Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Trung Quốc dưới chế độ phong kiến
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 50379" data-attributes="member: 28779"><p><strong><span style="color: Blue">C - THỜI KỲ SUY TÀN CỦA CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC</span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">VI - TRIỀU NGUYÊN <img src="https://cdn.jsdelivr.net/gh/twitter/twemoji@14.0.2/assets/72x72/1f641.png" class="smilie smilie--emoji" loading="lazy" width="72" height="72" alt=":(" title="Frown :(" data-smilie="3"data-shortname=":(" /> 1271-1368)</span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1- Cuộc chinh phuc của người Mông cổ Và sự thành lập triều Nguyên : </span></strong></p><p></p><p> Năm 1206, một thủ lĩnh bộ lạc tên là Têmusin, được hội nghị qúy tộc bầu làm đại Hãn, lấy hiệu là Singhit. Ðó là nhân vật ta quen gọi là Thành Cát Tư Hãn. Sự kiện ấy đánh dấu nhà nước Mông cổ chính thức thành lập.Ngay sau đó với những đội kỵ binh thiện chiến, Thành Cát Tư Hãn tích cực chuẩn bị chinh phục bên ngoài. </p><p></p><p> Năm 1209, Mông cổ tấn công Tây hạ, Tây Hạ thấy thế không thể chống cự nổi, phải nộp con gái xin hàng. Năm 1211, Thành Cát Tư Hãn tấn công nước Kim, đến năm 1215, chiếm được toàn bộ vùng đất từ Hoàng hà trở về Bắc. Năm 1216, Thành Cát tạm ngừng chiến sự ở phía Nam để chuẩn bị chinh phục phía Tây. </p><p></p><p> Năm 1218, cuộc viễn chinh sang phía Tây bắt đầu, chỉ trong vòng 7 năm, quân Mông cổ lần lượt chiếm được Trung Á, một phần Tây Á và lưu vực sông Daniep ở Ðông âu. Năm 1226, Mông cổ lại đánh Tây Hạ và năm sau Tây Hạ bị diệt vong, Thành Cát Tư Hãn bị bệnh chết mấy ngày trước khi Tây Hạ nộp thành đầu hàng. </p><p></p><p> Năm 1230, Mông cổ lại tấn công nước Kim, đến năm 1234, quân Mông cổ với sự tham gia của quân Tống, đã đánh bại nước Kim. Theo giao ước trước kia, Tống đem quân thu hồi Lạc dương và Khai Phong, nhưng bị quân Mông cổ chặn đánh và tháo nước sông Hoàng Hà làm cho quân Tống chết đuối gần hết. Việc đó mở đầu cho sự xung đột giữa Nam Tống và Mông cổ. Tuy nhiên do sự đấu tranh trong cung đình Mông cổ, cuộc chinh phục Nam Tống phải tạm hoãn. Năm 1251, Mông Ca (cháu Thành Cát Tư Hãn) giành được ngôi đại hãn. </p><p></p><p> Ðể tạo nên một thế bao vây đối với Nam Tống, Mông Ca sai em mình là Khubilai (Hốt tất Liệt) chinh phục khu vực phía Tây và Taq6y Nam của Trung quốc ngày nay và đã tiêu diệt nước Ðại Lý ở Vân nam vào năm 1253. Năm 1258, Mông Ca và Hốt Tất Liệt đem quân tấn công Nam Tống, nhưng đến năm 1259, Mông Ca bị tử trận, Hốt Tất Liệt vội vàng rút quân về Bắc để tranh giành ngôi đại hãn. </p><p></p><p> Sau 4 năm tranh giành, Hốt Tất Liệt giành được ngôi đại hãn. Là người vốn chịu nhiều ảnh hưởng của văn minh Trung quốc, năm 1271,Hốt Tất liệt đổi xưng làm hoàng đế, đặt tên nước là Nguyên, dời đô từ Khai Bình đến Ðại Ðô (Bắc Kinh), đặt chế độ quan lại giống như các triều đại phong kiến Trung quốc. Sau đó năm 1274,, Hốt Tất Liệt sai tướng đem quân đi đánh Nam Tống. Năm 1276, kinh đô Lâm An (Hàng Châu) của Nam Tống bị hạ, triều đình Nam Tống đầu hàng, nhưng một số quan lại yêu nước lập dòng dõi nhà Tống lên làm vua ở Phúc Châu (Phúc Kiến) và tiếp tục kháng chiến đến năm 1279 mới hoàn toàn bị tiêu diệt. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2- Chính sách thống trị của nhà Nguyên: </span></strong></p><p></p><p> Trong qúa trình chinh phục nước Kim, quân Mông cổ thi hành chính sách giết sạch, cướp sạch, đốt sạch để lấy đất làm bãi chăn nuôi. </p><p> Sau khi tiêu diệt Nam Tống, Triều Nguyên một mặt hoàn toàn bắt chước cách tổ chức bộ máy nhà nước, chế đô phân phong ruộng đất, chế độ thuế khóa,... của Trung quốc, nhưng mặt khác lại thi hành chính sách áp bức dân tộc trắng trợn. Ðể giành quyền ưu tiên cho dân tộc chinh phục, triều Nguyên chia cư dân cả nước làm 4 loại : </p><p></p><p>- <em> Loại 1 là người Mông cổ. </em></p><p><em>- Loại 2 là người Sắc, Mục (bao gồm người Tây Hạ,Duy Ngô Nhĩ, các tộc ở Trung á, Ba tư,...) </em></p><p><em>- Loại 3 là người Hán ( bao gồm người Khiết Ðan, Nữ Chân, Hán, Cao Li,... vốn là cư dân của nước Kim). </em></p><p><em>- Loại 4 là người Nam ( tức là cư dân của Nam Tống). </em></p><p></p><p> Bốn loại người nầy bị đối xử phân biệt rõ rệt về mọi mặt. Quyền chỉ huy quân đội hoàn toàn thuộc về người Mông cổ.Về pháp luật, nếu người Hán, người Nam phạm tội giết người thì bị xử tử, còn người Mông cổ thì chỉ bị phạt đánh gậy hoặc đưa lên biên giới phía Bắc sung vào quân đội. Ðể đề phòng nhân dân Trung quốc nổi dậy đấu tranh, pháp luật hà Nguyên còn nghiêm cấm người Hán, người Nam không được tụ họp đông người như đi săn, rước thần và không được cầm vũ khí. </p><p></p><p> Về mặt ruộng đất, nhà Nguyên ban cấp nhiều ruộng đất cho qúy tộc Mông cổ và các chùa chiền. Ngoài ruộng đất được phong, bọn qúi tộc Mông cổ còn chiếm đoạt ruộng đất của nông dân.Nhân đó ở Hoa Nam, các địa chủ Hán tộc cũng tìm mọi cách phát triển thế lực kinh tế của mình., </p><p> </p><p> Do chính sách khủng bố, cướp đoạt và nô dịch đó, nông dân Trung quốc rất cực khổ. Rất nhiều người bị biến thành nô tỳ mà đời Nguyên gọi là khu khẩu hoặc khu đinh. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue"> 3 - Những cuộc chiến tranh xâm lược : </span></strong></p><p></p><p> Ðầu đời Nguyên, chỉ trong vòng 20 năm, Hốt Tất Liệt đã phát động nhiều cuộc chiến tranh để xâm lược Nhật Bản, Miến Ðiện, Chiêm Thành, Ðại Việt và Gia Va. </p><p></p><p> Từ lâu Nhật Bản là mục tiêu chinh phục của Mông Cổ. Năm 1226, Hốt Tất Liệt nhiều lần sai sứ đưa thư sang Nhật Bản yêu cầu lập quan hệ ngoại giao và gịuc vua Nhật Bản cử ngay sứ giả sang triều đình Mông Cổ, nếu không đáp ứng yêu cầu đó, thì chiến tranh không thể tránh khỏi nhưng trước sau Nhật Bản vẫn không trả lời. </p><p></p><p> Vì vậy, sau khi thành lập nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt sai Hân Ðô, Hồng Trà Khâu đưa quân sang đánh Nhật Bản. Quân Nguyên chiếm được các đảo nhỏ Su Si Ma và I Ki rồi đổ bộ lên miền Tây Bắc đảo Kiu Sư. Tuy nhiên, tự nhận thấy mình chưa đủ lực lượng tiến sâu hơn nữa, quân Nguyên phải rút lui. </p><p></p><p> Năm 1281, nhà Nguyên lại sai các tướng A Tháp Hải, Phạm Văn Hổ, A Hàn Ðô, Hồng Trà Khâu đưa quân sang tấn công Nhật Bản lần thứ hai. Khi quân Nguyên vừa mới tới Nhật Bản chưa kịp giao chiến thì gặp bão, nhiều thuyền bị đắm. Văn Hổ cùng các tướng khác tự chọn lấy những chiếc thuyền chắc chắn và tốt để về, bỏ lại hơn 10 vạn binh lính ở dưới chân núi... mọi người đang chặt gổ đóng thuyền để về thì người Nhật Bản đến đánh, binh sĩ chết gần hết, ba vạn người bị bắt đem đi...thế là 10 vạn quân chỉ còn ba người về được mà thôi.. </p><p></p><p> Nhà Nguyên dự định đánh Nhật Bản một lần nữa, nhưng khi đang chuẩn bị binh lính thuyền bè thì cuộc chiến tranh xâm lược Ðại Việt năm 1285 bị thất bại nặng nề, nên năm 1286, Hốt Tất Liệt phải quyết định bỏ việc Nhật Bản để chuyên vào việc Giao Chỉ . </p><p></p><p> Ðối với Miến Ðiện, năm 1271, Hốt Tất Liệt nhiềulân sai sứ sang yêu cầu Miến Ðiện đầu hàng, nhưng Miến Ðiện Không chịu thuần phục, thậm chí còn có lần giết sứ giả. Vì vậy Hốt Tất Liệt đã cho quân sang tấn công Miến Ðiện ba lần vào các năm 1277, 1283, 1287. Kết quả Miến Ðiện phải thuần phục dưới hình thức phải nhận phong hiệu và phải tiến cống nhà Nguyên. </p><p></p><p> Sau đó chính quyền Miến Ðiện bị ba anh em Athinhcaya thuộc bộ tộc San ( Thái ) lũng đoạn. Năm 1298, Athinhcaya bắt vua Miến Ðiện cầmtù rồi giết chết. Con rể và con trai vua Miến Ðiện chạy trốn sang Trung Quốc. </p><p></p><p> Lợi dụng sự rối ren ấy, năm 1300, vua Nguyên lại xâm lược Miến Ðiện lần thứ tư. Bị quân Nguyên bao vây, anh em Athinhcaya đã đem nhiều vàng bạc đến đút lót cho các tướng Nguyên lấy lí do trời nóng, lam chướng phát sinh, quân khổ nhọc nếu không về sợ bị tội vì tử thương. rồi lập tức rút quân. Về đến nước, hai tướng Cao Khánh và Sát Hãn Bất Hoa đều bị xử tử vì tội ăn hối lọ làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược. </p><p></p><p> Chiêm Thành cũng là mục tiêu xâm lược của triều Nguyên. Năm 1279, Hốt Tất Liệt sai sứ đi yêu cầu vua Chiêm Thành đến chầu. Ðể tránh hiểm họa chiến tranh, Chiêm Thànhtỏ ý thuần phục, nhưng không đồngý để nhà Nguyên lập cơ quan hành tỉnh ở nước mình. Vì vậy, năm 1283, quân Nguyên tấn công kinh đô Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành đốt kho tàng tạm thời rút vào rừng. Sau đó, vua Chiêm Thành giả vờ xin hàng để nhử quân Nguyên vào trận địa bố trí sẳn. Quân Nguyên phảiliều mình đánh mới thoát về đồn cố thủ và dến đầu 1284 phải lặng lẽ rút quân về nước.</p><p> </p><p> Ðối với Ðại Việt, trước khi thành lập triều Nguyên, đầu năm 1258, quân Nguyên ở Vân Nam đã mở cuộc tấn công lần thứ nhất nhằm mục đích đánh dẹp các xứ Man Di chưa phụ thuộc , đồng thời để khép kín vòng vây đối với Nam Tống. Thế nhưng chỉ trong vòng nữa tháng, lần đầu tiên, quân Nguyên bị đánh bại hoàn toàn. Hai cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Nguyên ( 1285, 1288 ) cũng đều thất bại hoàn toàn.</p><p> </p><p> Ðối với Gia Va, năm 1292, Hốt Tất Liệt sai Mạnh Kì đi yêu cầu nước này thuần phục nhà Nguyên, nhưng bị vua Kritangara (1268 - 1292 ) thuộc triều Xinggaxari thích chử vào mặt đuổi về. </p><p></p><p> Vin vào cớ ấy, cuối năm 1292, nhà Nguyên cử Sử Bật, Cao Hưng đem 2 vạn quân với 1000 chiếc thuyền vượt biển tiến xuống phía nam và đến đầu 1293 thì đến Gia Va. </p><p></p><p> Vào lúc đó, Kitangara bị một chúa phong kiến là Giayacatvang giết chết để cướp ngôi. Người con rể của ông là Rajen Vijaya giả vờ đầu hàng quân Nguyên để mượn lực lượng quân xâm lược trả thù cho nhạc phụ. Nhờ vậy quân Nguyên tạm thời thu được thắng lợi, nhưng sau đó Rajen Vijaya tổ chức phản công, quân Nguyên thấtbại phải rút lui. Về đến nước, Sử Bật bị phạt đánh 17 gậy và bị tịch thu 1/3 tài sản. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">4 - Phong trào khởi nghĩa cuối Nguyên </span></strong></p><p></p><p> Dù đã Trung Quốc hóa, triều Nguyên vẫn là triều đại của kẻ chinh phục ngoại tộc, do đó trong thời kì này, xã hội Trung Quốc tồn tại hai mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Chính vì thế, trong suốt thời kì thống trị của triều Nguyên, các phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc diễn ra liên tiếp. Ðặt biệt cuối đời Nguyên, tập đoàn thống trị Mông Cổ ngày càng xa xỉ, trong khi đó đê điều hỏng nặng không sửa chữa, các laọi thiên tai thường xuyên xãy ra, dịch bệnh lan tràn, do đó nhân dân càng khốn khổ. Trong hoàn cảnh ấy, các hình thức tôn giáo như đạo Di Lặc, đạo Bạch Liên và Minh giáo đang âm ỉ lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, nhất là ở vùng lưu vực sông Hoàng Hà. </p><p></p><p> Năm 1351, đe Hoàng Hà sau nhiều lần bị vở, nhà Nguyên bất đắt dĩ phải điều 15 vạn dân phu đi đắp đê. Nhan cơ hội ấy, giáo trưởng đạo Bạch Liên là Hnà Sơn đồng cùng đồ đệ của mình là Lưu Phúc Thông mưu tính viẹc khởi nghĩa. Ðể tranh thủ sự đồngtình của quần chúng, Lưu Phúc Thông phao tin rằng Hàn Sơn đồng là cháu 8 đời của Tống Huy Tông từ Nhật Bản đem quân về đánh đổ triều Ngyuên. Nhưng trong khi chuẩn bị khởi nghĩa thì kế hoạch bị bại lộ. Hàn Sơn Ðồng bị bắt và bị giết chết. Tuy vậy, Lưu Phúc Thông vẫn tiếp tục lãnh đạo khởi nghĩa. </p><p></p><p> Ðược tin Lưu Phúc Thông dựng cờ khởi nghĩa, nhân dân nhiều nơi nổi dậy hưởng ứng, trong đó có những nhóm tương đối lớn như lực lượng của Từ Thọ Huy ở Hồ Bắc, Quách Tử Hưng ở An Huy. Quần chúng khởi nghĩa đều chít khăn đỏ làm hiệu nên gọi là quân Khăn đỏ ( Hồng Cân quân ). Khẩu hiệu đấu tranh của họ là đánh đổ nhà Nguyên, khôi phục nhà Tống. </p><p></p><p> Lúc đầu lực lượng khởi nghĩa của Lưu Phúc Thông đã giành được thắng lợi to lớn, đã tôn con Hàn Sơn Ðồng là Hàn Lâm Nhi lên làm vua, và đặt tên nước là Ðại Tống. Nhưng đến năm 1363, Lưu Phúc Thông bị Trương Sĩ Thành, một thủ lĩnh nông dân đã thuần phục nhà Nguyên, đánh bại. </p><p></p><p> Khi quân khăn đỏ của Lưu Phúc Thông đang tiến quân thuận lợi ở miền bắc thì nghĩa quân do Từ Thọ Huy lãnh đạo cũng thu được nhiều thắng lợi ở vùng lưu vực Trường Giang. Năm 1360, Từ Thọ Huy bị một viên tướng của mình là Trần Hữu Lượng giết chết. Trần Hữu Lượng tự xưng là vua, đặ tên nước là Hán. Năm 1362, một tướng khác của Từ Thọ Huy là Minh Ngọc Trân không phục Trần Hữu Lượng cũng xưng vương ở vùng Tứ Xuyên Vân Nam, đặt tên nước là Hạ. </p><p></p><p> Cũng trong thời kì này, lực lượng quân khăn đỏ do Quách Tử Hưng lãnh đạo không ngừng phát triển. Trong hàng ngũ họ Quách có một nhân vật về sau trở nên rất quan trọng, đó là Chu Nguyên Chương. </p><p></p><p> Chu Nguyên Chương xuất thân từ một gia đình bần nông, đã từng làm sư khất thực một thời gian. Năm 1352, ông tham gia lực lượng khởi nghĩa của Quách Tử Hưng. Năm 1355, Quách Tử Hưng chết, Chu Nguyên Chương trở thành người lãnh đạo chính của nghĩa quân. </p><p></p><p> Năm 1356, Chu Nguyên chương thành lập chính quyền ở Kim Lăng ( Nam Kinh ), tự xưng là Ngô quốc công, rồi đến năm 1364 thì xưng làm Ngô vương. Sau khi lần lượt đánh bại các tập đoàn quân phiệt Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành... đến năm 1367, Chu Nguyên Chương đã thâu tóm hết miền Nam Trung Hoa rộng lớn. </p><p></p><p> Ngay năm đó, Chu Nguyên Chương sai tướng đem quân đánh miền bắc, đồng thời truyền hịch nói rõ mục đích của việc tiến quân là để đánh đuổi giặc Hồ, khôi phục Trung Hoa, lập lại cương kỉ cứu vớt nhân dân, khôi phục uy nghi cho quan lại người Hán.. </p><p></p><p> Trong khi quân Bắc tiến không ngừng thu được thắng lợi, năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế ở Kim Lăng, đặt tên nước là Minh. Mùa thu năm đó, quân đội của Chu Nguyên Chương tấn công Ðại Ðô, triều đình nhà Nguyên vội vàng chạy lên phía Bắc, ra khỏi Trường Thành. Nền thống trị của nhà Nguyên ở Trung Quốc kết thúc. Tiếp đó, Chu Nguyên Chương tiêu diệt thế lực cát cứ của Minh Ngọc Trân và các lực lượng còn lại của triều Nguyên, đến năm 1387 thì hoàn toàn thống nhất Trung Hoa. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">VII. TRIỀU MINH ( 1368 - 1644 )</span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Thời kì cường thịnh của triều Minh </span></strong></p><p></p><p> Khi nhà Minh mới thành lập, do hậu quả của chính sách cai trị của triều Nguyên và gần 20 năm chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc bị phá hoại nghiêm trọng, đời sống nhân dân rất khốn khổ. </p><p></p><p> Trước tình hình ấy, mặc dầu từ lâu không còn là đại biểu của giai cấp nông dân nữa, nhưng Minh Thái tổ ( Chu Nguyên Chương ) vẫn thông cảm được các nổi khổ của nhân dân đồng thời cũng hiểu rỏ sức mạnh của quần chúng. Vì vậy ông nói : Thiên hạ mới định, tài lực trăm họ còn khó khăn, giống như con chim mới tập bay, không thể nhổ lông nó, như cây mới trồng không thể lay gốc nó mà phải nâng niu nuôi dưỡng.. Quán triệt tư tưởng đó, Minh Thái tổ đã thi hành những chính sách sau đây: </p><p></p><p> - Trả tự do cho những người bị biến thành nô tì trong thời gian loạn lạc, đồng thời cấm cưỡng bức hoặc mua bán dân tự do làm nô tì. </p><p></p><p> - Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp như kêu gọi nhân dân khai khẩn đất hoang, cho họ có quyền sở hữu vĩnh viễn và không đánh thuế; kêu gọi dân lưu tán trở về quê quán, cấp cho họ ruộng hoang đồng thời cấp bò cày, nông cụ, thóc giống, lương thực để gíup họ vượt qua những khó khăn ban đầu. Nhà nước còn chú ý đến vấn đề thủy lợi, giảm nhẹ thuế khóa, cứu tế cho dân những nơi bị mất mùa. </p><p></p><p>- Bỏ những hình phạt tàn khốc thời Nguyên như thích chữ vào mặt, cắt mũi, chặt chân, thiến...đồng thời dùng nguyên tắc khoan hồng trong xét xử. </p><p></p><p> - Nghiêm trị bọn quan lại tham ôbằng các cực hình như chém bêu đầu, tùng xẻo, giết cả họ...Nhờ những chính sách nói trên, trong vòng 30 năm đầu đời Minh, kinh tế được khôi phục nhanh chóng và bước đầu phát triển, tình hình chính trị được ổn định, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện. </p><p></p><p> Song một mặt khác, Minh Thái Tổ rất quan tâm tới việc xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền, vì vậy năm 1380, ông quyết định bỏ chức thừa tướng để tập trung quyền hành vào tay hoàng đế. </p><p></p><p> Năm 1398, Minh Thái Tổ chết. Vì người con cả chết sớm nhưng cháu đích tôn ông được lên nối ngôi, nhưng người con thứ Yên vương Chu Ðệ đã từ miền bắcđem quân tấn công Kim Lăng. Cuộc nội chiến giữa hai chú cháu bùng nổ. Năm 1402, Chu Ðệ thắng và giành được ngôi hoàng đế. Ðó là Minh Thành Tổ, một ông vua nổi tiếng của triều Minh. </p><p></p><p> Trong thời kì thịnh trị của mình, Minh Thành tổ tiếp tục thi hành những chính sách thúc đẩy sản xuất nông nghiệp như tu sửa vãây dựng các công trình thủy lợi, chỉnh đốn thué khóa, cứu tế dân đói.. </p><p></p><p> Ðối với bên ngoài, Minh Thành Tổ tích cực xây dựng chính sách viễn giao cận công , dĩ Di trị Di . Ông đã năm lần đem quân đi đánh người Tác Ta và người Oi Rát, hai chi nhánh của tộc Mông Cổ, mua chuộc họ và xúi giục họ đánh lẫn nhau. Ông còn hết sức lôi kéo sự thuần phục của tộc Nữ Chân. Kết quả là có lúc thủ lĩnh các tộc tộc Tác Ta, Oi Rát, Nữ Chân tạm thời quy phục, nhưng quan hệ ấy không bền chặt, trái lại sau đó đã trở thành mối đe dọa lớn đói vởiTrung Quốc trong một thời gian dài. Cũng chính để được thuận lợi hơn trong các hoạt động quân sự ở phía bắc, nên năm 1421, Minh Thành tổ dời đo lên Bắc Kinh. </p><p></p><p> Ngoài ra Minh Thành tổ còn nhiều lần cử sứ giả đến các nước Ðông Nam Á, Nam Á, Tây Á để phô trương sự giàu mạnh của Trung Quốc và loi kéo các nước ở vùng này thuần phục nhà Minh. Trong những hoạt động ngoại giao đó, rầm rộ nhất là chuyến đi biển do viên Thái giám Trịnh Hòa dẫn đẫuuống các nước ven biển phía Nam từ năm 1405 đến năm 1433. </p><p></p><p> Ðối với Ðại Việt, Minh Thành Tổ đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược vào năm 1406 và kéo dài chiến tranh cho đếnkhi ông ta chết ( 1426 ) vẫn chưa kết thúc. </p><p></p><p> Như vậy thời kì trị vì của Minh Thành Tổ là thời kì cường thịnh nhất, nhưng ngắn ngủi của triều Minh. </p><p></p><p> <strong><span style="color: Blue"> 2. Sự suy yếu của triều Minh: </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p> từ thập kỉ 30 của thế kỉ XV trở về sau, triều Minh bát đầu suy sụp. Lúc bấy giờ vua thường lên ngôi khi còn ít tuổi, chỉ biết ăn chơi, mọi quyền hành đều bị các quan hoạn lũng đoạn. Nhân đó, cả tập đoàn quan lại chỉ lo vơ vét đầy túi tham, giai cấp địa chủ tìm cách chiếm đoạt ruộng đất. Thêm vào đó, Trung Quốc nhiều lần bị người Mông Cổ xâm nhập, thậm chí trong cuộc tấn công năm 1449, Minh Anh Tông đã biü bắt làm tù binh. Do vậy, nhân dân hết sức đói khổ phải rời bỏ quê hương đi tha phương cầu thực. Nhiều nơi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. </p><p></p><p> Trước tình hình đó, đến đời Gia Tĩnh ( 1522-1566), nhà Minh phải thi hành một số chính sách xoa dịu mâu thuẩn xã hội như : giãm nhẹ tô thuế lao dịch, hạn chế sự lộng quyền của các hoạn quan và việc chiếm ruộng đất của giai cấp đi6a chủ, Nhưng những cải cách ấy chẳng bao lâu do việc tranh quyền đoạt vị trong triều dẫn đến sự rối loạn về chính trị nên không thực hiện được. </p><p></p><p> Sau mấy năm rối ren, đến thời Vạn Lịch (1573-1619), tình hình được ổn định trong vài mươi năm nhờ những cải cách về kinh tế, chính trị, quân sự. Nhưng từ giữa thời Vạn Lịch về sau, phái cải cách bị bài trừ, phái quan hoạn lại thắng thế. Ðặc biệt đến đầu thế kỷ XVII, triều đình nhà Minh bị quan hoạn Ngụy Trung Hiền lũng đoạn, thậm chí y có thể cách chức những quan đại thần không ăn cánh. </p><p></p><p> Lúc bấy giờ, những quan lại bị gạt ra khỏi triều đình lập thành một tổ chức chính trị gọi là đảng Ðông Lâm nhằm chống lại tập đoàn quan hoạn và phê phán nền thống trị đen tối đương thời. </p><p></p><p> Dựa vào quyền thế của mình, Ngụy Trung Hiền và vây cánh đã phản kích đảng Ðông Lâm, giết hại một số thủ lĩnh quan trọng của đảng nầy. Về sau, tuy Ngụy Trung Hiền bị giết chết, nhưng cuộc đấu tranh giữa tập đoàn quan hoạn và đảng Ðông Lâm vẫn tiếp diễn cho đến khi nhà Minh diệt vong. </p><p></p><p> <strong><span style="color: Blue"> 3. Phong trào chiến tranh nông dân cuối triều Minh: </span></strong></p><p></p><p> Ðến cuối triều Minh, tình hình chính trị trở nên rối ren, giai cấp địa chủ phong kiến lợi dụng tình hình đó chiếm đoạt nhiều ruộng đất, làm cho phần lớn nhân dân Trung Quốc không có ruộng. </p><p></p><p> Những nông dân còn giữ được ít ruộng đất thì phải chịu xu cao thuế nặng, nhiều người không thể nộp thuế buộc phải cầm ruộng đất, rồi bán thân mình trở thành tá điền, nô tì hoặc tha phương cầu thực. </p><p></p><p> Lúc bấy giờ nhân dân cả nước nói chung đều khốn khổ, nhưng nghiêm trọng nhất là vùng Thiểm Tây. Vì vậy, Thiểm Tây trở thành nơi bùng nổ đầu tiên của phong trào chiến tranh nông dân cuối triều Minh. </p><p></p><p> Năm 1627, nông dân Thiểm Tây nổi dậy khởi nghĩa. Ðến năm 1631, các nhóm khởi nghĩa riêng lẽ ấy tập hợp lại thành 36 doanh do các thủ lĩnh như Cao Nghênh Tường, Trương Hiếu Trung, Lí Tự Thành... cầm đầu. Số người tham gia lên đến 20 vạn, quân khởi nghĩa vượt Hoàng Hà đến hoạt động ở vùng Hà Nam, rồi từ Hà Nam nhanh chóng tiến đến Phượng Dương ( An Huy ), đốt lăng tẩm tổ tiên nhà Minh quyết lật đổ nền thống trị của triều đại này. </p><p></p><p> Năm 1638, nhà Minh huy động quân chủ lực tấn công quân nông dân, Lí Tự Thành và Trương Hiếu Trung tạm thời phải lánh đi, lực lượng hoàn toàn tan rã. Nhưng chỉ vài năm sau, Lí Tự thành đã nhanh chóng tập hợp quần chúng, xây dựng lực lượng tiếp tục đấu tranh. </p><p></p><p> Nhờ khẩu hiệu Trọng hiền sĩ , chia ruộng , miễn thuế ...nên quân khởi nghĩa càng được nhân dân hoan nghênh, lực lượng càng phát triển nhanh chóng, và từ đó liên tiếp giành được thắng lợi. </p><p></p><p> Năm 1644, Lí Tự Thành lên ngôi hoàng đế ở Tây An ( Thiểm Tây ), đặt tên nước là Ðại Thuận, lập bộ máy quan lại mới, khôi phục hệ thống tước vị quý tộc Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Tiếp đó, Lí Tự Thành tấn công và chiếm được Bắc Kinh. Vua Sùng Trinh nhà Minh phải treo cổ tự tử. </p><p> Sau khi nghe tin nhà Minh sụp đổ, Tổng binh nhà Minh là Ngô Tam Quế quyết định đầu hàng Mãn Thanh để chống lại Lí Tự Thành. Lí Tự Thành đem quân đánh Ngô Tam Quế nhưng bị liên quân Ngô Tam Quế và Mãn Thanh đánh bại, do đó phải rút khỏi Bắc Kinh. Trên đường rút lui, quân Lí Tự Thành nhiều lần bị quân Thanh truy kích, thấy không thể thoát khỏi, nên Lí Tự Thành đã thắt cổ tự tử. </p><p></p><p> Năm 1646, trong một trận chiến đấu với quân Thanh, Trương Hiến Trung bị thương rồi bị quân Thanh bắt và giết chết. Như vậy, phong trào nông dân cuối Minh đến đây về cơ bản bị thất bại. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">VIII. TRIỀU THANH </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Sự hình thành đế quốc Thanh: </span></strong></p><p></p><p> Năm 1644, ngay sau khi Lí Tự Thành thất bại rút khỏi Bắc Kinh, vua Thanh chiếm lấy kinh thành. Một triều đại phong kiến mới ở Trung Quốc được hình thành. Triều Thanh. </p><p></p><p> Sau khi thống trị Trung Quốc, triều Thanh tiếp tục thực hiện kế hoạch thôn tính miền Bắc và miền Tây Mông Cổ. Lúc bấy giờ, chi tộc Mông Cổ cư trú ở miền Bắc gọi là người Khan Kha, còn ở miền Tây, mạnh nhất là tộc Junke. Do mâu thuẫn nội bộ và bị tộc Junke tấn công, nên năm 1697, tộc Khan Kha phải thần phục Thanh, còn Junke thì đến năm 1757 cũng hoàn toàn bị đánh bại. </p><p></p><p> Về phía Ðông Nam, mục tiêu chinh phục của Thanh là Tây Tạng. Năm 1718, nhà Thanh đưa quân vào Tây Tạng, nhưng bị Mông Cổ đánh bại. Mãi đến năm 1727, Tây Tạng mới chính thức bị xáp nhập vào đế quốc Thanh. </p><p></p><p> Ơí phía Tây Bắc, vùng Tân Cương ngày nay là nơi cư trú của người Duy Ngô Nhĩ ( Hồi Hột ). Ðầu đời Thanh, vùng này bị người Mông Cổ Junke thống trị. Sau khi đánh bại người Mông Cổ ở Tây Tạng, từ năm 1758 đến 1759, Thanh đã tấn công và chiếm được đất đai của người Duy Ngô Nhĩ và đặt tên là Tân Cương. </p><p></p><p> Như vậy, trải qua một quá trình chiến đấu lâu dài, đến giữa thế kỉ XVIII, triều Thanh đã thôn tính được Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương, cùng với Mãn Châu và đất đai của nước Minh cũ, lập thành một đế quốc rộng lớn. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2. Những cuộc chiến tranh xâm lược : </span></strong></p><p></p><p> Năm 1766, viện lí do Miến Ðiện xâm phạm biên giới, nhà Thanh sai Dương Ứng Cư đem quân sang đánh. Vua Miến Ðiện giả vờ đề nghị giảng hòa rồi tập trung đánh bại quân Thanh. Dương Ứng Cư bị cách chức và buộc phải tự xác. </p><p></p><p> Năm 1767, vua Càng Long cử con rể của mình là Minh Thụy và tướng Ngạch Nhĩ Cảnh Ni tấn công Miến Ðiện lần 2, Cảnh Ni bị phục kích chết dọc đường nên Minh Thụy phải rút lui. </p><p></p><p> Năm 1769, nhà Thanh lại cử Phó Hằng cùng nhiều tướng lĩnh ào ạt tấn công Miến Ðiện lần thứ ba. Lúc đầu quân Miến điện bị thua, phải rút về cố thủ ở Ca Ung Tôn.Ở đây, quân nhà Thanh bị dịch bệnh lan tràn, Phó Hằng cũng mắc bệnh tả, quân Thanh hết sức bi quan, nên Càng Long ra lệnh phải rút quân về nước. </p><p></p><p> Ðối với Ðại Việt, cuối năm 1788, dưói chiêu bài giúp đở họ Lê khôi phục ngai vàng, nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang xâm lược. Quân Thanh đã tạm thời chiếm được Thăng Long, nhưng trong trận đánh tết Kỉ Dậu ( 1789 ) nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung, đã đánh bại 20 vạn quân Thanh. </p><p></p><p> Ðây là cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn cuối cùng của triều Thanh. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">3. Chính sách thống trị của Mãn Thanh : </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p> Trong quá trình chinh phục Trung Quốc, quân Thanh bắt nhân dân Trung Quốc phải theo một số phong tục tập quán của người Mãn Châu mà trước hết là bắt cạo tóc theo kiểu người Mãn. </p><p></p><p> Ðồng thời với quá trình chinh phục, nhà Thanh ra sức củng cố bộ máy nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền và chính sách áp bức dân tộc. Mặt khác, thi hành chính sách mua chuộc giai cấp địa chủ người Hán như bảo vệ quyền lợi ruộng đất cho họ, thu hút nhiều trí thức Hán tộc vào bộ máy quan lại, đề cao Nho học. </p><p></p><p> Do chính sách hai mặt đó, nên thời kì đầu tuy xã hội có tồn tại mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc, nhưng không gay gắt bằng thời Nguyên. Nhưng từ cuối thế kỉ XVIII về sau, giai cấp thống trị xa xỉ, quan lại tham ô, ruộng đất tập trung vào tay giai cấp địa chủ, nên nhân dân càng cực khổ. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân đã nổ ra. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">4. Sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây : </span></strong></p><p></p><p> Bồ Ðào Nha là người phương Tây sớm nhất đến Trung quốc (1517). Năm 1521, triều Minh ra lệnh buộc người Bồ rút khỏi Trung quốc. Ð1ap lại mệnh lệnh ấy, năm 1523,người Bồ gây chiến với Trung quốc nhưng bị đánh bại. Nhân việc đó triều Minh ra lệnh đóng cửa biển, cấm hẵn việc buôn bán với nước ngoài. Năm 1553, nhân việc thuyền gặp bão người Bồ xin được lên Aïo môn phơi hàng hóa bị ướt. Nhờ đút lót cho quan địa phương, họ được lên cư trú ở Aïo môn và đến năm 1557, thì bắt đầu xây dựng nhà cửa, pháo đài, thành quách, dần dần biến mãnh đất nầy thành thuộc địa. </p><p></p><p> Năm 1570, người Tây Ban nha chiếm được đảo Lozon (Philippine) và đê`1n năm 1557, họ đến buôn bán ở Ðàm châu. </p><p></p><p> Năm 1601, người Hà Lan xâm nhập Bành hồ, nhưng ít lâu sau bị đánh đuổi. Năm 1624 họ chiếm đảo Ðài Loan, nhưng đến năm 1662 thì bị Trịnh Thành Công đánh đuổi. </p><p></p><p> Ðến đầu triều Thanh, nhà Thnanh thi hành chính sách đóng cửa nghiêm ngặt, cấm nhân dân Trung quốc đi ra ngoài bằng đường biển, còn thương nhân Châu âu thì chỉ được buôn bán ở Aïo Môn mà thôi. Ðến đời Càng Long (1736-1795), do các thương nhân phương Tây nhất là người Anh đã có những hoạt động trái phép ở vùng ven biển Trung quốc, nên năm 1757 nhà Thanh ra lệnh chỉ cho các nhà buôn nước ngoài được buôn bán ở Quảng Châu mà thôi. </p><p></p><p> Trong khi Trung quốc thi hành chính sách đóng cửa, thì nền công nghiệp dệt Anh phát triển nhanh chóng. Ðồng thời từ nủa sau thế kỷ XVII, Anh thu và mua rẽ được rất nhiều thuốc phiện ở Ấn độ. Ðể tiêu thụ những thứ hàng đó, Anh chủ yếu nhằm vào thị trường Trung quốc. </p><p> Năm 1792 và năm 1816, chính phủ Anh hai lần cử sứ giả đến triều đình Trung quốc yêu cầu đặt quan hệ thông thương nhưng đều không thành công.Tuy vậy , thuyền buôn của Anh vẫn không ngừng chở thuốc phiện đến bán ở Trung quốc. Việc đó làm cho bạc trắng của Trung quốc chạy ra ngoài rất nhiều, đồng thời làm cho người Trung quốc suy nhược về thể chất lẫn tinh thần. Do đó năm 1838, nhà Thanh cử Lâm Tất Từ làm khâm sai đại thần đến Quảng Châu để thực hiện triệt để lệnh cấm bán thuốc phiện. Ðáp lại thái độ cứng rắn đó, năm 1840 chính phủ Anh quyết định dùng quân sự bắt Trung quốc phải mở các cửa biển để buôn bán. Chiến tranh Trung - Anh mà lịch sử gọi là Chiến tranh thuốc phiện bùng nổ và kết qủa là triều Thanh phải nhượng bộ. Sự kiện đó đánh dấu xã hội Trung quốc bước vào giai đoạn mới - giai đoạn nửa thuộc địa.</p><p></p><p>(Sưu tầm)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 50379, member: 28779"] [B][COLOR="Blue"]C - THỜI KỲ SUY TÀN CỦA CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC VI - TRIỀU NGUYÊN :( 1271-1368) 1- Cuộc chinh phuc của người Mông cổ Và sự thành lập triều Nguyên : [/COLOR][/B] Năm 1206, một thủ lĩnh bộ lạc tên là Têmusin, được hội nghị qúy tộc bầu làm đại Hãn, lấy hiệu là Singhit. Ðó là nhân vật ta quen gọi là Thành Cát Tư Hãn. Sự kiện ấy đánh dấu nhà nước Mông cổ chính thức thành lập.Ngay sau đó với những đội kỵ binh thiện chiến, Thành Cát Tư Hãn tích cực chuẩn bị chinh phục bên ngoài. Năm 1209, Mông cổ tấn công Tây hạ, Tây Hạ thấy thế không thể chống cự nổi, phải nộp con gái xin hàng. Năm 1211, Thành Cát Tư Hãn tấn công nước Kim, đến năm 1215, chiếm được toàn bộ vùng đất từ Hoàng hà trở về Bắc. Năm 1216, Thành Cát tạm ngừng chiến sự ở phía Nam để chuẩn bị chinh phục phía Tây. Năm 1218, cuộc viễn chinh sang phía Tây bắt đầu, chỉ trong vòng 7 năm, quân Mông cổ lần lượt chiếm được Trung Á, một phần Tây Á và lưu vực sông Daniep ở Ðông âu. Năm 1226, Mông cổ lại đánh Tây Hạ và năm sau Tây Hạ bị diệt vong, Thành Cát Tư Hãn bị bệnh chết mấy ngày trước khi Tây Hạ nộp thành đầu hàng. Năm 1230, Mông cổ lại tấn công nước Kim, đến năm 1234, quân Mông cổ với sự tham gia của quân Tống, đã đánh bại nước Kim. Theo giao ước trước kia, Tống đem quân thu hồi Lạc dương và Khai Phong, nhưng bị quân Mông cổ chặn đánh và tháo nước sông Hoàng Hà làm cho quân Tống chết đuối gần hết. Việc đó mở đầu cho sự xung đột giữa Nam Tống và Mông cổ. Tuy nhiên do sự đấu tranh trong cung đình Mông cổ, cuộc chinh phục Nam Tống phải tạm hoãn. Năm 1251, Mông Ca (cháu Thành Cát Tư Hãn) giành được ngôi đại hãn. Ðể tạo nên một thế bao vây đối với Nam Tống, Mông Ca sai em mình là Khubilai (Hốt tất Liệt) chinh phục khu vực phía Tây và Taq6y Nam của Trung quốc ngày nay và đã tiêu diệt nước Ðại Lý ở Vân nam vào năm 1253. Năm 1258, Mông Ca và Hốt Tất Liệt đem quân tấn công Nam Tống, nhưng đến năm 1259, Mông Ca bị tử trận, Hốt Tất Liệt vội vàng rút quân về Bắc để tranh giành ngôi đại hãn. Sau 4 năm tranh giành, Hốt Tất Liệt giành được ngôi đại hãn. Là người vốn chịu nhiều ảnh hưởng của văn minh Trung quốc, năm 1271,Hốt Tất liệt đổi xưng làm hoàng đế, đặt tên nước là Nguyên, dời đô từ Khai Bình đến Ðại Ðô (Bắc Kinh), đặt chế độ quan lại giống như các triều đại phong kiến Trung quốc. Sau đó năm 1274,, Hốt Tất Liệt sai tướng đem quân đi đánh Nam Tống. Năm 1276, kinh đô Lâm An (Hàng Châu) của Nam Tống bị hạ, triều đình Nam Tống đầu hàng, nhưng một số quan lại yêu nước lập dòng dõi nhà Tống lên làm vua ở Phúc Châu (Phúc Kiến) và tiếp tục kháng chiến đến năm 1279 mới hoàn toàn bị tiêu diệt. [B][COLOR="Blue"]2- Chính sách thống trị của nhà Nguyên: [/COLOR][/B] Trong qúa trình chinh phục nước Kim, quân Mông cổ thi hành chính sách giết sạch, cướp sạch, đốt sạch để lấy đất làm bãi chăn nuôi. Sau khi tiêu diệt Nam Tống, Triều Nguyên một mặt hoàn toàn bắt chước cách tổ chức bộ máy nhà nước, chế đô phân phong ruộng đất, chế độ thuế khóa,... của Trung quốc, nhưng mặt khác lại thi hành chính sách áp bức dân tộc trắng trợn. Ðể giành quyền ưu tiên cho dân tộc chinh phục, triều Nguyên chia cư dân cả nước làm 4 loại : - [I] Loại 1 là người Mông cổ. - Loại 2 là người Sắc, Mục (bao gồm người Tây Hạ,Duy Ngô Nhĩ, các tộc ở Trung á, Ba tư,...) - Loại 3 là người Hán ( bao gồm người Khiết Ðan, Nữ Chân, Hán, Cao Li,... vốn là cư dân của nước Kim). - Loại 4 là người Nam ( tức là cư dân của Nam Tống). [/I] Bốn loại người nầy bị đối xử phân biệt rõ rệt về mọi mặt. Quyền chỉ huy quân đội hoàn toàn thuộc về người Mông cổ.Về pháp luật, nếu người Hán, người Nam phạm tội giết người thì bị xử tử, còn người Mông cổ thì chỉ bị phạt đánh gậy hoặc đưa lên biên giới phía Bắc sung vào quân đội. Ðể đề phòng nhân dân Trung quốc nổi dậy đấu tranh, pháp luật hà Nguyên còn nghiêm cấm người Hán, người Nam không được tụ họp đông người như đi săn, rước thần và không được cầm vũ khí. Về mặt ruộng đất, nhà Nguyên ban cấp nhiều ruộng đất cho qúy tộc Mông cổ và các chùa chiền. Ngoài ruộng đất được phong, bọn qúi tộc Mông cổ còn chiếm đoạt ruộng đất của nông dân.Nhân đó ở Hoa Nam, các địa chủ Hán tộc cũng tìm mọi cách phát triển thế lực kinh tế của mình., Do chính sách khủng bố, cướp đoạt và nô dịch đó, nông dân Trung quốc rất cực khổ. Rất nhiều người bị biến thành nô tỳ mà đời Nguyên gọi là khu khẩu hoặc khu đinh. [B][COLOR="Blue"] 3 - Những cuộc chiến tranh xâm lược : [/COLOR][/B] Ðầu đời Nguyên, chỉ trong vòng 20 năm, Hốt Tất Liệt đã phát động nhiều cuộc chiến tranh để xâm lược Nhật Bản, Miến Ðiện, Chiêm Thành, Ðại Việt và Gia Va. Từ lâu Nhật Bản là mục tiêu chinh phục của Mông Cổ. Năm 1226, Hốt Tất Liệt nhiều lần sai sứ đưa thư sang Nhật Bản yêu cầu lập quan hệ ngoại giao và gịuc vua Nhật Bản cử ngay sứ giả sang triều đình Mông Cổ, nếu không đáp ứng yêu cầu đó, thì chiến tranh không thể tránh khỏi nhưng trước sau Nhật Bản vẫn không trả lời. Vì vậy, sau khi thành lập nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt sai Hân Ðô, Hồng Trà Khâu đưa quân sang đánh Nhật Bản. Quân Nguyên chiếm được các đảo nhỏ Su Si Ma và I Ki rồi đổ bộ lên miền Tây Bắc đảo Kiu Sư. Tuy nhiên, tự nhận thấy mình chưa đủ lực lượng tiến sâu hơn nữa, quân Nguyên phải rút lui. Năm 1281, nhà Nguyên lại sai các tướng A Tháp Hải, Phạm Văn Hổ, A Hàn Ðô, Hồng Trà Khâu đưa quân sang tấn công Nhật Bản lần thứ hai. Khi quân Nguyên vừa mới tới Nhật Bản chưa kịp giao chiến thì gặp bão, nhiều thuyền bị đắm. Văn Hổ cùng các tướng khác tự chọn lấy những chiếc thuyền chắc chắn và tốt để về, bỏ lại hơn 10 vạn binh lính ở dưới chân núi... mọi người đang chặt gổ đóng thuyền để về thì người Nhật Bản đến đánh, binh sĩ chết gần hết, ba vạn người bị bắt đem đi...thế là 10 vạn quân chỉ còn ba người về được mà thôi.. Nhà Nguyên dự định đánh Nhật Bản một lần nữa, nhưng khi đang chuẩn bị binh lính thuyền bè thì cuộc chiến tranh xâm lược Ðại Việt năm 1285 bị thất bại nặng nề, nên năm 1286, Hốt Tất Liệt phải quyết định bỏ việc Nhật Bản để chuyên vào việc Giao Chỉ . Ðối với Miến Ðiện, năm 1271, Hốt Tất Liệt nhiềulân sai sứ sang yêu cầu Miến Ðiện đầu hàng, nhưng Miến Ðiện Không chịu thuần phục, thậm chí còn có lần giết sứ giả. Vì vậy Hốt Tất Liệt đã cho quân sang tấn công Miến Ðiện ba lần vào các năm 1277, 1283, 1287. Kết quả Miến Ðiện phải thuần phục dưới hình thức phải nhận phong hiệu và phải tiến cống nhà Nguyên. Sau đó chính quyền Miến Ðiện bị ba anh em Athinhcaya thuộc bộ tộc San ( Thái ) lũng đoạn. Năm 1298, Athinhcaya bắt vua Miến Ðiện cầmtù rồi giết chết. Con rể và con trai vua Miến Ðiện chạy trốn sang Trung Quốc. Lợi dụng sự rối ren ấy, năm 1300, vua Nguyên lại xâm lược Miến Ðiện lần thứ tư. Bị quân Nguyên bao vây, anh em Athinhcaya đã đem nhiều vàng bạc đến đút lót cho các tướng Nguyên lấy lí do trời nóng, lam chướng phát sinh, quân khổ nhọc nếu không về sợ bị tội vì tử thương. rồi lập tức rút quân. Về đến nước, hai tướng Cao Khánh và Sát Hãn Bất Hoa đều bị xử tử vì tội ăn hối lọ làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược. Chiêm Thành cũng là mục tiêu xâm lược của triều Nguyên. Năm 1279, Hốt Tất Liệt sai sứ đi yêu cầu vua Chiêm Thành đến chầu. Ðể tránh hiểm họa chiến tranh, Chiêm Thànhtỏ ý thuần phục, nhưng không đồngý để nhà Nguyên lập cơ quan hành tỉnh ở nước mình. Vì vậy, năm 1283, quân Nguyên tấn công kinh đô Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành đốt kho tàng tạm thời rút vào rừng. Sau đó, vua Chiêm Thành giả vờ xin hàng để nhử quân Nguyên vào trận địa bố trí sẳn. Quân Nguyên phảiliều mình đánh mới thoát về đồn cố thủ và dến đầu 1284 phải lặng lẽ rút quân về nước. Ðối với Ðại Việt, trước khi thành lập triều Nguyên, đầu năm 1258, quân Nguyên ở Vân Nam đã mở cuộc tấn công lần thứ nhất nhằm mục đích đánh dẹp các xứ Man Di chưa phụ thuộc , đồng thời để khép kín vòng vây đối với Nam Tống. Thế nhưng chỉ trong vòng nữa tháng, lần đầu tiên, quân Nguyên bị đánh bại hoàn toàn. Hai cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Nguyên ( 1285, 1288 ) cũng đều thất bại hoàn toàn. Ðối với Gia Va, năm 1292, Hốt Tất Liệt sai Mạnh Kì đi yêu cầu nước này thuần phục nhà Nguyên, nhưng bị vua Kritangara (1268 - 1292 ) thuộc triều Xinggaxari thích chử vào mặt đuổi về. Vin vào cớ ấy, cuối năm 1292, nhà Nguyên cử Sử Bật, Cao Hưng đem 2 vạn quân với 1000 chiếc thuyền vượt biển tiến xuống phía nam và đến đầu 1293 thì đến Gia Va. Vào lúc đó, Kitangara bị một chúa phong kiến là Giayacatvang giết chết để cướp ngôi. Người con rể của ông là Rajen Vijaya giả vờ đầu hàng quân Nguyên để mượn lực lượng quân xâm lược trả thù cho nhạc phụ. Nhờ vậy quân Nguyên tạm thời thu được thắng lợi, nhưng sau đó Rajen Vijaya tổ chức phản công, quân Nguyên thấtbại phải rút lui. Về đến nước, Sử Bật bị phạt đánh 17 gậy và bị tịch thu 1/3 tài sản. [B][COLOR="Blue"]4 - Phong trào khởi nghĩa cuối Nguyên [/COLOR][/B] Dù đã Trung Quốc hóa, triều Nguyên vẫn là triều đại của kẻ chinh phục ngoại tộc, do đó trong thời kì này, xã hội Trung Quốc tồn tại hai mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Chính vì thế, trong suốt thời kì thống trị của triều Nguyên, các phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc diễn ra liên tiếp. Ðặt biệt cuối đời Nguyên, tập đoàn thống trị Mông Cổ ngày càng xa xỉ, trong khi đó đê điều hỏng nặng không sửa chữa, các laọi thiên tai thường xuyên xãy ra, dịch bệnh lan tràn, do đó nhân dân càng khốn khổ. Trong hoàn cảnh ấy, các hình thức tôn giáo như đạo Di Lặc, đạo Bạch Liên và Minh giáo đang âm ỉ lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, nhất là ở vùng lưu vực sông Hoàng Hà. Năm 1351, đe Hoàng Hà sau nhiều lần bị vở, nhà Nguyên bất đắt dĩ phải điều 15 vạn dân phu đi đắp đê. Nhan cơ hội ấy, giáo trưởng đạo Bạch Liên là Hnà Sơn đồng cùng đồ đệ của mình là Lưu Phúc Thông mưu tính viẹc khởi nghĩa. Ðể tranh thủ sự đồngtình của quần chúng, Lưu Phúc Thông phao tin rằng Hàn Sơn đồng là cháu 8 đời của Tống Huy Tông từ Nhật Bản đem quân về đánh đổ triều Ngyuên. Nhưng trong khi chuẩn bị khởi nghĩa thì kế hoạch bị bại lộ. Hàn Sơn Ðồng bị bắt và bị giết chết. Tuy vậy, Lưu Phúc Thông vẫn tiếp tục lãnh đạo khởi nghĩa. Ðược tin Lưu Phúc Thông dựng cờ khởi nghĩa, nhân dân nhiều nơi nổi dậy hưởng ứng, trong đó có những nhóm tương đối lớn như lực lượng của Từ Thọ Huy ở Hồ Bắc, Quách Tử Hưng ở An Huy. Quần chúng khởi nghĩa đều chít khăn đỏ làm hiệu nên gọi là quân Khăn đỏ ( Hồng Cân quân ). Khẩu hiệu đấu tranh của họ là đánh đổ nhà Nguyên, khôi phục nhà Tống. Lúc đầu lực lượng khởi nghĩa của Lưu Phúc Thông đã giành được thắng lợi to lớn, đã tôn con Hàn Sơn Ðồng là Hàn Lâm Nhi lên làm vua, và đặt tên nước là Ðại Tống. Nhưng đến năm 1363, Lưu Phúc Thông bị Trương Sĩ Thành, một thủ lĩnh nông dân đã thuần phục nhà Nguyên, đánh bại. Khi quân khăn đỏ của Lưu Phúc Thông đang tiến quân thuận lợi ở miền bắc thì nghĩa quân do Từ Thọ Huy lãnh đạo cũng thu được nhiều thắng lợi ở vùng lưu vực Trường Giang. Năm 1360, Từ Thọ Huy bị một viên tướng của mình là Trần Hữu Lượng giết chết. Trần Hữu Lượng tự xưng là vua, đặ tên nước là Hán. Năm 1362, một tướng khác của Từ Thọ Huy là Minh Ngọc Trân không phục Trần Hữu Lượng cũng xưng vương ở vùng Tứ Xuyên Vân Nam, đặt tên nước là Hạ. Cũng trong thời kì này, lực lượng quân khăn đỏ do Quách Tử Hưng lãnh đạo không ngừng phát triển. Trong hàng ngũ họ Quách có một nhân vật về sau trở nên rất quan trọng, đó là Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương xuất thân từ một gia đình bần nông, đã từng làm sư khất thực một thời gian. Năm 1352, ông tham gia lực lượng khởi nghĩa của Quách Tử Hưng. Năm 1355, Quách Tử Hưng chết, Chu Nguyên Chương trở thành người lãnh đạo chính của nghĩa quân. Năm 1356, Chu Nguyên chương thành lập chính quyền ở Kim Lăng ( Nam Kinh ), tự xưng là Ngô quốc công, rồi đến năm 1364 thì xưng làm Ngô vương. Sau khi lần lượt đánh bại các tập đoàn quân phiệt Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành... đến năm 1367, Chu Nguyên Chương đã thâu tóm hết miền Nam Trung Hoa rộng lớn. Ngay năm đó, Chu Nguyên Chương sai tướng đem quân đánh miền bắc, đồng thời truyền hịch nói rõ mục đích của việc tiến quân là để đánh đuổi giặc Hồ, khôi phục Trung Hoa, lập lại cương kỉ cứu vớt nhân dân, khôi phục uy nghi cho quan lại người Hán.. Trong khi quân Bắc tiến không ngừng thu được thắng lợi, năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế ở Kim Lăng, đặt tên nước là Minh. Mùa thu năm đó, quân đội của Chu Nguyên Chương tấn công Ðại Ðô, triều đình nhà Nguyên vội vàng chạy lên phía Bắc, ra khỏi Trường Thành. Nền thống trị của nhà Nguyên ở Trung Quốc kết thúc. Tiếp đó, Chu Nguyên Chương tiêu diệt thế lực cát cứ của Minh Ngọc Trân và các lực lượng còn lại của triều Nguyên, đến năm 1387 thì hoàn toàn thống nhất Trung Hoa. [B][COLOR="Blue"]VII. TRIỀU MINH ( 1368 - 1644 ) 1. Thời kì cường thịnh của triều Minh [/COLOR][/B] Khi nhà Minh mới thành lập, do hậu quả của chính sách cai trị của triều Nguyên và gần 20 năm chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc bị phá hoại nghiêm trọng, đời sống nhân dân rất khốn khổ. Trước tình hình ấy, mặc dầu từ lâu không còn là đại biểu của giai cấp nông dân nữa, nhưng Minh Thái tổ ( Chu Nguyên Chương ) vẫn thông cảm được các nổi khổ của nhân dân đồng thời cũng hiểu rỏ sức mạnh của quần chúng. Vì vậy ông nói : Thiên hạ mới định, tài lực trăm họ còn khó khăn, giống như con chim mới tập bay, không thể nhổ lông nó, như cây mới trồng không thể lay gốc nó mà phải nâng niu nuôi dưỡng.. Quán triệt tư tưởng đó, Minh Thái tổ đã thi hành những chính sách sau đây: - Trả tự do cho những người bị biến thành nô tì trong thời gian loạn lạc, đồng thời cấm cưỡng bức hoặc mua bán dân tự do làm nô tì. - Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp như kêu gọi nhân dân khai khẩn đất hoang, cho họ có quyền sở hữu vĩnh viễn và không đánh thuế; kêu gọi dân lưu tán trở về quê quán, cấp cho họ ruộng hoang đồng thời cấp bò cày, nông cụ, thóc giống, lương thực để gíup họ vượt qua những khó khăn ban đầu. Nhà nước còn chú ý đến vấn đề thủy lợi, giảm nhẹ thuế khóa, cứu tế cho dân những nơi bị mất mùa. - Bỏ những hình phạt tàn khốc thời Nguyên như thích chữ vào mặt, cắt mũi, chặt chân, thiến...đồng thời dùng nguyên tắc khoan hồng trong xét xử. - Nghiêm trị bọn quan lại tham ôbằng các cực hình như chém bêu đầu, tùng xẻo, giết cả họ...Nhờ những chính sách nói trên, trong vòng 30 năm đầu đời Minh, kinh tế được khôi phục nhanh chóng và bước đầu phát triển, tình hình chính trị được ổn định, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện. Song một mặt khác, Minh Thái Tổ rất quan tâm tới việc xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền, vì vậy năm 1380, ông quyết định bỏ chức thừa tướng để tập trung quyền hành vào tay hoàng đế. Năm 1398, Minh Thái Tổ chết. Vì người con cả chết sớm nhưng cháu đích tôn ông được lên nối ngôi, nhưng người con thứ Yên vương Chu Ðệ đã từ miền bắcđem quân tấn công Kim Lăng. Cuộc nội chiến giữa hai chú cháu bùng nổ. Năm 1402, Chu Ðệ thắng và giành được ngôi hoàng đế. Ðó là Minh Thành Tổ, một ông vua nổi tiếng của triều Minh. Trong thời kì thịnh trị của mình, Minh Thành tổ tiếp tục thi hành những chính sách thúc đẩy sản xuất nông nghiệp như tu sửa vãây dựng các công trình thủy lợi, chỉnh đốn thué khóa, cứu tế dân đói.. Ðối với bên ngoài, Minh Thành Tổ tích cực xây dựng chính sách viễn giao cận công , dĩ Di trị Di . Ông đã năm lần đem quân đi đánh người Tác Ta và người Oi Rát, hai chi nhánh của tộc Mông Cổ, mua chuộc họ và xúi giục họ đánh lẫn nhau. Ông còn hết sức lôi kéo sự thuần phục của tộc Nữ Chân. Kết quả là có lúc thủ lĩnh các tộc tộc Tác Ta, Oi Rát, Nữ Chân tạm thời quy phục, nhưng quan hệ ấy không bền chặt, trái lại sau đó đã trở thành mối đe dọa lớn đói vởiTrung Quốc trong một thời gian dài. Cũng chính để được thuận lợi hơn trong các hoạt động quân sự ở phía bắc, nên năm 1421, Minh Thành tổ dời đo lên Bắc Kinh. Ngoài ra Minh Thành tổ còn nhiều lần cử sứ giả đến các nước Ðông Nam Á, Nam Á, Tây Á để phô trương sự giàu mạnh của Trung Quốc và loi kéo các nước ở vùng này thuần phục nhà Minh. Trong những hoạt động ngoại giao đó, rầm rộ nhất là chuyến đi biển do viên Thái giám Trịnh Hòa dẫn đẫuuống các nước ven biển phía Nam từ năm 1405 đến năm 1433. Ðối với Ðại Việt, Minh Thành Tổ đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược vào năm 1406 và kéo dài chiến tranh cho đếnkhi ông ta chết ( 1426 ) vẫn chưa kết thúc. Như vậy thời kì trị vì của Minh Thành Tổ là thời kì cường thịnh nhất, nhưng ngắn ngủi của triều Minh. [B][COLOR="Blue"] 2. Sự suy yếu của triều Minh: [/COLOR][/B] từ thập kỉ 30 của thế kỉ XV trở về sau, triều Minh bát đầu suy sụp. Lúc bấy giờ vua thường lên ngôi khi còn ít tuổi, chỉ biết ăn chơi, mọi quyền hành đều bị các quan hoạn lũng đoạn. Nhân đó, cả tập đoàn quan lại chỉ lo vơ vét đầy túi tham, giai cấp địa chủ tìm cách chiếm đoạt ruộng đất. Thêm vào đó, Trung Quốc nhiều lần bị người Mông Cổ xâm nhập, thậm chí trong cuộc tấn công năm 1449, Minh Anh Tông đã biü bắt làm tù binh. Do vậy, nhân dân hết sức đói khổ phải rời bỏ quê hương đi tha phương cầu thực. Nhiều nơi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Trước tình hình đó, đến đời Gia Tĩnh ( 1522-1566), nhà Minh phải thi hành một số chính sách xoa dịu mâu thuẩn xã hội như : giãm nhẹ tô thuế lao dịch, hạn chế sự lộng quyền của các hoạn quan và việc chiếm ruộng đất của giai cấp đi6a chủ, Nhưng những cải cách ấy chẳng bao lâu do việc tranh quyền đoạt vị trong triều dẫn đến sự rối loạn về chính trị nên không thực hiện được. Sau mấy năm rối ren, đến thời Vạn Lịch (1573-1619), tình hình được ổn định trong vài mươi năm nhờ những cải cách về kinh tế, chính trị, quân sự. Nhưng từ giữa thời Vạn Lịch về sau, phái cải cách bị bài trừ, phái quan hoạn lại thắng thế. Ðặc biệt đến đầu thế kỷ XVII, triều đình nhà Minh bị quan hoạn Ngụy Trung Hiền lũng đoạn, thậm chí y có thể cách chức những quan đại thần không ăn cánh. Lúc bấy giờ, những quan lại bị gạt ra khỏi triều đình lập thành một tổ chức chính trị gọi là đảng Ðông Lâm nhằm chống lại tập đoàn quan hoạn và phê phán nền thống trị đen tối đương thời. Dựa vào quyền thế của mình, Ngụy Trung Hiền và vây cánh đã phản kích đảng Ðông Lâm, giết hại một số thủ lĩnh quan trọng của đảng nầy. Về sau, tuy Ngụy Trung Hiền bị giết chết, nhưng cuộc đấu tranh giữa tập đoàn quan hoạn và đảng Ðông Lâm vẫn tiếp diễn cho đến khi nhà Minh diệt vong. [B][COLOR="Blue"] 3. Phong trào chiến tranh nông dân cuối triều Minh: [/COLOR][/B] Ðến cuối triều Minh, tình hình chính trị trở nên rối ren, giai cấp địa chủ phong kiến lợi dụng tình hình đó chiếm đoạt nhiều ruộng đất, làm cho phần lớn nhân dân Trung Quốc không có ruộng. Những nông dân còn giữ được ít ruộng đất thì phải chịu xu cao thuế nặng, nhiều người không thể nộp thuế buộc phải cầm ruộng đất, rồi bán thân mình trở thành tá điền, nô tì hoặc tha phương cầu thực. Lúc bấy giờ nhân dân cả nước nói chung đều khốn khổ, nhưng nghiêm trọng nhất là vùng Thiểm Tây. Vì vậy, Thiểm Tây trở thành nơi bùng nổ đầu tiên của phong trào chiến tranh nông dân cuối triều Minh. Năm 1627, nông dân Thiểm Tây nổi dậy khởi nghĩa. Ðến năm 1631, các nhóm khởi nghĩa riêng lẽ ấy tập hợp lại thành 36 doanh do các thủ lĩnh như Cao Nghênh Tường, Trương Hiếu Trung, Lí Tự Thành... cầm đầu. Số người tham gia lên đến 20 vạn, quân khởi nghĩa vượt Hoàng Hà đến hoạt động ở vùng Hà Nam, rồi từ Hà Nam nhanh chóng tiến đến Phượng Dương ( An Huy ), đốt lăng tẩm tổ tiên nhà Minh quyết lật đổ nền thống trị của triều đại này. Năm 1638, nhà Minh huy động quân chủ lực tấn công quân nông dân, Lí Tự Thành và Trương Hiếu Trung tạm thời phải lánh đi, lực lượng hoàn toàn tan rã. Nhưng chỉ vài năm sau, Lí Tự thành đã nhanh chóng tập hợp quần chúng, xây dựng lực lượng tiếp tục đấu tranh. Nhờ khẩu hiệu Trọng hiền sĩ , chia ruộng , miễn thuế ...nên quân khởi nghĩa càng được nhân dân hoan nghênh, lực lượng càng phát triển nhanh chóng, và từ đó liên tiếp giành được thắng lợi. Năm 1644, Lí Tự Thành lên ngôi hoàng đế ở Tây An ( Thiểm Tây ), đặt tên nước là Ðại Thuận, lập bộ máy quan lại mới, khôi phục hệ thống tước vị quý tộc Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Tiếp đó, Lí Tự Thành tấn công và chiếm được Bắc Kinh. Vua Sùng Trinh nhà Minh phải treo cổ tự tử. Sau khi nghe tin nhà Minh sụp đổ, Tổng binh nhà Minh là Ngô Tam Quế quyết định đầu hàng Mãn Thanh để chống lại Lí Tự Thành. Lí Tự Thành đem quân đánh Ngô Tam Quế nhưng bị liên quân Ngô Tam Quế và Mãn Thanh đánh bại, do đó phải rút khỏi Bắc Kinh. Trên đường rút lui, quân Lí Tự Thành nhiều lần bị quân Thanh truy kích, thấy không thể thoát khỏi, nên Lí Tự Thành đã thắt cổ tự tử. Năm 1646, trong một trận chiến đấu với quân Thanh, Trương Hiến Trung bị thương rồi bị quân Thanh bắt và giết chết. Như vậy, phong trào nông dân cuối Minh đến đây về cơ bản bị thất bại. [B][COLOR="Blue"]VIII. TRIỀU THANH 1. Sự hình thành đế quốc Thanh: [/COLOR][/B] Năm 1644, ngay sau khi Lí Tự Thành thất bại rút khỏi Bắc Kinh, vua Thanh chiếm lấy kinh thành. Một triều đại phong kiến mới ở Trung Quốc được hình thành. Triều Thanh. Sau khi thống trị Trung Quốc, triều Thanh tiếp tục thực hiện kế hoạch thôn tính miền Bắc và miền Tây Mông Cổ. Lúc bấy giờ, chi tộc Mông Cổ cư trú ở miền Bắc gọi là người Khan Kha, còn ở miền Tây, mạnh nhất là tộc Junke. Do mâu thuẫn nội bộ và bị tộc Junke tấn công, nên năm 1697, tộc Khan Kha phải thần phục Thanh, còn Junke thì đến năm 1757 cũng hoàn toàn bị đánh bại. Về phía Ðông Nam, mục tiêu chinh phục của Thanh là Tây Tạng. Năm 1718, nhà Thanh đưa quân vào Tây Tạng, nhưng bị Mông Cổ đánh bại. Mãi đến năm 1727, Tây Tạng mới chính thức bị xáp nhập vào đế quốc Thanh. Ơí phía Tây Bắc, vùng Tân Cương ngày nay là nơi cư trú của người Duy Ngô Nhĩ ( Hồi Hột ). Ðầu đời Thanh, vùng này bị người Mông Cổ Junke thống trị. Sau khi đánh bại người Mông Cổ ở Tây Tạng, từ năm 1758 đến 1759, Thanh đã tấn công và chiếm được đất đai của người Duy Ngô Nhĩ và đặt tên là Tân Cương. Như vậy, trải qua một quá trình chiến đấu lâu dài, đến giữa thế kỉ XVIII, triều Thanh đã thôn tính được Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương, cùng với Mãn Châu và đất đai của nước Minh cũ, lập thành một đế quốc rộng lớn. [B][COLOR="Blue"]2. Những cuộc chiến tranh xâm lược : [/COLOR][/B] Năm 1766, viện lí do Miến Ðiện xâm phạm biên giới, nhà Thanh sai Dương Ứng Cư đem quân sang đánh. Vua Miến Ðiện giả vờ đề nghị giảng hòa rồi tập trung đánh bại quân Thanh. Dương Ứng Cư bị cách chức và buộc phải tự xác. Năm 1767, vua Càng Long cử con rể của mình là Minh Thụy và tướng Ngạch Nhĩ Cảnh Ni tấn công Miến Ðiện lần 2, Cảnh Ni bị phục kích chết dọc đường nên Minh Thụy phải rút lui. Năm 1769, nhà Thanh lại cử Phó Hằng cùng nhiều tướng lĩnh ào ạt tấn công Miến Ðiện lần thứ ba. Lúc đầu quân Miến điện bị thua, phải rút về cố thủ ở Ca Ung Tôn.Ở đây, quân nhà Thanh bị dịch bệnh lan tràn, Phó Hằng cũng mắc bệnh tả, quân Thanh hết sức bi quan, nên Càng Long ra lệnh phải rút quân về nước. Ðối với Ðại Việt, cuối năm 1788, dưói chiêu bài giúp đở họ Lê khôi phục ngai vàng, nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang xâm lược. Quân Thanh đã tạm thời chiếm được Thăng Long, nhưng trong trận đánh tết Kỉ Dậu ( 1789 ) nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung, đã đánh bại 20 vạn quân Thanh. Ðây là cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn cuối cùng của triều Thanh. [B][COLOR="Blue"]3. Chính sách thống trị của Mãn Thanh : [/COLOR][/B] Trong quá trình chinh phục Trung Quốc, quân Thanh bắt nhân dân Trung Quốc phải theo một số phong tục tập quán của người Mãn Châu mà trước hết là bắt cạo tóc theo kiểu người Mãn. Ðồng thời với quá trình chinh phục, nhà Thanh ra sức củng cố bộ máy nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền và chính sách áp bức dân tộc. Mặt khác, thi hành chính sách mua chuộc giai cấp địa chủ người Hán như bảo vệ quyền lợi ruộng đất cho họ, thu hút nhiều trí thức Hán tộc vào bộ máy quan lại, đề cao Nho học. Do chính sách hai mặt đó, nên thời kì đầu tuy xã hội có tồn tại mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc, nhưng không gay gắt bằng thời Nguyên. Nhưng từ cuối thế kỉ XVIII về sau, giai cấp thống trị xa xỉ, quan lại tham ô, ruộng đất tập trung vào tay giai cấp địa chủ, nên nhân dân càng cực khổ. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân đã nổ ra. [B][COLOR="Blue"]4. Sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây : [/COLOR][/B] Bồ Ðào Nha là người phương Tây sớm nhất đến Trung quốc (1517). Năm 1521, triều Minh ra lệnh buộc người Bồ rút khỏi Trung quốc. Ð1ap lại mệnh lệnh ấy, năm 1523,người Bồ gây chiến với Trung quốc nhưng bị đánh bại. Nhân việc đó triều Minh ra lệnh đóng cửa biển, cấm hẵn việc buôn bán với nước ngoài. Năm 1553, nhân việc thuyền gặp bão người Bồ xin được lên Aïo môn phơi hàng hóa bị ướt. Nhờ đút lót cho quan địa phương, họ được lên cư trú ở Aïo môn và đến năm 1557, thì bắt đầu xây dựng nhà cửa, pháo đài, thành quách, dần dần biến mãnh đất nầy thành thuộc địa. Năm 1570, người Tây Ban nha chiếm được đảo Lozon (Philippine) và đê`1n năm 1557, họ đến buôn bán ở Ðàm châu. Năm 1601, người Hà Lan xâm nhập Bành hồ, nhưng ít lâu sau bị đánh đuổi. Năm 1624 họ chiếm đảo Ðài Loan, nhưng đến năm 1662 thì bị Trịnh Thành Công đánh đuổi. Ðến đầu triều Thanh, nhà Thnanh thi hành chính sách đóng cửa nghiêm ngặt, cấm nhân dân Trung quốc đi ra ngoài bằng đường biển, còn thương nhân Châu âu thì chỉ được buôn bán ở Aïo Môn mà thôi. Ðến đời Càng Long (1736-1795), do các thương nhân phương Tây nhất là người Anh đã có những hoạt động trái phép ở vùng ven biển Trung quốc, nên năm 1757 nhà Thanh ra lệnh chỉ cho các nhà buôn nước ngoài được buôn bán ở Quảng Châu mà thôi. Trong khi Trung quốc thi hành chính sách đóng cửa, thì nền công nghiệp dệt Anh phát triển nhanh chóng. Ðồng thời từ nủa sau thế kỷ XVII, Anh thu và mua rẽ được rất nhiều thuốc phiện ở Ấn độ. Ðể tiêu thụ những thứ hàng đó, Anh chủ yếu nhằm vào thị trường Trung quốc. Năm 1792 và năm 1816, chính phủ Anh hai lần cử sứ giả đến triều đình Trung quốc yêu cầu đặt quan hệ thông thương nhưng đều không thành công.Tuy vậy , thuyền buôn của Anh vẫn không ngừng chở thuốc phiện đến bán ở Trung quốc. Việc đó làm cho bạc trắng của Trung quốc chạy ra ngoài rất nhiều, đồng thời làm cho người Trung quốc suy nhược về thể chất lẫn tinh thần. Do đó năm 1838, nhà Thanh cử Lâm Tất Từ làm khâm sai đại thần đến Quảng Châu để thực hiện triệt để lệnh cấm bán thuốc phiện. Ðáp lại thái độ cứng rắn đó, năm 1840 chính phủ Anh quyết định dùng quân sự bắt Trung quốc phải mở các cửa biển để buôn bán. Chiến tranh Trung - Anh mà lịch sử gọi là Chiến tranh thuốc phiện bùng nổ và kết qủa là triều Thanh phải nhượng bộ. Sự kiện đó đánh dấu xã hội Trung quốc bước vào giai đoạn mới - giai đoạn nửa thuộc địa. (Sưu tầm) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Trung Quốc dưới chế độ phong kiến
Top