Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Trung Quốc dưới chế độ phong kiến
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 50378" data-attributes="member: 28779"><p><strong><span style="color: Blue">B - THỜI KỲ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC</span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">IV.TRIỀU ÐƯỜNG</span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Sự thành lập triều Ðường và nền thịnh trị thời Ðường Thái Tông: </span></strong></p><p></p><p> Sau khi Tùy Dượng đế chạy khỏ kinh đô, năm 617, một viên quan của nhà tùy tên là Lý Uyên cùng với con mình là Lý Thế Dân khởi binh ở Thái Nguyên (Sơn Tây ) rồi tấn công Trường An. Năm 618, Lý Uyên xưng làm vua, hiệu là Cao Tổ, đặt quốc hiệu là Ðường. </p><p></p><p> Tiếp đó, Ðường tập trung lực lượng để đánh bại quân nông đân và tàn quân của Tùy. Ngay năm 618, Lý Mật phải đầu hàng, đến năm 621, Ðậu Kiến Ðức cũng bị Lý Thế Dân đánhbại và bị bắt, lực lượng hoàn toàn tan rã. Sau 10 năm chẳng, đến năm 628, mọi thế lực các cứ đều bị tiêu diệt, Trung Quốc lại hoàn toàn thống nhất. </p><p></p><p> Trong quá trình ấy, năm 626 do ghen tị, người con trưởng của Lý Uyên là Lý Kiến Thành và người con thứ là Lý Nguyên Cát đã tổ chức đầu độc Lý Thế Dân nhưng không thành công, do đó đã bị Lý Thế Dân và vây cánh giết chết ở cửa Huyền Vũ của hoàng thành. Cũng năm đó, Lý Uyên thoái vị, Lý Thế Dân lên nối ngôi, hiệu là Thái tông. </p><p></p><p> Phong trào đấu tranh của nhân dân và sự diệt vong của các triều đại trước đã làm cho Ðường thái tông nhận thức được rằng: thuyền ví như vua, nước ví như dân, nước có thể chở thuyền, cũng có thểlật thuyền.. </p><p></p><p> Ông còn nói : Tai họa của vua không phải từ bên ngoài đến mà thường tự mình mà ra. Nếu muốn phô trương thì phải chi tiêu rộng, chi tiêu rộng thì phải thu thuế nặng, thu thuế nặng thì dân sầu oán, dân sầu oán thì nước nguy, nước nguy thì vua chết.. </p><p></p><p> Chính nhờ hiểu được như vậy, nên Ðường thái tông đã thi hành nhiều chính sách có lợi cho dân như thi hành chế độ quân điền, giảm bớt lao dịch, hạn chế lãng phí, giảm nhẹ hình phạt, chọn quan lại thanh liêm... Do đó, chỉ sau mấy năm, kinh tế được khôi phục và phát triển, chính trị ổn định, lịch sử Trung Quốc gọi là nền thịnh trị thời Trinh Quán ( niên hiệu của Thái tông từ 627 - 649 ). </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2. Sự chuyên quyền của nữ hoàng Vũ Tắc Thiên</span></strong> </p><p></p><p> Năm 649, Ðường Thái Tông chết. Cao Tông, lên nối ngôi, là một người nhu nhược ốm yếu, nên đần mọi việc đều do hoàng hậu Vũ Tắc Thiên quyết định. </p><p></p><p> Vũ Tắc Thiên là con một công thần của nhà Ðường. Năm 14 tuổi vào làm một chức nữ quan trong cung Ðường thái tông. Thái tông chết, Vũ Tắc Thiên được bố trí cho vào chùa đi tu rồi ít lâu sau được đón về làm cung phi của Ðường Cao Tông. Là một phụ nữ xinh đẹp, khôn ngoan, xảo quyệt, tàn nhẫn, cương quyết lại biết nhẫn nhục chờ thời, đến năm 655, Vũ Tắc Thiên giành được ngôi hoàng hậu. </p><p></p><p> Năm 683, Cao Tông chết, Trung Tông, Duệ Tông lần lượt được cử lên làm vua bù nhìn, nhưng mọi quyền hành đều nằm trong tay thái hậu họ Vũ. Tuy vậy, vẫn chưa thỏa mãn, nên đến năm 690 Vũ Tắc Thiên chính thức xưng làm hoang đế, đổi quốc hiệu thành Chu (690 - 705 ). </p><p></p><p> Trong suốt mấy chục năm chấp chính, nhất là sau khi làm vua, Vũ Tắc Thiên thẳng tay khủng bố những quí tộc chống đối bằng những nhục hình vô cùng thảm khốc. Kết quả là rất nhiều tôn thất, quý tộc, công thần bị giết hại. Trong khi đó, nhân dan phải gánh chịu những nghĩa vụ thuế khóa, lao dịch, binh dịch nặng nề hơn trước, lại bị bọn quan lại tham ô tàn bạo nhũng nhiễu, hà hiếp, nên đời sống ngày càng cực khổ. </p><p></p><p> Năm 705, Vũ Tắc Thiên ốm nặng, trong cung nổ ra chính biến. Vũ Tắc Thiên buộc phải thoái vị. Triều Chu ngắn ngủi của vị nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc kết thúc. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">3. Những cuộc chiến tranh xâm lược đầu đời Ðường: </span></strong></p><p></p><p> Ðến đời Ðường Thái tông, Trung Quốc lại bước vào một thời kì thống nhất ổn định. Với điều kiện ấy, nhà Ðường lại phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược các nước xung quanh. </p><p></p><p> Ơí phía bắc, Thái tông lần lược chinh phục Ðông Ðột Quyết và Tiết Diên Ðà. Vào cuối đời Tùy, thế lực của Ðông Ðột Quyết tương đối mạnh, đã từng đưa hai ngàn kỵ binh và một ngàn con ngựa giúp Lý Uyên trong cuộc nổi dậy chống Tùy nhưng sau khi nhà Ðường thàh lập, Ðông Ðột Quyết thường xuyên tấn công Trung Quốc. Ðến năm 629, nhân khi nội bộ Ðông Ðột Quyết có nhiều mâu thuẫn gay gắt, Thái tông đã liên minh với Tiết Diên Ðà cư trú ở phía bắc sa mạc Gô Bi cùng tấn công Ðông Ðột Quyết. Năm 630, Ðông Ðột Quyết thua, quốc vương của họ bị bát, quốc gia tan rã. </p><p></p><p> Sau khi Ðông Ðột Quyết diệt vong, thế kực của Tiết Diên Ðà mạnh hẳn lên. Lo ngại trước tình hình đó, nhà Ðường lại khôi phục nhà nước cho người Ðột Quyết để tạo nên một thế đệm ở giữa Ðường và Tiết Diên Ðà. Năm 641, nhân khi Tiết Diên Ðà tấn công Ðột Quyết, nhà Ðường đem 10 vạn quân đánh Tiết Diên Ðà. Tiết Diên Ðà phải rút lui. Năm 646, nhân khi nội bộ Tiết Diên Ðà lục đục, Ðường lại tấn công Tiết Diên Ðà. Quốc vương nước này bỏ chạy, sau bị Hồi Hột giết chết.Tiết Diên Ðà diệt vong. Ngay năm ấy, nhà Ðường thiết lập ở đây một cơ quan cai trị gọi là An bắc đô hộ phủ. </p><p></p><p> Về phía tây, năm 635, nhà Ðường thôn tính Ðột Dục Hồn, năm 640, chiếm được nước Cao Xương rồi thành lập ở đây An tây đô hộ phủ. Tiếp đó, Ðường chiếm thêm một số nước, một số nước nhỏ bế khác phải thuần phục. </p><p></p><p> Ơí phía đông bắc, lúc bấy giờ mâu thuẫn giữa ba nước Cao Câu Li, Bách Tế và Tân La rất gay gắt. Riêng ở Cao Câu Li, năm 642, Tuyền cái Tô Văn giết vua Cao Vũ rồi lập Cao Tạng lên ngôi, còn tự mình thì làm Mạc li chi ( tương tự như tể tướng ) và nắm lấy mọi quyền binh. </p><p></p><p> Năm 643, Tân La bị liên quân Cao Lâu Li và Bách tế tấn công, nên sai sứ sang Trung Quốc cầu viện. Nhân cơ hội ấy, dưới chiêu bài để :báo thù cho con em Trung Quốc và rữa nhục cho vua cha của Cao Li, Ðường Thái tông quyết định tấn công Cao Câu Li. </p><p></p><p> Với 10 vạn quân thủy bộ và năm trăm chiến thuyền, năm 645, Ðường Thái tông tự mình chỉ huy cuộc viễn chinh. Tần La cũng đem 5 vạn quân phối hợp tác chiến. Quân Ðường vây thành An Thị ( ở Liêu Ninh, Trung Quốc ngày nay ) 88 ngày không hạ được, lực lượng bị tổn thất nhiều, nên phải rút quân. </p><p></p><p> Cay cú vì thất bại, Ðường Thái tông định đánh Cao Lâu Li một lần nữa, nhưng sau khi bàn luận, cả triều đình cho rằng : Cao Li dựa vào núi làm thành, tấn công không thể hạ nhanh được . Vì vậy, vua quan nhà Ðường chủ trương thay đổi chiến lược sai những đội quân nhỏ thay nhau quấy nhiễu biên giới làm cho nhân dân Cao Li mỏi mệt vì phải trốn tránh, bỏ cày cuốc để vào trong đồn lũy, sau mấy năm thì cả ngàn dặm bị tiêu điều, đo đó lòng người tự li tán. Ðến lúc ầythi vùng phía bắc sông Aïp Lục có thể không cần đánh cũng lấy được. </p><p></p><p> Ngay sau đó, nhà Ðường nhiều lần đưa những độiquân từ 1 đến 3 vạn người sang đánh phá các thành của Cao Lâu Li rồi rút về. Năm 649, Ðường Thái tông chết, mưu đồ chinh phục Triều Tiên phải tạm gác lại. </p><p></p><p> Ðến thời Ðường Cao tông( 650 - 683 ), sự xung đột giữa các nước ở Triều Tiên vẫn tiếp diễn. Với sự giúp đở của Cao Lâu Li, Bách Tế nhiều lần xâm lược Tân La. Vì vậy, năm 660, Tân La lại cầu cứu nhà Ðường một lần nữa. </p><p></p><p> Lần này, nhà Ðường đưa 10 vạn quân thủy bộ sang đánh Bách Tế. Bách Tế diệt vong. </p><p></p><p> Ơí Cao Lâu Li, năm 666, Tuyền cái Tô Văn chết. Vì tranh giành quyền lựa, giữa các con ông đããy ra xung đột vũ trang. Nhân cơ hội ấy, năm 667, nhà Ðường phái quân sang tấn công Cao Lâu Li. Năm 668, Cao Lâu Li thất bại, phải đầu hàng. </p><p></p><p> Trên đất đai mới chiếm được, nhà Ðường thành lập An đông đô hộ phủ ở Bình nhưỡng. Nhưng chỉ sau 8 năm, do sự đấu tranh của nhân dân Triều Tiên dưới sự lãnh đạo của Tân La, năm 676, thế lực của Ðường phải rút khỏi bán đảo và phải dời An đông đô hộ phủ về Liêu Ðông. </p><p></p><p> Như vậy , trải qua gần 40 năm, các vua đầu đời Ðường đã thôn tính được nhiều nước xung quanh lập thành một đế quốc rộng lớn vào bậc nhất thế giới đương thời. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">4. Vụ loạn An Sử và sự suy thoái của nhà Ðường: </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p> Sau khi Vũ Tắc Thiên thoái vị, Trung Tông lại được, nhà Ðường được khôi phục. Tuy vậy, tình hình trong triều rất rối ren, chỉ trong 7 năm, chính biến xãy ra nhiều lần, ba vua được lập lên rồi bị phế truất. </p><p></p><p> Năm 712, Huyền Tông lên ngôi. Trong thời kì đầu, Huyền Tông tỏ ra là một ông vua có năng lực, đã thi hành một số chính sách nhằm ổn định tình hình trong cả nước. Về chính trị, Huyền tông chỉnh đốn lại bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương, phái các vương đi làm Thứ sử ở các châu để họ khỏi gây chính biến ở kinh đô. Về kinh tế, ông rất chú ý đến việc sản xuất và tiếït kiệm như ra lệnh ngừng một số công trình xây dựng, phái quan lại về địa phướng đôc thúc việc diệt châu chấu cắn lúa, cấm tìm ngọc dệt gấm, bỏ các xưỡng dệt gấm ở hai kinh đô Trường An và Lạc Dương, thậm chí còn ra lệnh đốt hủy tất cả châu ngọc gấm vóc. </p><p></p><p> Qua một thời gian, trật tự xã hội ngày càng ổn định, kinh tế phát triển, chính quyền nhà Ðường vững vàng, Trung Quốc bước vào một thời kì phồn thịnh gọi là nền thịnh trị thời Khai Nguyên - Thiên Bảo ( hai niên hiệu của Huyền Tông năm 713 - 755 ). </p><p></p><p> Nhưng đến cuối đời Huyền Tông say đắm Dương Quý Phi, mọi việc trong triều đều giao cho Dương Quốc Trung ( anh của Dương Quý Phi ) và những người thân tín khác, do đó những người này tha hồ làm mưa làm gió ở kinh đô. </p><p></p><p> Ơí các địa phương, giai cấp địa chủ tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, chế độ quân điền tan rã, thế lực của các tiết độ sứ ở các vùng biên cương phát triển, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn giữa trung ương và địa phương trở nên sâu sắc. </p><p></p><p> Trong hoàn cảnh ấy, năm 755, An Lộc Sơn và Sử Tư Minh khởi binh chống Ðường, sử sách gọi là loạn An Sử. </p><p></p><p> An Lộc Sơn vốn là người Hồ, nhờ có nhièu chiến công được phong làm tiết độ sứ ba trấn rồi được phong làm Ðông bình quận vương. </p><p></p><p> Dưới chiêu bài giết Dương Quốc Trung, nhưng thực chất là giành lấy ngai vàng của nhà Ðường, từ Phạm Dương ( Hà Bắc ), An Lộc Sơn tiến quân nhanh chóng xuống Lạc Dương rồi tiến sang Trường An. Huyền tông cùng triều đình phải chạy sang Tứ Xuyên. Vừa mới đến Mã Ngôi ( Thiểm Tây ), theo yêu cầu của quân sĩ, Huyền tông buộc lòng phải cho giết Dương Quốc Trung và Vương Quý Phi. </p><p></p><p> An Lộc Sơn chiếm được Trường An, nhưng từ đó nội bộ thường xãy ra những vụ chém giết lẫn nhau để tranh quyền. Còn nhà Ðường thì vừa khẩn trương tập hợp lực lượng vừa mượn viện binh của Hồi Hột để lấy lại Trường An. Cuối năm 754, Ðường chiếm lại được hai kinh, nhưng đến năm 759, một lần nữa Lạc Dương lại Rơi vào tay quân phiến loạn, mãi đến năm 762, với sự giúp đở của Hồi Hột, Ðường mới thu hồi được thành phố này. Ðến đây, hàng ngũ quân phiến loạn tan rã, nhiều tướng lĩnh đầu hàng nhà Ðường, đến năm 763 thì hoàn toàn thất bại. </p><p></p><p> Vụ loạn An Sử đã để lại rất nhiều hậu quả nghiêm trọng. Nhiều vùng cư dân trù mật trở nên hoang vắng không có bóng người. Ðây cũng là cái mốc đánh dấu nhà Ðường từ chổ thịnh trị bước vào thời kì suy yếu. Từ đó về sau trong triều đình, vua Ðường chỉ làm bù nhìn, mọi quyền hành đều do hoạn quan lũng đoạn. Bọn quan hoạn có thể tự ý phế lập các vua, khống chế các quan từ tể tướng trở xuống. Bị hoạn quan o ép, các quan trong triều lần lần liên kết với nhau để chống lại, nhưng đều bị thất bại. Ơí các địa phương, thế lực các Tiết độ sứ ngày càng lớn mạnh, trở thành những lực lượng các cứ độc lập không chịu sự quãn lí của chính phủ trung ương. </p><p></p><p> Trong quá rình đó, nhà Ðường lại bị Thổ Phồn và Nam Chiếu tấn công và chiếm mát nhiều đất đai. Từ thế kỉ thứ VII, Thổ Phồn ( tiền thân của Tây Tạng ) trở thành một quốc gia thống nhất hùng mạnh và đã nhiều lần đánh bại quân Ðường. Năm 763, sau khi chiếm được một vùng rộng lớn ở Tây Bắc Trung Quốc, Thổ Phồn đem 20 vạn quân tiến sang phía đông cướp phá Trường An 15 ngày rồi rút lui. </p><p></p><p> Còn Nam Chiếu là quốc gia của tộc bạch ở Vân Nam thành lập vào thế kỉ thứ VIII. Lúc đầu Nam Chiếu cũng thuần phục nhà Ðường, nhưng sự tàn ác của bọn quan lại Trung Quốc đã đẩy họ chuyển sang thuần phục Thổ Phồn. Do vậy, nhà Ðường đã hai lần sai quân đi đánh Nam Chiếu nhưng toàn quân bị tiêu diệt. Năm 829, Nam Chiếu tấn công vào nước Thục đến tận Thành Ðô, cướp bóc trong 10 ngày và bắt đem đi hàng vạn thợ thủ công Trung Quốc. Mối đe dọa của Nam Chiếu kéo dài mãi cho đến khi nhà Ðường diệt vong. </p><p></p><p> <strong><span style="color: Blue"> 5. Phong trào chiến tranh nông dân cuối đời Ðường. </span></strong></p><p></p><p> Sau loạn An Sử, chế độ quân điền bị phá hoại, hiện tượng tập trung ruộng đất vào tay các địa chủ ngày càng trầm trọng, do đó kẻ giàu có ruộng hàng vạn mẫu, người nghèo không có chổ đặt chân. </p><p></p><p> Thuế khóa cũng là một gánh nặng mà nhân dân không thể chịu đựng nổi. Ðến kì thu thuế, nhân dân thường phải dỡ nhà bán ngói bán gỗ hoặc cầm vợ bán con để lấy tiền đong thóc nộp thuế, nhưng nhiều khi các thứ đó chỉ mới đủ dọn cơm rượu thết đãi bọn quan lại về thu thuê, chứ chưa có gì nộp vô kho nhà nước. Gặp năm mất mùa, nhân dân phải ăn lá hòe trừ cơm, những người già yếu không đi kiếm được, đành phải chịu chết đói. </p><p></p><p> Ngoài ra, nhân dân còn phải chịu nhiều nổi khổ khác như không có muối mà ăn vì muối cũng như rượu, chè đều do nhà nước độc quyềnmua bán hoặc bị quan hoạn tự do cướp hàng hóa ngoài chợ... </p><p></p><p> Sự khốn khổ cùng cực của nhân dân là nguyên nhân trực tiếp dẩn đến các cuộc khởi nghĩa liên tiếp cuối đời Ðường. </p><p></p><p> Năm 874, phong trào khởi nghĩa nông dân lớn bùng nổ ở Sơn Ðông. Lúc bấy giờ ở vùng này, đê Hoàng Hà bị hỏng, nạn lụt xãy ra luôn, vụ thu năm đó hầu như mất trắng; mặt khác chính phủ quãn lí muối rất chặt, giá muối cao. Vì vậy đời sống của nhân dân ở đây càng cực khổ. </p><p></p><p> Người lãnh đạo lúc đầu là Vương Tiên Chi, một người buôn muối lậu. Quân khởi nghĩa truyền lệnh lên án nhà Ðường thối nát, quan lại tham nhũng, thuế khóa nặng nề. Chẳng bao lâu nghĩa quân đã chiếm nhiều nơi ở Sơn Ðông. </p><p></p><p> Năm 875, Hoàng Sào cũng triệu tập được mấy ngàn người nổi dậy hoạt động ở Sơn Ðông rồi gia nhập lực lượng của Vương Tiên Chi. Từ đó, hàng ngũ nghĩa quân phát triển nhanh chóng, địa bàn hoạt đọng từ Sơn Ðông mở rộng đến vùng Hà Nam, Hồ Bắc, An Huy. </p><p></p><p> Từ đó, Hoàng Sào trở thành người lảnh đạo chủ yếu của phong trào. Ðể tránh chổ mạnh của địch, năm 878, Hoàng Sào quyết địn htiến hành cuộc trường chinh xuống miền Nam, nơi đang tồn tại nhiều thế lực cát cứ, lực lượng giai cáp phong kiến không thống nhất. </p><p></p><p> Xuất phát từ Hà Nam, quân Hoàng Sào đi qua Sơn Tây, An Huy, Triết Giang, Phúc Kiến đến Quãng Ðông. Do không quen khí hậu miền Nam,nghĩa quân bị ốm chết mất ba bốn phần mười, nên cuối năm 879, từ phía đông, Hoàng Sào lại kéo quuân trở lên miên Bắc. Khi quân nông dân tiến gần đến Trường An, triều đình nhà Ðường hoảng sợ bỏ kinh thành chạy sang Tứ Xuyên. Năm 880, quân Hoàng Sào tiến vào kinh đô. Năm 881, Hoàng Sào tự xưng làm hoàng đế, đặt tên nước là Ðại Tề. </p><p></p><p> Trước tình hình ấy, giai cấp phong kiến liên hợp với nhau để bao vây Trường An. Quân nông dân cầm cự được hơn 2 năm, đến năm 883, phải rút về Hà Nam, Sơn Ðông, đến năm 884, thì bị quân Ðường đánh bại. Hoàng Sào tự tử. </p><p></p><p> Như vậy, phong trào khởi nghĩa này chưa lật đổ được nền thống trị của nhà Ðường, nhưng làm cho đế quốc Ðường ngày càng bị chia năm xẻ bảy, trong cung đình càng hổn loạn, nhà Ðường chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa mà thôi. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">V. THỜI KÌ NGŨ ÐẠI ( 907 - 960 ) </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"> 1. Thời kỳ Năm đời Mười nước : </span></strong></p><p></p><p> Năm 882, một viên tướng của Hoàng Sào là Chu Ôn đầu hàng nhà Ðường, được nhà Ðường cho đổi tên thành Chu Toàn Trung và giao cho quyền cao chức trọng, dần dần trở thành một thế lực quân phiệt hùng mạnh. Năm 900, Ðường Chiêu Tông có mưu toan chống lại tập đoàn quan hoạn nên bị quan hoạn cầm tù. Tể tướng Thôi Dận, do đó mời ChuToàn Trung đem quân về kinh đô tiêu diệt bọn quan hoạn. Nạn hoạn quan tuy trừ xong, nhưng mọi quyền hành đều rơi vào tay Chu Toàn Trung. Năm 904, Chu Toàn Trung giết Chiêu Tông lập Ai Ðế và đến năm 907 thì giành hẳn ngôi nhà Ðường lập nên triều Hậu Lương, đóng đô ở Biện Lương ( Khai Phong ). </p><p></p><p> Từ đó cho đến năm 960, ở miền bắc Trung Quốc lần lược dựng lên 5 triều đại là Hậu Lương ( 907 - 923 ), Hậu Ðường ( 923 - 935 ), Hậu Tấn ( 936 - 947 ), Hậu Hán (947 - 950 ), Hậu Chu ( 951 - 960 ). </p><p> </p><p> Ơí miền nam, từ cuối đời Ðường, các tướng, quân phiệt mỗi người chiếm giữ một vùng. Sau khi Ðường diệt vong, các thế lực các cứ ấy đã lần lượt lập thành 9 nước là Tiền Thục ( 907 - 925 , Ngô Việt ( 907 - 978 ), Mân ( 909 - 945 ), Ngô (919 -937 ), Nam Hán ( 917 - 971 ), Nam Bình ( 925 - 978 ), Sở ( 927 - 951 ), Hậu Thục (934 - 965 ), Nam Ðường ( 937 - 975 ), cộng với nước Bắc Hán ( 951 - 979 ) ở miền Bắc là 10 nước. vì vậy thời kì lịch sử này gọi chung là thời kì Ngũ đại thập quốc. </p><p></p><p> Trong thời kì này, do tình trạng chia cắt trầm trọng như vậy nên chiến tranh diễn ra liên miên. Ơí những vùng xãy ra chiến sự, thây chết đầy đường, đồng ruộng bỏ hoang, cả nghìn dặm không có bóng người. Khi đánh nhau, bọn quân phiệt còn tự động phá đê, càng làm cho các loại thiên tai như hạn, lụt bảo thêm trầm trọng. Trong khi đó, chính quyền ở các nước đều thi hành chính sách thuế khóa nặng, hình phạt tàn khốc, bọn quan lại nhân cơ hội ấy tha hồ ức hiếp nhân dân, bởi vậy đời sống nhân dân Trung Quốc vô cùng khổ sở. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Sự đe dọa của người Khiết Ðan : </span></strong></p><p></p><p> Bắt đầu từ thời kì này, Trung Quốc bị người Khiết Ðan xâm chiếm đất và thường xuyên đe dọa. </p><p></p><p> Người Khiết Ðan vốn là một chi nhánh của Ðông Hồ sống bằng nghề du mục ở đông bắc Trung Quốc ngày nay. Năm 916, một thủ lĩnh bộ lạc là Gia Luật A Bảo Cơ thống nhất các bộ lạc Khiết Ðan, lên ngôi hoàng đế. Nước Khiết Ðan bắt đầu được thành lập. Ngay năm đó, Khiết Ðan tấn công các tộc Ðột Quyết Ðột Dục Hồn, Ðảng Hạng, Sa Ðà ở phía tây và xâm chiếm nhiều châu ở phía bắc Trung Quốc. Năm 926, Khiết Ðan tiêu diệt nước Bột Hải ở phía đông, do đó địa bàn được mở rộng , trở thành một nước lớn mạnh. </p><p></p><p> Năm 936, Tiết độ sứ Hà Ðông của hậu Ðường là Thạch Kính Ðường (người Sa Ðà ) dựa vào thế lực của Khiết Ðan để cướp ngôi Hậu Ðưòng, lập nên triều Hậu Tấn. </p><p></p><p> Năm 937, Khiết Ðan đổi tên thành nước Liêu. Vốn có âm mưu thôn tín cả miền Bắc Trung quốc, năm 942, nhân khi Thạch Kính Ðường chết, Vua Liêu đem quân tiến xuống phía Nam, nhưng bị nhân dân Trung quốc chặn đánh, nên phải tạm thời lui quân. </p><p></p><p> Năm 946, Liêu lại tấn công Hậu Tấn, nhiều tướng lĩnh của Hậu Tấn đầu hàng, quân Liêu chiếm được Biện Lương, Hậu Tấn diệt vong. Gia Luật Ðức Quang lên làm hoàng đế ở Biện Lương, nhưng nhân dân Trung quốc khắp nơi nổi dậy đấu tranh, đến cuối năm 947, phải rút về Hoàng Hà.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 50378, member: 28779"] [B][COLOR="Blue"]B - THỜI KỲ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC IV.TRIỀU ÐƯỜNG[/COLOR][/B] [B][COLOR="Blue"] 1. Sự thành lập triều Ðường và nền thịnh trị thời Ðường Thái Tông: [/COLOR][/B] Sau khi Tùy Dượng đế chạy khỏ kinh đô, năm 617, một viên quan của nhà tùy tên là Lý Uyên cùng với con mình là Lý Thế Dân khởi binh ở Thái Nguyên (Sơn Tây ) rồi tấn công Trường An. Năm 618, Lý Uyên xưng làm vua, hiệu là Cao Tổ, đặt quốc hiệu là Ðường. Tiếp đó, Ðường tập trung lực lượng để đánh bại quân nông đân và tàn quân của Tùy. Ngay năm 618, Lý Mật phải đầu hàng, đến năm 621, Ðậu Kiến Ðức cũng bị Lý Thế Dân đánhbại và bị bắt, lực lượng hoàn toàn tan rã. Sau 10 năm chẳng, đến năm 628, mọi thế lực các cứ đều bị tiêu diệt, Trung Quốc lại hoàn toàn thống nhất. Trong quá trình ấy, năm 626 do ghen tị, người con trưởng của Lý Uyên là Lý Kiến Thành và người con thứ là Lý Nguyên Cát đã tổ chức đầu độc Lý Thế Dân nhưng không thành công, do đó đã bị Lý Thế Dân và vây cánh giết chết ở cửa Huyền Vũ của hoàng thành. Cũng năm đó, Lý Uyên thoái vị, Lý Thế Dân lên nối ngôi, hiệu là Thái tông. Phong trào đấu tranh của nhân dân và sự diệt vong của các triều đại trước đã làm cho Ðường thái tông nhận thức được rằng: thuyền ví như vua, nước ví như dân, nước có thể chở thuyền, cũng có thểlật thuyền.. Ông còn nói : Tai họa của vua không phải từ bên ngoài đến mà thường tự mình mà ra. Nếu muốn phô trương thì phải chi tiêu rộng, chi tiêu rộng thì phải thu thuế nặng, thu thuế nặng thì dân sầu oán, dân sầu oán thì nước nguy, nước nguy thì vua chết.. Chính nhờ hiểu được như vậy, nên Ðường thái tông đã thi hành nhiều chính sách có lợi cho dân như thi hành chế độ quân điền, giảm bớt lao dịch, hạn chế lãng phí, giảm nhẹ hình phạt, chọn quan lại thanh liêm... Do đó, chỉ sau mấy năm, kinh tế được khôi phục và phát triển, chính trị ổn định, lịch sử Trung Quốc gọi là nền thịnh trị thời Trinh Quán ( niên hiệu của Thái tông từ 627 - 649 ). [B][COLOR="Blue"]2. Sự chuyên quyền của nữ hoàng Vũ Tắc Thiên[/COLOR][/B] Năm 649, Ðường Thái Tông chết. Cao Tông, lên nối ngôi, là một người nhu nhược ốm yếu, nên đần mọi việc đều do hoàng hậu Vũ Tắc Thiên quyết định. Vũ Tắc Thiên là con một công thần của nhà Ðường. Năm 14 tuổi vào làm một chức nữ quan trong cung Ðường thái tông. Thái tông chết, Vũ Tắc Thiên được bố trí cho vào chùa đi tu rồi ít lâu sau được đón về làm cung phi của Ðường Cao Tông. Là một phụ nữ xinh đẹp, khôn ngoan, xảo quyệt, tàn nhẫn, cương quyết lại biết nhẫn nhục chờ thời, đến năm 655, Vũ Tắc Thiên giành được ngôi hoàng hậu. Năm 683, Cao Tông chết, Trung Tông, Duệ Tông lần lượt được cử lên làm vua bù nhìn, nhưng mọi quyền hành đều nằm trong tay thái hậu họ Vũ. Tuy vậy, vẫn chưa thỏa mãn, nên đến năm 690 Vũ Tắc Thiên chính thức xưng làm hoang đế, đổi quốc hiệu thành Chu (690 - 705 ). Trong suốt mấy chục năm chấp chính, nhất là sau khi làm vua, Vũ Tắc Thiên thẳng tay khủng bố những quí tộc chống đối bằng những nhục hình vô cùng thảm khốc. Kết quả là rất nhiều tôn thất, quý tộc, công thần bị giết hại. Trong khi đó, nhân dan phải gánh chịu những nghĩa vụ thuế khóa, lao dịch, binh dịch nặng nề hơn trước, lại bị bọn quan lại tham ô tàn bạo nhũng nhiễu, hà hiếp, nên đời sống ngày càng cực khổ. Năm 705, Vũ Tắc Thiên ốm nặng, trong cung nổ ra chính biến. Vũ Tắc Thiên buộc phải thoái vị. Triều Chu ngắn ngủi của vị nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc kết thúc. [B][COLOR="Blue"]3. Những cuộc chiến tranh xâm lược đầu đời Ðường: [/COLOR][/B] Ðến đời Ðường Thái tông, Trung Quốc lại bước vào một thời kì thống nhất ổn định. Với điều kiện ấy, nhà Ðường lại phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược các nước xung quanh. Ơí phía bắc, Thái tông lần lược chinh phục Ðông Ðột Quyết và Tiết Diên Ðà. Vào cuối đời Tùy, thế lực của Ðông Ðột Quyết tương đối mạnh, đã từng đưa hai ngàn kỵ binh và một ngàn con ngựa giúp Lý Uyên trong cuộc nổi dậy chống Tùy nhưng sau khi nhà Ðường thàh lập, Ðông Ðột Quyết thường xuyên tấn công Trung Quốc. Ðến năm 629, nhân khi nội bộ Ðông Ðột Quyết có nhiều mâu thuẫn gay gắt, Thái tông đã liên minh với Tiết Diên Ðà cư trú ở phía bắc sa mạc Gô Bi cùng tấn công Ðông Ðột Quyết. Năm 630, Ðông Ðột Quyết thua, quốc vương của họ bị bát, quốc gia tan rã. Sau khi Ðông Ðột Quyết diệt vong, thế kực của Tiết Diên Ðà mạnh hẳn lên. Lo ngại trước tình hình đó, nhà Ðường lại khôi phục nhà nước cho người Ðột Quyết để tạo nên một thế đệm ở giữa Ðường và Tiết Diên Ðà. Năm 641, nhân khi Tiết Diên Ðà tấn công Ðột Quyết, nhà Ðường đem 10 vạn quân đánh Tiết Diên Ðà. Tiết Diên Ðà phải rút lui. Năm 646, nhân khi nội bộ Tiết Diên Ðà lục đục, Ðường lại tấn công Tiết Diên Ðà. Quốc vương nước này bỏ chạy, sau bị Hồi Hột giết chết.Tiết Diên Ðà diệt vong. Ngay năm ấy, nhà Ðường thiết lập ở đây một cơ quan cai trị gọi là An bắc đô hộ phủ. Về phía tây, năm 635, nhà Ðường thôn tính Ðột Dục Hồn, năm 640, chiếm được nước Cao Xương rồi thành lập ở đây An tây đô hộ phủ. Tiếp đó, Ðường chiếm thêm một số nước, một số nước nhỏ bế khác phải thuần phục. Ơí phía đông bắc, lúc bấy giờ mâu thuẫn giữa ba nước Cao Câu Li, Bách Tế và Tân La rất gay gắt. Riêng ở Cao Câu Li, năm 642, Tuyền cái Tô Văn giết vua Cao Vũ rồi lập Cao Tạng lên ngôi, còn tự mình thì làm Mạc li chi ( tương tự như tể tướng ) và nắm lấy mọi quyền binh. Năm 643, Tân La bị liên quân Cao Lâu Li và Bách tế tấn công, nên sai sứ sang Trung Quốc cầu viện. Nhân cơ hội ấy, dưới chiêu bài để :báo thù cho con em Trung Quốc và rữa nhục cho vua cha của Cao Li, Ðường Thái tông quyết định tấn công Cao Câu Li. Với 10 vạn quân thủy bộ và năm trăm chiến thuyền, năm 645, Ðường Thái tông tự mình chỉ huy cuộc viễn chinh. Tần La cũng đem 5 vạn quân phối hợp tác chiến. Quân Ðường vây thành An Thị ( ở Liêu Ninh, Trung Quốc ngày nay ) 88 ngày không hạ được, lực lượng bị tổn thất nhiều, nên phải rút quân. Cay cú vì thất bại, Ðường Thái tông định đánh Cao Lâu Li một lần nữa, nhưng sau khi bàn luận, cả triều đình cho rằng : Cao Li dựa vào núi làm thành, tấn công không thể hạ nhanh được . Vì vậy, vua quan nhà Ðường chủ trương thay đổi chiến lược sai những đội quân nhỏ thay nhau quấy nhiễu biên giới làm cho nhân dân Cao Li mỏi mệt vì phải trốn tránh, bỏ cày cuốc để vào trong đồn lũy, sau mấy năm thì cả ngàn dặm bị tiêu điều, đo đó lòng người tự li tán. Ðến lúc ầythi vùng phía bắc sông Aïp Lục có thể không cần đánh cũng lấy được. Ngay sau đó, nhà Ðường nhiều lần đưa những độiquân từ 1 đến 3 vạn người sang đánh phá các thành của Cao Lâu Li rồi rút về. Năm 649, Ðường Thái tông chết, mưu đồ chinh phục Triều Tiên phải tạm gác lại. Ðến thời Ðường Cao tông( 650 - 683 ), sự xung đột giữa các nước ở Triều Tiên vẫn tiếp diễn. Với sự giúp đở của Cao Lâu Li, Bách Tế nhiều lần xâm lược Tân La. Vì vậy, năm 660, Tân La lại cầu cứu nhà Ðường một lần nữa. Lần này, nhà Ðường đưa 10 vạn quân thủy bộ sang đánh Bách Tế. Bách Tế diệt vong. Ơí Cao Lâu Li, năm 666, Tuyền cái Tô Văn chết. Vì tranh giành quyền lựa, giữa các con ông đããy ra xung đột vũ trang. Nhân cơ hội ấy, năm 667, nhà Ðường phái quân sang tấn công Cao Lâu Li. Năm 668, Cao Lâu Li thất bại, phải đầu hàng. Trên đất đai mới chiếm được, nhà Ðường thành lập An đông đô hộ phủ ở Bình nhưỡng. Nhưng chỉ sau 8 năm, do sự đấu tranh của nhân dân Triều Tiên dưới sự lãnh đạo của Tân La, năm 676, thế lực của Ðường phải rút khỏi bán đảo và phải dời An đông đô hộ phủ về Liêu Ðông. Như vậy , trải qua gần 40 năm, các vua đầu đời Ðường đã thôn tính được nhiều nước xung quanh lập thành một đế quốc rộng lớn vào bậc nhất thế giới đương thời. [B][COLOR="Blue"]4. Vụ loạn An Sử và sự suy thoái của nhà Ðường: [/COLOR][/B] Sau khi Vũ Tắc Thiên thoái vị, Trung Tông lại được, nhà Ðường được khôi phục. Tuy vậy, tình hình trong triều rất rối ren, chỉ trong 7 năm, chính biến xãy ra nhiều lần, ba vua được lập lên rồi bị phế truất. Năm 712, Huyền Tông lên ngôi. Trong thời kì đầu, Huyền Tông tỏ ra là một ông vua có năng lực, đã thi hành một số chính sách nhằm ổn định tình hình trong cả nước. Về chính trị, Huyền tông chỉnh đốn lại bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương, phái các vương đi làm Thứ sử ở các châu để họ khỏi gây chính biến ở kinh đô. Về kinh tế, ông rất chú ý đến việc sản xuất và tiếït kiệm như ra lệnh ngừng một số công trình xây dựng, phái quan lại về địa phướng đôc thúc việc diệt châu chấu cắn lúa, cấm tìm ngọc dệt gấm, bỏ các xưỡng dệt gấm ở hai kinh đô Trường An và Lạc Dương, thậm chí còn ra lệnh đốt hủy tất cả châu ngọc gấm vóc. Qua một thời gian, trật tự xã hội ngày càng ổn định, kinh tế phát triển, chính quyền nhà Ðường vững vàng, Trung Quốc bước vào một thời kì phồn thịnh gọi là nền thịnh trị thời Khai Nguyên - Thiên Bảo ( hai niên hiệu của Huyền Tông năm 713 - 755 ). Nhưng đến cuối đời Huyền Tông say đắm Dương Quý Phi, mọi việc trong triều đều giao cho Dương Quốc Trung ( anh của Dương Quý Phi ) và những người thân tín khác, do đó những người này tha hồ làm mưa làm gió ở kinh đô. Ơí các địa phương, giai cấp địa chủ tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, chế độ quân điền tan rã, thế lực của các tiết độ sứ ở các vùng biên cương phát triển, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn giữa trung ương và địa phương trở nên sâu sắc. Trong hoàn cảnh ấy, năm 755, An Lộc Sơn và Sử Tư Minh khởi binh chống Ðường, sử sách gọi là loạn An Sử. An Lộc Sơn vốn là người Hồ, nhờ có nhièu chiến công được phong làm tiết độ sứ ba trấn rồi được phong làm Ðông bình quận vương. Dưới chiêu bài giết Dương Quốc Trung, nhưng thực chất là giành lấy ngai vàng của nhà Ðường, từ Phạm Dương ( Hà Bắc ), An Lộc Sơn tiến quân nhanh chóng xuống Lạc Dương rồi tiến sang Trường An. Huyền tông cùng triều đình phải chạy sang Tứ Xuyên. Vừa mới đến Mã Ngôi ( Thiểm Tây ), theo yêu cầu của quân sĩ, Huyền tông buộc lòng phải cho giết Dương Quốc Trung và Vương Quý Phi. An Lộc Sơn chiếm được Trường An, nhưng từ đó nội bộ thường xãy ra những vụ chém giết lẫn nhau để tranh quyền. Còn nhà Ðường thì vừa khẩn trương tập hợp lực lượng vừa mượn viện binh của Hồi Hột để lấy lại Trường An. Cuối năm 754, Ðường chiếm lại được hai kinh, nhưng đến năm 759, một lần nữa Lạc Dương lại Rơi vào tay quân phiến loạn, mãi đến năm 762, với sự giúp đở của Hồi Hột, Ðường mới thu hồi được thành phố này. Ðến đây, hàng ngũ quân phiến loạn tan rã, nhiều tướng lĩnh đầu hàng nhà Ðường, đến năm 763 thì hoàn toàn thất bại. Vụ loạn An Sử đã để lại rất nhiều hậu quả nghiêm trọng. Nhiều vùng cư dân trù mật trở nên hoang vắng không có bóng người. Ðây cũng là cái mốc đánh dấu nhà Ðường từ chổ thịnh trị bước vào thời kì suy yếu. Từ đó về sau trong triều đình, vua Ðường chỉ làm bù nhìn, mọi quyền hành đều do hoạn quan lũng đoạn. Bọn quan hoạn có thể tự ý phế lập các vua, khống chế các quan từ tể tướng trở xuống. Bị hoạn quan o ép, các quan trong triều lần lần liên kết với nhau để chống lại, nhưng đều bị thất bại. Ơí các địa phương, thế lực các Tiết độ sứ ngày càng lớn mạnh, trở thành những lực lượng các cứ độc lập không chịu sự quãn lí của chính phủ trung ương. Trong quá rình đó, nhà Ðường lại bị Thổ Phồn và Nam Chiếu tấn công và chiếm mát nhiều đất đai. Từ thế kỉ thứ VII, Thổ Phồn ( tiền thân của Tây Tạng ) trở thành một quốc gia thống nhất hùng mạnh và đã nhiều lần đánh bại quân Ðường. Năm 763, sau khi chiếm được một vùng rộng lớn ở Tây Bắc Trung Quốc, Thổ Phồn đem 20 vạn quân tiến sang phía đông cướp phá Trường An 15 ngày rồi rút lui. Còn Nam Chiếu là quốc gia của tộc bạch ở Vân Nam thành lập vào thế kỉ thứ VIII. Lúc đầu Nam Chiếu cũng thuần phục nhà Ðường, nhưng sự tàn ác của bọn quan lại Trung Quốc đã đẩy họ chuyển sang thuần phục Thổ Phồn. Do vậy, nhà Ðường đã hai lần sai quân đi đánh Nam Chiếu nhưng toàn quân bị tiêu diệt. Năm 829, Nam Chiếu tấn công vào nước Thục đến tận Thành Ðô, cướp bóc trong 10 ngày và bắt đem đi hàng vạn thợ thủ công Trung Quốc. Mối đe dọa của Nam Chiếu kéo dài mãi cho đến khi nhà Ðường diệt vong. [B][COLOR="Blue"] 5. Phong trào chiến tranh nông dân cuối đời Ðường. [/COLOR][/B] Sau loạn An Sử, chế độ quân điền bị phá hoại, hiện tượng tập trung ruộng đất vào tay các địa chủ ngày càng trầm trọng, do đó kẻ giàu có ruộng hàng vạn mẫu, người nghèo không có chổ đặt chân. Thuế khóa cũng là một gánh nặng mà nhân dân không thể chịu đựng nổi. Ðến kì thu thuế, nhân dân thường phải dỡ nhà bán ngói bán gỗ hoặc cầm vợ bán con để lấy tiền đong thóc nộp thuế, nhưng nhiều khi các thứ đó chỉ mới đủ dọn cơm rượu thết đãi bọn quan lại về thu thuê, chứ chưa có gì nộp vô kho nhà nước. Gặp năm mất mùa, nhân dân phải ăn lá hòe trừ cơm, những người già yếu không đi kiếm được, đành phải chịu chết đói. Ngoài ra, nhân dân còn phải chịu nhiều nổi khổ khác như không có muối mà ăn vì muối cũng như rượu, chè đều do nhà nước độc quyềnmua bán hoặc bị quan hoạn tự do cướp hàng hóa ngoài chợ... Sự khốn khổ cùng cực của nhân dân là nguyên nhân trực tiếp dẩn đến các cuộc khởi nghĩa liên tiếp cuối đời Ðường. Năm 874, phong trào khởi nghĩa nông dân lớn bùng nổ ở Sơn Ðông. Lúc bấy giờ ở vùng này, đê Hoàng Hà bị hỏng, nạn lụt xãy ra luôn, vụ thu năm đó hầu như mất trắng; mặt khác chính phủ quãn lí muối rất chặt, giá muối cao. Vì vậy đời sống của nhân dân ở đây càng cực khổ. Người lãnh đạo lúc đầu là Vương Tiên Chi, một người buôn muối lậu. Quân khởi nghĩa truyền lệnh lên án nhà Ðường thối nát, quan lại tham nhũng, thuế khóa nặng nề. Chẳng bao lâu nghĩa quân đã chiếm nhiều nơi ở Sơn Ðông. Năm 875, Hoàng Sào cũng triệu tập được mấy ngàn người nổi dậy hoạt động ở Sơn Ðông rồi gia nhập lực lượng của Vương Tiên Chi. Từ đó, hàng ngũ nghĩa quân phát triển nhanh chóng, địa bàn hoạt đọng từ Sơn Ðông mở rộng đến vùng Hà Nam, Hồ Bắc, An Huy. Từ đó, Hoàng Sào trở thành người lảnh đạo chủ yếu của phong trào. Ðể tránh chổ mạnh của địch, năm 878, Hoàng Sào quyết địn htiến hành cuộc trường chinh xuống miền Nam, nơi đang tồn tại nhiều thế lực cát cứ, lực lượng giai cáp phong kiến không thống nhất. Xuất phát từ Hà Nam, quân Hoàng Sào đi qua Sơn Tây, An Huy, Triết Giang, Phúc Kiến đến Quãng Ðông. Do không quen khí hậu miền Nam,nghĩa quân bị ốm chết mất ba bốn phần mười, nên cuối năm 879, từ phía đông, Hoàng Sào lại kéo quuân trở lên miên Bắc. Khi quân nông dân tiến gần đến Trường An, triều đình nhà Ðường hoảng sợ bỏ kinh thành chạy sang Tứ Xuyên. Năm 880, quân Hoàng Sào tiến vào kinh đô. Năm 881, Hoàng Sào tự xưng làm hoàng đế, đặt tên nước là Ðại Tề. Trước tình hình ấy, giai cấp phong kiến liên hợp với nhau để bao vây Trường An. Quân nông dân cầm cự được hơn 2 năm, đến năm 883, phải rút về Hà Nam, Sơn Ðông, đến năm 884, thì bị quân Ðường đánh bại. Hoàng Sào tự tử. Như vậy, phong trào khởi nghĩa này chưa lật đổ được nền thống trị của nhà Ðường, nhưng làm cho đế quốc Ðường ngày càng bị chia năm xẻ bảy, trong cung đình càng hổn loạn, nhà Ðường chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa mà thôi. [B][COLOR="Blue"]V. THỜI KÌ NGŨ ÐẠI ( 907 - 960 ) 1. Thời kỳ Năm đời Mười nước : [/COLOR][/B] Năm 882, một viên tướng của Hoàng Sào là Chu Ôn đầu hàng nhà Ðường, được nhà Ðường cho đổi tên thành Chu Toàn Trung và giao cho quyền cao chức trọng, dần dần trở thành một thế lực quân phiệt hùng mạnh. Năm 900, Ðường Chiêu Tông có mưu toan chống lại tập đoàn quan hoạn nên bị quan hoạn cầm tù. Tể tướng Thôi Dận, do đó mời ChuToàn Trung đem quân về kinh đô tiêu diệt bọn quan hoạn. Nạn hoạn quan tuy trừ xong, nhưng mọi quyền hành đều rơi vào tay Chu Toàn Trung. Năm 904, Chu Toàn Trung giết Chiêu Tông lập Ai Ðế và đến năm 907 thì giành hẳn ngôi nhà Ðường lập nên triều Hậu Lương, đóng đô ở Biện Lương ( Khai Phong ). Từ đó cho đến năm 960, ở miền bắc Trung Quốc lần lược dựng lên 5 triều đại là Hậu Lương ( 907 - 923 ), Hậu Ðường ( 923 - 935 ), Hậu Tấn ( 936 - 947 ), Hậu Hán (947 - 950 ), Hậu Chu ( 951 - 960 ). Ơí miền nam, từ cuối đời Ðường, các tướng, quân phiệt mỗi người chiếm giữ một vùng. Sau khi Ðường diệt vong, các thế lực các cứ ấy đã lần lượt lập thành 9 nước là Tiền Thục ( 907 - 925 , Ngô Việt ( 907 - 978 ), Mân ( 909 - 945 ), Ngô (919 -937 ), Nam Hán ( 917 - 971 ), Nam Bình ( 925 - 978 ), Sở ( 927 - 951 ), Hậu Thục (934 - 965 ), Nam Ðường ( 937 - 975 ), cộng với nước Bắc Hán ( 951 - 979 ) ở miền Bắc là 10 nước. vì vậy thời kì lịch sử này gọi chung là thời kì Ngũ đại thập quốc. Trong thời kì này, do tình trạng chia cắt trầm trọng như vậy nên chiến tranh diễn ra liên miên. Ơí những vùng xãy ra chiến sự, thây chết đầy đường, đồng ruộng bỏ hoang, cả nghìn dặm không có bóng người. Khi đánh nhau, bọn quân phiệt còn tự động phá đê, càng làm cho các loại thiên tai như hạn, lụt bảo thêm trầm trọng. Trong khi đó, chính quyền ở các nước đều thi hành chính sách thuế khóa nặng, hình phạt tàn khốc, bọn quan lại nhân cơ hội ấy tha hồ ức hiếp nhân dân, bởi vậy đời sống nhân dân Trung Quốc vô cùng khổ sở. [B][COLOR="Blue"]1. Sự đe dọa của người Khiết Ðan : [/COLOR][/B] Bắt đầu từ thời kì này, Trung Quốc bị người Khiết Ðan xâm chiếm đất và thường xuyên đe dọa. Người Khiết Ðan vốn là một chi nhánh của Ðông Hồ sống bằng nghề du mục ở đông bắc Trung Quốc ngày nay. Năm 916, một thủ lĩnh bộ lạc là Gia Luật A Bảo Cơ thống nhất các bộ lạc Khiết Ðan, lên ngôi hoàng đế. Nước Khiết Ðan bắt đầu được thành lập. Ngay năm đó, Khiết Ðan tấn công các tộc Ðột Quyết Ðột Dục Hồn, Ðảng Hạng, Sa Ðà ở phía tây và xâm chiếm nhiều châu ở phía bắc Trung Quốc. Năm 926, Khiết Ðan tiêu diệt nước Bột Hải ở phía đông, do đó địa bàn được mở rộng , trở thành một nước lớn mạnh. Năm 936, Tiết độ sứ Hà Ðông của hậu Ðường là Thạch Kính Ðường (người Sa Ðà ) dựa vào thế lực của Khiết Ðan để cướp ngôi Hậu Ðưòng, lập nên triều Hậu Tấn. Năm 937, Khiết Ðan đổi tên thành nước Liêu. Vốn có âm mưu thôn tín cả miền Bắc Trung quốc, năm 942, nhân khi Thạch Kính Ðường chết, Vua Liêu đem quân tiến xuống phía Nam, nhưng bị nhân dân Trung quốc chặn đánh, nên phải tạm thời lui quân. Năm 946, Liêu lại tấn công Hậu Tấn, nhiều tướng lĩnh của Hậu Tấn đầu hàng, quân Liêu chiếm được Biện Lương, Hậu Tấn diệt vong. Gia Luật Ðức Quang lên làm hoàng đế ở Biện Lương, nhưng nhân dân Trung quốc khắp nơi nổi dậy đấu tranh, đến cuối năm 947, phải rút về Hoàng Hà. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Trung Quốc dưới chế độ phong kiến
Top