Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Các Nền Văn minh Thế Giới
Văn hóa Phật giáo
Trói buộc từ đâu ?
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Hide Nguyễn" data-source="post: 174264" data-attributes="member: 6"><p>TRÓI BUỘC VÀ GIẢI THOÁT</p><p></p><p>Thích Tâm Hạnh</p><p></p><p></p><p><strong>A/ DẪN NHẬP.</strong></p><p></p><p><a href="https://thuvienhoasen.org/images/file/5NKAsD5g0QgBAMoG/troi-buoc-va-giai-thoat.jpg" target="_blank"><img src="https://thuvienhoasen.org/images/file/5NKAsD5g0QgBAMoG/troi-buoc-va-giai-thoat.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></a>Trải qua nhiều gian nan vất vả, lận đận lao đao khiến con người ta mất phương hướng sống, ngày càng thấy mình trở nên lạnh lẽo, cô đơn. Cuộc sống lẻ loi giữa trường đờinhư đang bị ngục tù vô hình của thế gian giam nhốt. Có vị Phật tử thấm thía những trắc trở cõi đời mình đã sống qua và viết nên thành thơ:</p><p></p><p><em><strong>Hồn con lạnh buốt sương mù</strong></em></p><p><em><strong>Đêm đêm trở giấc ngục tù thế gian.</strong></em></p><p></p><p>Sống giữa dòng đời với rất nhiều người, với bao nhiêu thứ bận rộn, nhưng không biết tại sao lại cảm thấytâm hồn mình quạnh quẽ, lẻ loi, dường như không thể có người hiểu mình để cùng san sẻ bớt phần nào cho nhau vậy. Đêm đêm trở giấc, thoạt thức giấc ngủ thì cảm thấy mình như bị giam nhốt trong ngục tù thế gian. Đó là tâm trạng của người làm thơ và có lẽ cũng là tâm trạng của nhiều người đang sống trong cuộc đời còn nhiều gian khổ. Khi thấy cuộc sống ngoài thế gian quá rộn ràng, mệt mỏi, ai cũng đang bị nhiều thứ chung quanh ràng buộc nên có người đã tìm đến chùa học đạo, tu tập để mong cởi bớt ra những thứ trói buộc kia, trong nhà Phật gọi là giải thoát. Gần là để giải thoát bớt những ràng buộc của thế gian, dần dần tu tập cao hơn thì được giải thoát rốt ráo. Giải thoát có nghĩa là cởi trói ra. Ví như tay mình đang bị cột gọi là bị trói buộc, và khi được mở ra thì gọi là giải thoát. Như vậy, khi muốn cầu giải thoát có nghĩa là chúng tađang bị trói buộc. Vậy ai trói mình? Tại sao mình bị trói? Chúng ta cùng phăng tìm ra manh mối cho tường tận, rõ ràng thì việc thực hành của mình mới có kết quả thiết thực. Vì vậy hôm nay trao đổi cùng quý vị đề tài “Trói buộc và giải thoát”.</p><p></p><p><strong>B/ AI TRÓI BUỘC MÌNH?</strong></p><p></p><p>Nhìn lại xem, có vị nào cảm thấy mình hoàn toàn không bị bất cứ một cái gì trói buộc không? Ai cũng bị trói hết. Vậy cái gì trói chúng ta? Đúng ra hôm nay tan sở, đi làm về là mình đã có chương trình riêng ở nhà rồi. Thình lình không biết từ đâu ông Thầy tới Chùa Hoa Nghiêm khiến mình phải lên đây. Ngồi nghe nói chuyện đây thì chắc quý vị cũng hoan hỷ, nhưng giả sử nhỡ ở nhà có chuyện chi đó gọi điện thoại lên thì trong lòng mình không dễ được yên tâm, ít nhất cũng có lo một chút. Ngay niệm lo lắng đó thì biết là mình đã bị cái nhà nó cột trói rồi. Nếu không bị nó cột thì đâu có gì phải lo âu? Cho đến các mối quan hệ chung quanh như vợ chồng, cha mẹ, anh em ràng rịt lẫn nhau. Thêm nữa, trong cuộc sống vì kế sinh nhai bắt buộc mình phải lo lắng. Cuối tháng lỡ không có tiền trả hóa đơn thì chúng ta đã lo lắng ăn không ngon ngủ không yên, từ đó bị nhiều thứ nó trói mình chằn chịt không tả nổi:</p><p></p><p><em><strong>Ngược xuôi mấy dặm thương trường</strong></em></p><p><em><strong>Cuộc vui tao ngộ cuộc vương đọa đày.</strong></em></p><p><em><strong>Áo đời mấy lượt sờn vai,</strong></em></p><p><em><strong>Con còn đếm bước tháng ngày lao đao.</strong></em></p><p></p><p>Thương trường là nơi làm ăn. Chúng ta đôn đáo chạy ngược chạy xuôi trong đó để tranh đấu kiếm tiền sinh sống. Bao nhiêu quan hệ, gặp gỡ… có khi tưởng chừng như vui, nhưng do mỗi người chưa làm chủ chính mình cho nên sẽ đến lúc vướng víu, rắc rối rồi phải vương khổ đọa đày. Lúc này mới biết mình đã bị trói buộc thì quá muộn, đã bị khổ rồi. Tỉnh táo một chút để nhìn lại thì thấy sự trói buộc nó đang diễn ra ngay từng sự tiếp xúc, từng quan niệm hằng ngày.</p><p></p><p><strong>I/ ĐIỀU THUẬN TRÓI BUỘC.</strong></p><p></p><p><strong>1/ VẬT CHẤT TRÓI BUỘC.</strong></p><p></p><p>Khi đi làm về trễ, thấy nhà cửa lộn xộn thì trong lòng không vui. Ngược lại, hôm nào về thấy nhà cửa sạch sẽ, con cái lịch sự dâng nước, lấy khăn cho mình lau mặt thì cảm thấy hài lòng, dễ chịu. Như vậy là đã bị dính mắc, trói buộc, mới thấy tâm mình rất vi tế. Chỉ cần có một niệm hài lòng, ngay đó đã bị nó trói cột rồi. Cho nên trong cuộc sống hằng ngày, khi vừa cảm thấy thích ý hay hài lòng về một cái gì đó thì coi chừng, ngay đó đã bị trói. Một khi bị trói rồi thì nó khiển đi đâu mình phải theo đấy, không làm chủ được.</p><p></p><p><strong>2/ Ý TƯỞNG TRÓI BUỘC.</strong></p><p></p><p>Ở một góc độ khác, trong cuộc sống, có nhiều người có vẻ như không màng tới vật chất, tiền bạc hay các quan hệ chung quanh mà họ chỉ sống theo một ý tưởng của riêng của họ. Người thích sống với lý tưởngnhư thế xem ra dường như không bị vật chất thế gian chi phối, thấy như là thanh thoát, nhưng chính họ có bị cái gì trói buộc không?</p><p></p><p>Thời xưa có anh chàng thư sinh khi học hết chữ của thầy rồi lên đường đi thi. Trên đường đi qua một dòng sông, gặp cô lái đò thì anh ta có ý chọc ghẹo. Cô lái đò nghiêm túc nói: “Tôi có một câu đối, nếu anh đối được thì tôi nguyện đi theo nâng khăn xách túi, còn không đối được thì xin trả tiền đò gấp đôi”. Anh thư sinh nghĩ, một người nghèo chèo đò bên sông thì có gì cao siêu, nên anh ta gật đầu chấp nhận. Cô lái đò ra câu đối:</p><p></p><p><em><strong>Hỏa tại thạch trung, trầm tích thủy thiên niên bất tuyệt.</strong></em></p><p></p><p>Có nghĩa là, lửa ở trong đá, nhấn chìm xuống dưới nước cả ngàn năm sau cũng không bao giờ mất. Khi cầm hai viên đá ma sát mạnh với nhau thì có lửa. Bây giờ chọi cục đá đó chìm xuống đáy biển một ngàn năm sau cầm lên ma sát thì vẫn có lửa, lửa đó vẫn không mất. Thấy cô gái có vẻ quê mùa mà đưa ra vế đối quá siêu xuất, chặt chẽ, anh thư sinh không thể nghĩ ra câu nào để đối lại. Buồn cho sở học bao lâu của mình không đủ để đối lại câu đối của một cô gái nhà quê. Sau khi trả tiền gấp đôi, anh ta đã nhảy xuống sông tự tử. Do không nghĩ ra được vế đối, ôm ấp nổi khắc khoải, buồn bã mà chết nên hóa thànhhồn ma bên bờ sông, đêm đêm hiện lên lầm nhầm đọc câu đối cô gái. Lần nọ, có vị Thiền sư hành cước đi ngang qua đây nghe mọi người kể câu chuyện như vậy nên đêm đó Ngài quyết định ở lại bên bờ sông. Đêm đến, hồn ma xuất hiện lầm nhầm câu đối:</p><p></p><p><strong><em>Hỏa tại thạch trung, trầm tích thủy thiên niên bất tuyệt.</em></strong></p><p></p><p>Liền khi ấy Thiền sư đối lại:</p><p></p><p><strong><em>Nguyệt tại thiên không, chiếu nhân gian vạn cổ trường tồn.</em></strong></p><p></p><p>Có nghĩa là, trăng ở trên trời, soi rọi thế gian không bao giờ mất. Nghe được câu đối xuất sắc, tương xứng, lòng thư sinh phấn khởi, liền được siêu thoát. Từ đó, mọi người quanh vùng không còn thấy bóng ma xuất hiện nữa.</p><p></p><p>Vậy thì ai đã trói cột anh chàng thư sinh đó không thoát được mà phải làm bóng ma bên bờ sông? Là một ý tưởng. Vì cho đó là một ý tưởng cao thượng, câu đối quá hay cho nên đã bị buộc vào đó, muốn đối lại cho bằng được. Không đối được thì buồn tức và chết, ôm theo ý tưởng đó để phải làm hồn ma không siêu thoát nỗi. Nhờ vị thiền sư nói cho một câu đối lại, thấy xứng ý, trong lòng thỏa mãn cho nên mới siêu thoát. Sự trói buộc ở đây không phải là vật chất mà là một lý tưởng. Và khi cái tâm tưởng đeo đuổi kia không còn nữa thì được giải thoát.</p><p></p><p>Nhìn lại, nhà cửa chúng ta cũng bị trói, quan hệ bạn bè mình cũng bị trói, vật chất mình cũng bị trói, có người không màng đến vật chất, sống theo lý tưởng cũng bị trói… Như vậy, chúng ta đang sống trong một cái vòng bị trói một cách chằng chịt. Hễ một điều gì chúng ta sanh tâm vừa lòng, thích ý thì liền bị trói. Đó là chúng ta đã thấy những cái vừa lòng thích ý nó trói mình, còn những điều trái ý nghịch lòng nó có trói chúng ta không?</p><p></p><p><strong>II/ ĐIỀU NGHỊCH TRÓI BUỘC.</strong></p><p></p><p>Xưa kia, vua A Dục là một người có công rất lớn đối với Phật giáo. Công việc lợi ích của ông đối với Phật pháp không thể kể hết. Một trong những công việc quan trọng là Vua đã tạo điều kiện và khuyến khích chư tăng ra ngoài nước Ấn Độ để hoằng hóa đạo, giảng dạy Phật pháp. Sau này, khi Phật giáo tại Ấn Độ gần như bị diệt vong thì chính những vị tăng này đã trở về phục hưng lại. Mới một khía cạnh như thế thôi đã thấy công lao của vua đối với Phật giáo quan trọng và lớn lao như thế nào. Thế mà khi lâm bệnh, vị quanhầu cận dâng bát cháo không đúng cách, làm trái ý mình nên vua nổi giận và băng hà. Do ôm lòng tức giận nên thần thức đã nhập vào con rắn độc nằm ngay khe cửa, chờ ông quan đó đi ngang qua cắn lại để trả thù cho hả dạ. Có một thầy Tỳ kheo trước đây là thái tử con vua A Dục đã chứng A la hán có thần thôngnên nhìn thấy, biết con rắn ở khe cửa đó chính là thần thức của cha mình. Vị Tỳ kheo này đến bên con rắn và nhắc lại những việc tốt lúc sinh tiền vua cha đã làm: “Bệ hạ còn nhớ không? Hằng ngày bệ hạ xây dựngrất nhiều trụ đá ở nhiều nơi trên thế giới để đánh dấu nơi Phật pháp được truyền đến cho mọi người biết. Bệ hạ đã khuyến khích những vị Tỳ kheo đi giáo hóa nước ngoài, bây giờ quay trở về phục hưng nên Phật giáo Ấn Độ mới còn tồn tại…”. Khi nghe kể như vậy thì thần thức vua nhớ lại những việc lành cả đời mình đã làm nên trong lòng phấn khởi, vui mừng, quên giận, thần thức thanh thoát. Con rắn đã tự nhịn ăn rồi chết, thần thức sanh lên cõi trời.</p><p></p><p>Cả đời làm lành, khi lâm chung lẽ ra phải sanh lên cõi lành. Nhưng vua A Dục thì thác sanh vào thân rắn. Vì sao như vậy? Ai đã buộc vua A Dục không sanh vào được cõi lành? Do một hành động trái ý nghịch lòng khiến vua nổi giận và bị trói buộc phải làm thân rắn độc hôi hám. Nghe qua chữ trói thấy như tầm thường, nhưng nó có thể khiến cho con người mấy chục ký này phải đi theo nó không thể cưỡng lại. Cứ nghĩ cả đời làm lành, lúc chết chắc chắn sẽ được sanh vào đường lành. Nhưng nếu quên tu, không có tỉnh lực, quen chìu theo lòng tham sân khiến nó trở thành sức mạnh. Khi sắp lâm chung, chỉ thoáng một việc trái ý nghịch lòng, sân tâm sôi sục trỗi dậy và đưa chúng ta đi vào các đường xấu ác, phải chịu rất nhiều đau khổ. May mắn cho vua A Dục có vị Tỳ kheo chứng A la hán cứu cho. Nếu không thì làm thân con rắn tạo nghiệp lộn đi lộn lại mãi trong đó để chịu khổ, biết khi nào mới thoát ra được! Mới thấy, những thứ nghịch ý trái lòng trói mình cũng không phải là ít.</p><p></p><p>Xưa kia về đời Đường dưới triều vua Ý tông, có ngài Ngộ Đạt Quốc sư pháp danh Tri Huyền. Khi chưa làm quốc sư, tình cờ ngài gặp một vị tăng nhân bị bệnh cùi, ai cũng gớm, chỉ có Ngài Tri Huyền luôn gần gũi chăm sóc, chưa có một vẻ nhờm gớm bao giờ. Vì vậy khi chia tay, vị tăng cảm cái nghĩa đó nên nói: “Sau này Ngài sẽ bị nạn, nếu cần thì tìm nhau tại núi Trà Lũng, huyện Bành Thành thuộc đất Tây Thục, nơi có hai cây tùng làm dấu”. Theo thời gian, ngài Ngộ Đạt lớn dần lên và rất tài giỏi, được vua mời làm quốc sư. Vua rất kính trọng nên ban cho ngài tòa ngồi làm bằng trầm hương. Bước lên tòa, ngài Ngộ Đạt phấn khởi sanh tâm hãnh diện về chỗ ngồi của mình thì tự nhiên đầu gối ngài nổi lên một cái mụt ghẻ mặt người hành hạ đau đớn dữ dội. Các danh y được vua mời đến nhưng đều bó tay, không có cách gì trị được. Hằng ngày phải đút thịt cho nó ăn thì mới đỡ bớt đau nhứt. Ngài nhớ lại và tin lời hẹn trước nên tìm đến chỗ hai cây tùng. Đến nơi thì trời cũng vừa sụp tối, vị tăng ngày trước đã đợi sẵn, bước ra chào và bảo rằng: “Không cần kể gì cả, ta biết hết mọi chuyện rồi. Vào đây nghỉ, sáng mai xuống dưới núi có dòng suối, lấy nước từ bi tam muội rửa sạch vết thương thì sẽ hết”. Sáng hôm sau, vị tăng sai chú tiểu đồng dẫn xuống suối. Khi Ngài Ngộ Đạt vừa toan lấy tay vốc nước để rửa thì cái mụt ghẻ mặt người nói: “Khoan rửa đã! Ngài là người học nhiều hiểu rộng, vậy ngài đã đọc chuyện Viên Án và Triệu Thố trong Tây Hán chưa?” Ngài nói: “Đọc rồi”. Mụt ghẻ nói: “Đọc rồi mà ngài không biết sao? Viên Án chính là Ngài và Triệu Thố chính là tôi đây. (Viên Án làm quan chém oan Triệu Thố). Triệu Thố bị chém ngang lưng tại chợ phía đông, oan ức đến mức nào. Tôi mười đời đi theo tìm cách báo hại, nhưng do mười đời Ngài là vị cao tăngđạo cao đức trọng, tu hành nghiêm chỉnh nên tôi không thể báo được. Ngày hôm nay, nhân khi ngồi lên tòa trầm hương, ngài vừa khởi tâm cao ngạo, ngã mạn thì cái đức có phần thương tổn cho nên tôi mới có cơ hội để báo lại Ngài. Hôm nay, mọi chuyện đã rõ, ngài nguyện tu hành tôi cũng nguyện tu hành, xin lấy nước từ bi tam muội để rửa sạch oan khiên nhiều đời. Từ nay trở đi, tôi không còn oán hại Ngài nữa”. Nghe xong, ngài Ngộ Đạt bàng hoàng vốc nước lên rửa, đau đến tận xương, ngất đi hồi lâu mới tỉnh, nhìn lại thì mụt ghẻ không còn. Định lên cảm tạ vị tăng, nhưng nhìn lại thì cảnh và người đều không còn nữa. Hỏi chú đồng tử mới biết vị tăng đó chính là Tôn giả Ca Nặc Ca, một vị Thánh tăng. Nói xong thì đồng tử cũng biến mất.</p><p></p><p>Như vậy, ai đã buộc ông Triệu Thố mười đời phải đi theo ngài Ngộ Đạt mà không thoát được? Đó là niệm phẫn uất, tức giận, là cái nghĩ cho rằng quan Viên Án làm mình oan ức quá, phải đi theo trả thù cho bằng được mới hả dạ. Chúng ta vẫn thường nghe những người khi sân hận nói: “Chọc vậy mà không giận sao được? Tôi phải trả thù cho hả dạ”. Nghe qua thì như là có lý, nhưng đó là đã theo cái sân hận và bị nó trói cột mình rồi. Một người bị cột như vậy và người khác không thèm chấp, không vướn bận thì ai sướng hơn? Gặp cảnh oan ức chúng ta nổi sân có khi thấy như là hợp lý, nhưng ôm lòng sân này lâu ngày thành thói quen, nuôi lớn nó để rồi chúng ta phải bị nó trói cột, chịu khổ đau, thật là oan uổng cho mình. Nếu cứ để tâm tưởng mình lờ mờ trôi qua thì khó nhận ra tai hại của lòng sân, nhưng khi ngồi lại soi xét cho thật kỹ thì mới thấy giựt mình.</p><p></p><p><strong>III/ TỰ MÌNH TRÓI BUỘC MÌNH.</strong></p><p></p><p>Khi gặp cảnh trái lòng, chúng ta vừa sanh tâm là bị trói buộc. Trong đời, cảnh trái ý nghịch lòng đó nó có quyền đến với bất cứ người nào, nhưng nếu chúng ta vừa sanh tâm tức tối, dính mắc thì liền bị trói. Nếu việc đáng giận mà mình không giận thì không ai trói mình được hết. Như vậy cái tâm oán hận đó nó nằm ở nơi chính mình, do mình. Ra chợ, thấy giỏ hoa đẹp, thích quá và bị trói. Cũng là do mình, nơi mình. Không có giỏ hoa nào tự nói tôi đẹp lắm, cô mua về để chưng cả, mà do mình khởi tâm dính mắc cho nên mới bị trói buộc. Mọi thứ có quyền đến với mình bất cứ lúc nào, nhưng nếu không để ý thì đâu có gì trói buộcđược! Như vậy, cái tâm oán hận cũng từ nơi mình, cái tâm ưa thích dính mắc cũng từ nơi mình. Cuối cùng, không ai khác mà chính mình tự trói buộc mình. Nhưng lâu nay con người chúng ta ít có ai chịu chấp nhận sự thật này mà luôn tìm cách đổ thừa cho một người hay hoàn cảnh nào đó. Tại anh đó làm tôi giận chứ tôi đâu có đến nỗi tệ. Có người khuyên, thôi, mình tu thì phải nhịn bớt, liền đáp: “Anh nghĩ coi, cũng vừa phải thôi chứ nhịn quá mức ai mà chịu nổi?” Do chưa biết sự nguy hiểm của cái giận nên mới thấy giận là phải. Nếu đã ý thức được sự tai hại của nó thì chúng ta sẽ không bao giờ dám sân giận. Người xưa nói: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”, một niệm sân vừa dấy khởi thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng mở ra. Hoặc là “Một đốm lửa sân, thiêu rụi cả rừng công đức”. Trường hợp của vua A Dụclà một bài học cho mình. Chỉ một chút sân tâm thôi mà đã trói cột mình đi làm rắn độc hôi hám, tạo nghiệp đọa lạc và phải chịu khổ mãi biết khi nào mới thoát ra? Nghiệm lại để thấy cho tường tận thì mới sợ cho cái tâm sân giận của mình, mới thoát ly được.</p><p></p><p>Như vậy, việc mình tự trói mình quý vị thấy đã có lý. Nhưng xét lại cũng thấy rất là vô lý, tại sao mình lại trói mình? Trên đời này có ai muốn mình bị trói không? Không hề. Vậy thì tại sao mình lại đi trói buộc lấy mình? Phải phăng tận gốc rễ để giải quyết cái vô lý này chứ không thể chấp nhận như vậy được.</p><p></p><p>--------</p><p><a href="https://www.vnkienthuc.com" target="_blank">www.vnkienthuc.com</a> <a href="https://www.vnkienthuc.com" target="_blank">www.vnkienthuc.com</a> <a href="https://www.baoboi.vn" target="_blank">www.baoboi.vn</a></p><p><a href="https://www.songohan.vn" target="_blank">www.songohan.vn</a> <a href="https://www.muatet.vn" target="_blank">www.muatet.vn</a></p><p>Diễn Đàn Lập Nghiệp</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Hide Nguyễn, post: 174264, member: 6"] TRÓI BUỘC VÀ GIẢI THOÁT Thích Tâm Hạnh [B]A/ DẪN NHẬP.[/B] [URL='https://thuvienhoasen.org/images/file/5NKAsD5g0QgBAMoG/troi-buoc-va-giai-thoat.jpg'][IMG]https://thuvienhoasen.org/images/file/5NKAsD5g0QgBAMoG/troi-buoc-va-giai-thoat.jpg[/IMG][/URL]Trải qua nhiều gian nan vất vả, lận đận lao đao khiến con người ta mất phương hướng sống, ngày càng thấy mình trở nên lạnh lẽo, cô đơn. Cuộc sống lẻ loi giữa trường đờinhư đang bị ngục tù vô hình của thế gian giam nhốt. Có vị Phật tử thấm thía những trắc trở cõi đời mình đã sống qua và viết nên thành thơ: [I][B]Hồn con lạnh buốt sương mù Đêm đêm trở giấc ngục tù thế gian.[/B][/I] Sống giữa dòng đời với rất nhiều người, với bao nhiêu thứ bận rộn, nhưng không biết tại sao lại cảm thấytâm hồn mình quạnh quẽ, lẻ loi, dường như không thể có người hiểu mình để cùng san sẻ bớt phần nào cho nhau vậy. Đêm đêm trở giấc, thoạt thức giấc ngủ thì cảm thấy mình như bị giam nhốt trong ngục tù thế gian. Đó là tâm trạng của người làm thơ và có lẽ cũng là tâm trạng của nhiều người đang sống trong cuộc đời còn nhiều gian khổ. Khi thấy cuộc sống ngoài thế gian quá rộn ràng, mệt mỏi, ai cũng đang bị nhiều thứ chung quanh ràng buộc nên có người đã tìm đến chùa học đạo, tu tập để mong cởi bớt ra những thứ trói buộc kia, trong nhà Phật gọi là giải thoát. Gần là để giải thoát bớt những ràng buộc của thế gian, dần dần tu tập cao hơn thì được giải thoát rốt ráo. Giải thoát có nghĩa là cởi trói ra. Ví như tay mình đang bị cột gọi là bị trói buộc, và khi được mở ra thì gọi là giải thoát. Như vậy, khi muốn cầu giải thoát có nghĩa là chúng tađang bị trói buộc. Vậy ai trói mình? Tại sao mình bị trói? Chúng ta cùng phăng tìm ra manh mối cho tường tận, rõ ràng thì việc thực hành của mình mới có kết quả thiết thực. Vì vậy hôm nay trao đổi cùng quý vị đề tài “Trói buộc và giải thoát”. [B]B/ AI TRÓI BUỘC MÌNH?[/B] Nhìn lại xem, có vị nào cảm thấy mình hoàn toàn không bị bất cứ một cái gì trói buộc không? Ai cũng bị trói hết. Vậy cái gì trói chúng ta? Đúng ra hôm nay tan sở, đi làm về là mình đã có chương trình riêng ở nhà rồi. Thình lình không biết từ đâu ông Thầy tới Chùa Hoa Nghiêm khiến mình phải lên đây. Ngồi nghe nói chuyện đây thì chắc quý vị cũng hoan hỷ, nhưng giả sử nhỡ ở nhà có chuyện chi đó gọi điện thoại lên thì trong lòng mình không dễ được yên tâm, ít nhất cũng có lo một chút. Ngay niệm lo lắng đó thì biết là mình đã bị cái nhà nó cột trói rồi. Nếu không bị nó cột thì đâu có gì phải lo âu? Cho đến các mối quan hệ chung quanh như vợ chồng, cha mẹ, anh em ràng rịt lẫn nhau. Thêm nữa, trong cuộc sống vì kế sinh nhai bắt buộc mình phải lo lắng. Cuối tháng lỡ không có tiền trả hóa đơn thì chúng ta đã lo lắng ăn không ngon ngủ không yên, từ đó bị nhiều thứ nó trói mình chằn chịt không tả nổi: [I][B]Ngược xuôi mấy dặm thương trường Cuộc vui tao ngộ cuộc vương đọa đày. Áo đời mấy lượt sờn vai, Con còn đếm bước tháng ngày lao đao.[/B][/I] Thương trường là nơi làm ăn. Chúng ta đôn đáo chạy ngược chạy xuôi trong đó để tranh đấu kiếm tiền sinh sống. Bao nhiêu quan hệ, gặp gỡ… có khi tưởng chừng như vui, nhưng do mỗi người chưa làm chủ chính mình cho nên sẽ đến lúc vướng víu, rắc rối rồi phải vương khổ đọa đày. Lúc này mới biết mình đã bị trói buộc thì quá muộn, đã bị khổ rồi. Tỉnh táo một chút để nhìn lại thì thấy sự trói buộc nó đang diễn ra ngay từng sự tiếp xúc, từng quan niệm hằng ngày. [B]I/ ĐIỀU THUẬN TRÓI BUỘC.[/B] [B]1/ VẬT CHẤT TRÓI BUỘC.[/B] Khi đi làm về trễ, thấy nhà cửa lộn xộn thì trong lòng không vui. Ngược lại, hôm nào về thấy nhà cửa sạch sẽ, con cái lịch sự dâng nước, lấy khăn cho mình lau mặt thì cảm thấy hài lòng, dễ chịu. Như vậy là đã bị dính mắc, trói buộc, mới thấy tâm mình rất vi tế. Chỉ cần có một niệm hài lòng, ngay đó đã bị nó trói cột rồi. Cho nên trong cuộc sống hằng ngày, khi vừa cảm thấy thích ý hay hài lòng về một cái gì đó thì coi chừng, ngay đó đã bị trói. Một khi bị trói rồi thì nó khiển đi đâu mình phải theo đấy, không làm chủ được. [B]2/ Ý TƯỞNG TRÓI BUỘC.[/B] Ở một góc độ khác, trong cuộc sống, có nhiều người có vẻ như không màng tới vật chất, tiền bạc hay các quan hệ chung quanh mà họ chỉ sống theo một ý tưởng của riêng của họ. Người thích sống với lý tưởngnhư thế xem ra dường như không bị vật chất thế gian chi phối, thấy như là thanh thoát, nhưng chính họ có bị cái gì trói buộc không? Thời xưa có anh chàng thư sinh khi học hết chữ của thầy rồi lên đường đi thi. Trên đường đi qua một dòng sông, gặp cô lái đò thì anh ta có ý chọc ghẹo. Cô lái đò nghiêm túc nói: “Tôi có một câu đối, nếu anh đối được thì tôi nguyện đi theo nâng khăn xách túi, còn không đối được thì xin trả tiền đò gấp đôi”. Anh thư sinh nghĩ, một người nghèo chèo đò bên sông thì có gì cao siêu, nên anh ta gật đầu chấp nhận. Cô lái đò ra câu đối: [I][B]Hỏa tại thạch trung, trầm tích thủy thiên niên bất tuyệt.[/B][/I] Có nghĩa là, lửa ở trong đá, nhấn chìm xuống dưới nước cả ngàn năm sau cũng không bao giờ mất. Khi cầm hai viên đá ma sát mạnh với nhau thì có lửa. Bây giờ chọi cục đá đó chìm xuống đáy biển một ngàn năm sau cầm lên ma sát thì vẫn có lửa, lửa đó vẫn không mất. Thấy cô gái có vẻ quê mùa mà đưa ra vế đối quá siêu xuất, chặt chẽ, anh thư sinh không thể nghĩ ra câu nào để đối lại. Buồn cho sở học bao lâu của mình không đủ để đối lại câu đối của một cô gái nhà quê. Sau khi trả tiền gấp đôi, anh ta đã nhảy xuống sông tự tử. Do không nghĩ ra được vế đối, ôm ấp nổi khắc khoải, buồn bã mà chết nên hóa thànhhồn ma bên bờ sông, đêm đêm hiện lên lầm nhầm đọc câu đối cô gái. Lần nọ, có vị Thiền sư hành cước đi ngang qua đây nghe mọi người kể câu chuyện như vậy nên đêm đó Ngài quyết định ở lại bên bờ sông. Đêm đến, hồn ma xuất hiện lầm nhầm câu đối: [B][I]Hỏa tại thạch trung, trầm tích thủy thiên niên bất tuyệt.[/I][/B] Liền khi ấy Thiền sư đối lại: [B][I]Nguyệt tại thiên không, chiếu nhân gian vạn cổ trường tồn.[/I][/B] Có nghĩa là, trăng ở trên trời, soi rọi thế gian không bao giờ mất. Nghe được câu đối xuất sắc, tương xứng, lòng thư sinh phấn khởi, liền được siêu thoát. Từ đó, mọi người quanh vùng không còn thấy bóng ma xuất hiện nữa. Vậy thì ai đã trói cột anh chàng thư sinh đó không thoát được mà phải làm bóng ma bên bờ sông? Là một ý tưởng. Vì cho đó là một ý tưởng cao thượng, câu đối quá hay cho nên đã bị buộc vào đó, muốn đối lại cho bằng được. Không đối được thì buồn tức và chết, ôm theo ý tưởng đó để phải làm hồn ma không siêu thoát nỗi. Nhờ vị thiền sư nói cho một câu đối lại, thấy xứng ý, trong lòng thỏa mãn cho nên mới siêu thoát. Sự trói buộc ở đây không phải là vật chất mà là một lý tưởng. Và khi cái tâm tưởng đeo đuổi kia không còn nữa thì được giải thoát. Nhìn lại, nhà cửa chúng ta cũng bị trói, quan hệ bạn bè mình cũng bị trói, vật chất mình cũng bị trói, có người không màng đến vật chất, sống theo lý tưởng cũng bị trói… Như vậy, chúng ta đang sống trong một cái vòng bị trói một cách chằng chịt. Hễ một điều gì chúng ta sanh tâm vừa lòng, thích ý thì liền bị trói. Đó là chúng ta đã thấy những cái vừa lòng thích ý nó trói mình, còn những điều trái ý nghịch lòng nó có trói chúng ta không? [B]II/ ĐIỀU NGHỊCH TRÓI BUỘC.[/B] Xưa kia, vua A Dục là một người có công rất lớn đối với Phật giáo. Công việc lợi ích của ông đối với Phật pháp không thể kể hết. Một trong những công việc quan trọng là Vua đã tạo điều kiện và khuyến khích chư tăng ra ngoài nước Ấn Độ để hoằng hóa đạo, giảng dạy Phật pháp. Sau này, khi Phật giáo tại Ấn Độ gần như bị diệt vong thì chính những vị tăng này đã trở về phục hưng lại. Mới một khía cạnh như thế thôi đã thấy công lao của vua đối với Phật giáo quan trọng và lớn lao như thế nào. Thế mà khi lâm bệnh, vị quanhầu cận dâng bát cháo không đúng cách, làm trái ý mình nên vua nổi giận và băng hà. Do ôm lòng tức giận nên thần thức đã nhập vào con rắn độc nằm ngay khe cửa, chờ ông quan đó đi ngang qua cắn lại để trả thù cho hả dạ. Có một thầy Tỳ kheo trước đây là thái tử con vua A Dục đã chứng A la hán có thần thôngnên nhìn thấy, biết con rắn ở khe cửa đó chính là thần thức của cha mình. Vị Tỳ kheo này đến bên con rắn và nhắc lại những việc tốt lúc sinh tiền vua cha đã làm: “Bệ hạ còn nhớ không? Hằng ngày bệ hạ xây dựngrất nhiều trụ đá ở nhiều nơi trên thế giới để đánh dấu nơi Phật pháp được truyền đến cho mọi người biết. Bệ hạ đã khuyến khích những vị Tỳ kheo đi giáo hóa nước ngoài, bây giờ quay trở về phục hưng nên Phật giáo Ấn Độ mới còn tồn tại…”. Khi nghe kể như vậy thì thần thức vua nhớ lại những việc lành cả đời mình đã làm nên trong lòng phấn khởi, vui mừng, quên giận, thần thức thanh thoát. Con rắn đã tự nhịn ăn rồi chết, thần thức sanh lên cõi trời. Cả đời làm lành, khi lâm chung lẽ ra phải sanh lên cõi lành. Nhưng vua A Dục thì thác sanh vào thân rắn. Vì sao như vậy? Ai đã buộc vua A Dục không sanh vào được cõi lành? Do một hành động trái ý nghịch lòng khiến vua nổi giận và bị trói buộc phải làm thân rắn độc hôi hám. Nghe qua chữ trói thấy như tầm thường, nhưng nó có thể khiến cho con người mấy chục ký này phải đi theo nó không thể cưỡng lại. Cứ nghĩ cả đời làm lành, lúc chết chắc chắn sẽ được sanh vào đường lành. Nhưng nếu quên tu, không có tỉnh lực, quen chìu theo lòng tham sân khiến nó trở thành sức mạnh. Khi sắp lâm chung, chỉ thoáng một việc trái ý nghịch lòng, sân tâm sôi sục trỗi dậy và đưa chúng ta đi vào các đường xấu ác, phải chịu rất nhiều đau khổ. May mắn cho vua A Dục có vị Tỳ kheo chứng A la hán cứu cho. Nếu không thì làm thân con rắn tạo nghiệp lộn đi lộn lại mãi trong đó để chịu khổ, biết khi nào mới thoát ra được! Mới thấy, những thứ nghịch ý trái lòng trói mình cũng không phải là ít. Xưa kia về đời Đường dưới triều vua Ý tông, có ngài Ngộ Đạt Quốc sư pháp danh Tri Huyền. Khi chưa làm quốc sư, tình cờ ngài gặp một vị tăng nhân bị bệnh cùi, ai cũng gớm, chỉ có Ngài Tri Huyền luôn gần gũi chăm sóc, chưa có một vẻ nhờm gớm bao giờ. Vì vậy khi chia tay, vị tăng cảm cái nghĩa đó nên nói: “Sau này Ngài sẽ bị nạn, nếu cần thì tìm nhau tại núi Trà Lũng, huyện Bành Thành thuộc đất Tây Thục, nơi có hai cây tùng làm dấu”. Theo thời gian, ngài Ngộ Đạt lớn dần lên và rất tài giỏi, được vua mời làm quốc sư. Vua rất kính trọng nên ban cho ngài tòa ngồi làm bằng trầm hương. Bước lên tòa, ngài Ngộ Đạt phấn khởi sanh tâm hãnh diện về chỗ ngồi của mình thì tự nhiên đầu gối ngài nổi lên một cái mụt ghẻ mặt người hành hạ đau đớn dữ dội. Các danh y được vua mời đến nhưng đều bó tay, không có cách gì trị được. Hằng ngày phải đút thịt cho nó ăn thì mới đỡ bớt đau nhứt. Ngài nhớ lại và tin lời hẹn trước nên tìm đến chỗ hai cây tùng. Đến nơi thì trời cũng vừa sụp tối, vị tăng ngày trước đã đợi sẵn, bước ra chào và bảo rằng: “Không cần kể gì cả, ta biết hết mọi chuyện rồi. Vào đây nghỉ, sáng mai xuống dưới núi có dòng suối, lấy nước từ bi tam muội rửa sạch vết thương thì sẽ hết”. Sáng hôm sau, vị tăng sai chú tiểu đồng dẫn xuống suối. Khi Ngài Ngộ Đạt vừa toan lấy tay vốc nước để rửa thì cái mụt ghẻ mặt người nói: “Khoan rửa đã! Ngài là người học nhiều hiểu rộng, vậy ngài đã đọc chuyện Viên Án và Triệu Thố trong Tây Hán chưa?” Ngài nói: “Đọc rồi”. Mụt ghẻ nói: “Đọc rồi mà ngài không biết sao? Viên Án chính là Ngài và Triệu Thố chính là tôi đây. (Viên Án làm quan chém oan Triệu Thố). Triệu Thố bị chém ngang lưng tại chợ phía đông, oan ức đến mức nào. Tôi mười đời đi theo tìm cách báo hại, nhưng do mười đời Ngài là vị cao tăngđạo cao đức trọng, tu hành nghiêm chỉnh nên tôi không thể báo được. Ngày hôm nay, nhân khi ngồi lên tòa trầm hương, ngài vừa khởi tâm cao ngạo, ngã mạn thì cái đức có phần thương tổn cho nên tôi mới có cơ hội để báo lại Ngài. Hôm nay, mọi chuyện đã rõ, ngài nguyện tu hành tôi cũng nguyện tu hành, xin lấy nước từ bi tam muội để rửa sạch oan khiên nhiều đời. Từ nay trở đi, tôi không còn oán hại Ngài nữa”. Nghe xong, ngài Ngộ Đạt bàng hoàng vốc nước lên rửa, đau đến tận xương, ngất đi hồi lâu mới tỉnh, nhìn lại thì mụt ghẻ không còn. Định lên cảm tạ vị tăng, nhưng nhìn lại thì cảnh và người đều không còn nữa. Hỏi chú đồng tử mới biết vị tăng đó chính là Tôn giả Ca Nặc Ca, một vị Thánh tăng. Nói xong thì đồng tử cũng biến mất. Như vậy, ai đã buộc ông Triệu Thố mười đời phải đi theo ngài Ngộ Đạt mà không thoát được? Đó là niệm phẫn uất, tức giận, là cái nghĩ cho rằng quan Viên Án làm mình oan ức quá, phải đi theo trả thù cho bằng được mới hả dạ. Chúng ta vẫn thường nghe những người khi sân hận nói: “Chọc vậy mà không giận sao được? Tôi phải trả thù cho hả dạ”. Nghe qua thì như là có lý, nhưng đó là đã theo cái sân hận và bị nó trói cột mình rồi. Một người bị cột như vậy và người khác không thèm chấp, không vướn bận thì ai sướng hơn? Gặp cảnh oan ức chúng ta nổi sân có khi thấy như là hợp lý, nhưng ôm lòng sân này lâu ngày thành thói quen, nuôi lớn nó để rồi chúng ta phải bị nó trói cột, chịu khổ đau, thật là oan uổng cho mình. Nếu cứ để tâm tưởng mình lờ mờ trôi qua thì khó nhận ra tai hại của lòng sân, nhưng khi ngồi lại soi xét cho thật kỹ thì mới thấy giựt mình. [B]III/ TỰ MÌNH TRÓI BUỘC MÌNH.[/B] Khi gặp cảnh trái lòng, chúng ta vừa sanh tâm là bị trói buộc. Trong đời, cảnh trái ý nghịch lòng đó nó có quyền đến với bất cứ người nào, nhưng nếu chúng ta vừa sanh tâm tức tối, dính mắc thì liền bị trói. Nếu việc đáng giận mà mình không giận thì không ai trói mình được hết. Như vậy cái tâm oán hận đó nó nằm ở nơi chính mình, do mình. Ra chợ, thấy giỏ hoa đẹp, thích quá và bị trói. Cũng là do mình, nơi mình. Không có giỏ hoa nào tự nói tôi đẹp lắm, cô mua về để chưng cả, mà do mình khởi tâm dính mắc cho nên mới bị trói buộc. Mọi thứ có quyền đến với mình bất cứ lúc nào, nhưng nếu không để ý thì đâu có gì trói buộcđược! Như vậy, cái tâm oán hận cũng từ nơi mình, cái tâm ưa thích dính mắc cũng từ nơi mình. Cuối cùng, không ai khác mà chính mình tự trói buộc mình. Nhưng lâu nay con người chúng ta ít có ai chịu chấp nhận sự thật này mà luôn tìm cách đổ thừa cho một người hay hoàn cảnh nào đó. Tại anh đó làm tôi giận chứ tôi đâu có đến nỗi tệ. Có người khuyên, thôi, mình tu thì phải nhịn bớt, liền đáp: “Anh nghĩ coi, cũng vừa phải thôi chứ nhịn quá mức ai mà chịu nổi?” Do chưa biết sự nguy hiểm của cái giận nên mới thấy giận là phải. Nếu đã ý thức được sự tai hại của nó thì chúng ta sẽ không bao giờ dám sân giận. Người xưa nói: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”, một niệm sân vừa dấy khởi thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng mở ra. Hoặc là “Một đốm lửa sân, thiêu rụi cả rừng công đức”. Trường hợp của vua A Dụclà một bài học cho mình. Chỉ một chút sân tâm thôi mà đã trói cột mình đi làm rắn độc hôi hám, tạo nghiệp đọa lạc và phải chịu khổ mãi biết khi nào mới thoát ra? Nghiệm lại để thấy cho tường tận thì mới sợ cho cái tâm sân giận của mình, mới thoát ly được. Như vậy, việc mình tự trói mình quý vị thấy đã có lý. Nhưng xét lại cũng thấy rất là vô lý, tại sao mình lại trói mình? Trên đời này có ai muốn mình bị trói không? Không hề. Vậy thì tại sao mình lại đi trói buộc lấy mình? Phải phăng tận gốc rễ để giải quyết cái vô lý này chứ không thể chấp nhận như vậy được. -------- [URL="https://www.vnkienthuc.com"]www.vnkienthuc.com[/URL] [URL="https://www.vnkienthuc.com"]www.vnkienthuc.com[/URL] [URL="https://www.baoboi.vn"]www.baoboi.vn[/URL] [URL="https://www.songohan.vn"]www.songohan.vn[/URL] [URL="https://www.muatet.vn"]www.muatet.vn[/URL] Diễn Đàn Lập Nghiệp [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Các Nền Văn minh Thế Giới
Văn hóa Phật giáo
Trói buộc từ đâu ?
Top