại được các thành viên trong gia đình rèn cặp nên Phan học rất giỏi, nổi tiếng uyên bác cả vùng Sài Sơn. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Phan sống trong gai góc vây bủa thời tráng niên của mình là một hàng rào lý lịch khá đặc biệt nguy hiểm: nội thân ngoại thích của ông đều là trụ cột của Tây Sơn - kẻ tử thù của nhà Nguyễn vừa bị họ đánh đổ, trả thù khốc liệt, hèn mạt. Con đường thi thố tài năng bằng hoạn lộ thật mịt mờ. Sau vài phen thử vận may vào năm 1807 và 1819, không vượt khỏi tú tài vì bị kỳ thị, ông Kép Thày (dân làng nể trọng gọi thế) đành chuyển sang con đường trước thuật với tất cả năng lực được tu luyện khá kỹ càng cùng chí hướng nung nấu của một trí thức tự do. Ròng rã 10 năm trời từ tuổi 27 (1809) đến tuổi 37 (1819), Phan dựng nhà trong núi, “đóng cửa tạ khách” (đóng cửa không tiếp khách) để làm sách. Sống giữa một thiên nhiên u nhã với bạt ngàn sách vở tàng trữ được bao đời trong kho thư tịch gia bảo của gia đình, Phan đã chịu đói lạnh dùi mài nghiên cứu, tổng kết được mọi điển chương, thâu tóm được mọi tinh túy học vấn dân tộc của những người đi trước, soạn ra bộ bách khoa sử học đồ sộ Lịch triều hiến chương loại chí. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Năng lượng khoa học mà Phan gửi vào bộ sách là khuynh hướng tư tưởng duy lý, phương pháp tư biện phân tích, phân loại, tổng hợp một cách nhất quán, hệ thống logic, tạo nên được một sản phẩm văn hóa khổng lồ, đột phá, vượt quá xa thời phong kiến trung cổ của văn minh… nông nghiệp. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chính Phan chứ không ai khác là người tiên phong khai sáng cho sự tiến triển của văn hóa nước nhà từ cổ đại sang hiện đại.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Dẫu không có chân trong đám đại khoa nhưng tiếng thơm của Phan vẫn bay xa. Vua Minh Mệnh nghe tin đồn xuống chiếu triệu ông vào Huế cho giữ chức Hàn lâm viện biên tu (1821), sung đoàn sứ bộ đi sứ nhà Thanh (1828), thăng Hiệp trấn Quảng Nam (1829). Sau đó Phan bị giáng. Năm 1831, lại được cử đi sứ Trung Quốc lần hai, khi về bị cách tuột vì bị ghép tội lộng hành. Năm 1832, lại bị Minh Mạng bắt đi tiền quân hiệu lực ở Inđônêxia về công thương buôn bán… Xong việc, Phan được khôi phục với chức vụ Tư vụ bộ Công. Trên thực tế, Minh mạng cũng muốn dùng Phan nhưng không thể ưu ái, tin cậy được bọn cừu gia đệ tử. Bản thân Phan cũng vậy, làm sao ông có thể yêu quý cái triều đình đã nọc cổ cha và bác ông đánh tóe máu, một người mang đầy thương tích, một người tử thương giữa Văn Miếu? Phan không phạm lỗi sao được khi tài năng và đức thương dân của ông vượt ra khỏi trí não lôi long hẹp hòi, bảo thủ của bọn hủ nho già (1). [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Có lẽ đến đây, trên mười năm “tha hóa” (chữ dùng của nhà sứ học Lê Văn Lan) làm quan chức hành chánh triều nhà Nguyễn, Phan đã lợm mùi khổ nhục thăng giáng nơi quan trường, lấy cớ đau yếu xin cáo quan về nghỉ, mở trường dạy học ở Thanh Mai, rồi mất ở đó. Mộ ông hiện nay còn táng tại ở xã Vân Thắng, huyện Ba Vì, Hà Nội.[/FONT] [/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Ngoài bộ Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú còn để lại: Hoàng Việt địa dư ký: sách viết về địa lý nước ta dưới triều Nguyễn; Hoa thiều ngâm lục là tập thơ Phan đi sứ Trung Quốc lần thứ nhất (1825) gồm: quyển thượng có một bài tựa, 161 bài thơ, 3 bài phú, quyển hạ có 114 bài thơ, 1 bài phú và 8 bài từ; Hoa trình tập ngâm là tập thơ Phan đi sứ Trung Quốc lần thứ hai (1831) gồm 127 bài thơ; Dương trình ký kiến (ghi chép những điều tai nghe mắt thấy trong cuộc hành trình trên biển) khi Phan đi tiền quân hiệu lực sang Inđônêxia (1832), tác phẩm này bị mất nay chưa tìm thấy; Nam trình tạp ngâm tập thơ 36 bài (bị mất); Tiến Ngọc phả biểu là cuốn gia phả nhà Nguyễn do Phan và một người khác soạn dâng Minh Mệnh. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Lịch triều loại chí là công trình lớn nhất làm cho tên tuổi của Phan sống mãi. Toàn bộ trí tuệ, tài năng, sự đam mê khoa học, ý chí lao động Phan dồn hết cho công trình này. Nó là sự kết tinh một tình yêu lớn đối với lịch sử và văn hóa của dân tộc. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Trong lời tựa của tác phẩm, Phan đã kể về công việc của mình:[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial][I]“Nước Nam từ Triệu, Đinh, Lê, Lý, trần, phong hội đã mở, đời nào cũng có chế độ của thời ấy. Đến thời nhà Lê kiến thiết kỹ càng, phép tắc đầy đủ, thanh danh của nước và văn hóa, nhân tài đều thịnh không kém gì Trung Hoa…[/I][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial][I]Duy điển lễ của các triều trước chưa có sách sẵn. Trong quốc sử biên chép công việc hàng năm về điển lễ còn sơ lược nhiều. Huống chi từ năm Bính Ngọ (1786) xẩy ra việc binh đao đến giờ, sách cũ tan nát, chỉ còn lại một ít của các cố gia thế tộc cất giấu đi. Các sách nát, vở cũ còn lại biên chép lẫn lộn sai lầm chưa lần ra đầu mối, có bàn về điển cố các triều thì lờ mờ không bằng cớ vào đâu. Vậy thì, chép lấy những điều mắt thấy tai nghe, chia ra từng việc, từng loại để làm một quyển có khuôn phép há chẳng phải là nhiệm vụ của nhà học giả ư ? [/I][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial][I]Tôi từ nhỏ đi học vẫn thường có chí ấy. May nhờ sách vở của mấy đời để lại và sự dạy dỗ của gia đình nên về điển chương gọi là có biết qua đầu mối, nhưng hiềm vì sử sách tản mát chưa kịp sửa chép. Từ khi vào núi đến giờ, mới đóng của tạ khách cố sức tìm nhặt, sau khi đọc sách được nhàn rỗi, thì lại tùy từng loại khảo xét và đính chính, có khi nghĩ được điều gì thì làm ra lời bàn. Ngày tháng góp lại đến nay đã trải 10 năm, biên chép đã xong”…[/I][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Lịch triều hiến chương loại chí tất cả có 10 chí, 49 quyển ghi chép 10 bộ môn được phân loại, nghiên cứu, theo trình tự:[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]1- Dư địa chí: nghiên cứu sự thay đổi về lãnh thổ bờ cõi qua các thời đại [SIZE=4].[/SIZE][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]2- Nhân vật chí: kể về hành trạng các vua chúa, những nhân vật như danh tướng, hiền sĩ có công tích đối với các triều đại.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]3- Quan chức chí: việc đặt quan chức và thay đổi quan chức các triều đại, chế độ phân phát bổng lộc, chế độ bổ dụng người làm quan.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]4- Lễ nghi chí: những quy định về y phục, mũ miện, xe cộ của vua chúa, các phong tục thờ cúng, tang ma, cưới hỏi.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]5- Khoa mục chí: phép tắc thi cử, thể lệ các kỳ thi, học vị học chế các đời.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]6- Quốc dụng chí: sổ hộ khẩu, phép thu thuế, đánh thuế hàng hoá, tiền tệ, chế độ ruộng đất…[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]7- Hình luật chí: khái quát về luật lệ, luật pháp các đời.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]8- Binh chế chí: việc tổ chức quân đội, chế độ quân lương, quân trang, quân dụng, phép thi võ.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]9- Văn tịch chí: nói về sách vở, văn hóa, văn học các thời.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]10- Bang giao chí: thể chế ngoại giao, nghi lễ đón tiếp các sứ thần các nước. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Đó là toàn bộ lịch sử văn hiến của một dân tộc chứa đựng trong bộ sách bách khoa toàn thư với chiều rộng và bề sâu 10 khoa học thiết yếu của một quốc gia. Thực chất công việc nghiên cứu của Phan là tỉ mẩn làm công việc phân loại, hệ thống và đánh giá các tri thức. Với cốt cách sáng suốt, sành sỏi, bao quát, tường tận với tính chính xác của tư liệu, sự tôn trọng sự thực khách quan, Phan Huy Chú đã vững vàng đóng các vai nhà sử học, nhà địa lý, nhà luật học, nhà kinh tế học, nhà giáo dục, nhà quân sự, nhà ngoại giao, nhà thư tịch học, nhà nghiên cứu và phê bình văn học… Lĩnh vục nào Phan cũng tỏ ra uyên thâm, chứa đựng nhiều tư tưởng tiến bộ, thể hiện tinh thần dân tộc độc lập và bản lĩnh học thuật cao cường của cá nhân Phan cũng như tinh hoa của các thế hệ. Sau 177 năm từ khi Lịch triều hiến chương loại chí ra đời, liệu có ai đó ở nước ta dám làm một công trình quy mô như ông “tú quèn” họ Phan này chăng?[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Tính mục đích của Lịch triều hiến chương loại chí nằm ngay trong tên gọi của nó: hãy giữ vững và làm theo pháp chế, điển chế của các đời. Rõ ràng sách là đối tượng nghiên cứu phổ biến tâm thuật trọng yếu của nhà bác học, ông nghĩ: “Cái tinh vi của lòng nghĩ ngợi lo toan, đều gửi gắm trong văn chương để hiếu thấu đường đời. Văn minh của loài người đều chứa trong sách” (Tựa Văn tịch chí).[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Cùng với tập ký Vân đài loại ngữ của nhà bác học Lê Quý Đôn, Lịch triều hiến chương loại chí là một trước tác khoa học chặt chẽ, khuôn mẫu để “người đọc một đời hiểu thấu muôn đời”. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=Arial]Khi bộ Lịch triều hiến chương loại chí dâng lên, vua Minh Mạng thưởng cho Phan 30 lạng bạc, 1 chiếc áo sa, 30 ngòi bút lông, 30 thỏi mực. Chút nhuận bút hương hoa bạc bẽo cho mười năm lao động khoa học với công trình không ai sánh nổi đã không làm cho Phan buồn tủi, trái lại làm ông vui sướng vì bao điều tâm huyết của nhà học giả kiêm nghệ sĩ gửi gắm trong đó đã được khắc in và phổ biến. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][B]S [SIZE=4]ưu t [SIZE=4]ầm[/SIZE][/SIZE][/B] [/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Trước tác khoa học để một đời để hiểu muôn đời
Top