Trở về bản gốc thơ Nôm Hồ Xuân Hương (Nguyễn Khôi)
Cũng giống như "thơ Bút Tre" hiện nay,từ một type thơ "Bút Tre thật" dân gian đã sáng tác cả trăm, ngàn câu thơ "Bút Tre mới"...Thơ nôm Hồ Xuân Hương đi vào cuộc sống dân Việt Nam ta đã ngót 200 năm (bản in sớm nhất là "Xuân Hương di cảo" in năm 1914; các bản khắc ván"Xuân Hương thi tập" in năm 1921,in năm 1923;bản chép tay"Quốc Văn Tùng Ký" soạn vào thời Tự Đức đến đầu Duy Tân;các bản chép tay"Xuân Hương thi sao","tạp thảo tập","Quế Sơn thi tập","Xuân Hương thi vịnh","Liệt truyện thi ngâm" và "Lĩnh Nam quần hiền văn thi văn diễn âm tập").Vậy bài nào là chính gốc thơ Hồ Xuân Hương trong số 213 bài đang được lưu hành khá rộng rãi?
Sau hơn 40 năm âm thầm.ấp ủ,nghiền ngẫm...Giáo sư Tiến sĩ Kiều Thu Hoạch (Người cùng quê xứ Đoài với Phó bảng Kiều Oánh Mậu - người có công lớn trong việc hiệu đính truyện Kiều) - một chuyên gia hàng đầu về chữ Nôm, qua nhà xuất bản văn học, ông đã công bố cuốn"Thơ Nôm Hồ Xuân Hương" với 84 bài thơ,câu đối.Có thể nói: cuốn sách là một công trình khoa học hoàn chỉnh, đầy đủ,đúng chuẩn nhất về văn bản,dịch nghĩa,dịch thơ,khảo cứu,chú giải,chú thích,chữ Nôm,đáp ứng lòng ái mộ của tất cả bạn đọc yêu quý những bài thơ bất hủ của Bà chúa thơ Nôm Việt Nam.
Tiếp cận thơ Nôm từ góc nhìn văn bản học,cuốn sách của Kiều Thu Hoạch,chí ít cũng cho chúng ta 3 thông tin rất có giá trị:
- Một là: thời điểm xuất hiện"Xuân Hương thi tập" là thời Vua Minh Mạng (1820-1840)
-Hai là,lúc bấy giờ Hồ Xuân Hương đã nổi tiếng hay thơ Nôm.
-Ba là, lúc bấy giờ Xuân Hương vẫn còn trẻ,còn được người đời (qua văn bản) gọi bằng "cô".
Qua các văn bản chữ Nôm xưa,Kiều Thu Hoạch đã loại trừ được một số bài thơ bị gán cho Nữ Sỹ như các bài:"Đánh cờ người","tát nước","cái nợ chồng con","đánh đu","bà đanh","đồng tiền hoẻn","ông cử võ"...
Xin giới thiệu một số bài thơ Nôm Hồ Xuân Hương (bản gốc) để bạn đọc cùng thưởng thức:
1.VỊNH THĂNG LONG HOÀI CỔ
Ngân ngất tầng mây một dải cờ
Kinh thành ngày trước,tỉnh bây giờ
Tượng đồng Trấn Vũ hương còn ngát
Bia đá Khuê Văn chữ chửa mờ
Bảo Tháp lơ thơ chòm cỏ mới
Hồ sông lai láng bóng trăng xưa
Nào ai Cố lão ra đây hỏi
Chốn cũ phồn hoa đã phải chưa?
2. CHƠI KHÁN ĐÀI
Êm ái chiều xuân tới khán đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Bốn mùa triêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào là cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây chín rõ mười.
3. CANH KHUYA
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan mấy nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy chòm
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình son trẻ tí con con.
4. LẤY CHỒNG CHUNG
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong.
5. KHÔNG CHỒNG MÀ CHỬA
Cả nể cho nên hóa dở dang
Sự này có thấu hỡi chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao mà nảy nét ngang
Cái tội trăm năm chàng chịu cả
Chữ tình một khối thiếp xin mang
Quản chi miệng thế lời chênh lệch
Chẳng thế nhưng mà thế mấy ngoan.
6.THƠ THỊ ĐỂU
Kén chọn làm chi thế ối anh
Lấy ai khuynh quốc lại khuynh thành
Vô duyên nên nỗi người chê "đểu" (1)
Có đẹp chăng thời gái ở tranh
Ghét mặt cục vàng ra cục đất
Tắt đèn nhà ngói bẵng nhà gianh
Thay lời mượn bút đem thư gửi
Nghĩ lại sao cho để được đành
------------------------------
(1) nguyên văn chữ Nôm là "điểu" là chim,có dấu cá nháy - theo tự điển Việt Pháp và Việt Nam tự điển (1931) thì "đểu" có nghĩa là hạng người hèn mạt / mạt hạng.
7. CHI CHI CHUYỆN ẤY
Chi chi chuyện ấy đã đành lòng
Vó ký phen này quyết thẳng rong
Non nước chơi hoài non nước đó
Gió giăng nào phải gió giăng không
Mặt càng đối mặt tình ngao ngán
Tay chửa rời tay bước ngại ngùng
Lão Nguyệt lẽ nào trêu quải mãi
Chén đồng xin hẹn khắc đêm đông.
8. NÚI BA ĐÈO
Một đèo một đèo lại một đèo
Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo
Cửa son tía ngắt lơ thơ móc
Đường đá xanh rì lún phún rêu
Phưởng phất chồi thông cơn gió tốc
Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương reo
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo.
9.MIẾU SẦM THÁI THÚ
Ghé mắt trông lên thấy bảng treo
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
10.KHÓC TỔNG CÓC
Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
11.KHÓC QUAN VĨNH TƯỜNG
Trăm năm Quan Phủ Vĩnh Tường ôi
Cái nợ phù sinh có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Nắm xương dưới đất chau mày khóc
Hòn máu trên tay mỉm miệng cười
Đã thế thời thôi cho mát mẻ
Trăm năm Quan Phủ Vĩnh Tường ôi.
12.TIỄN NGƯỜI LÀM THƠ
Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền
Cũng đòi học nói nói không nên
Ai về nhắn nhủ phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
13.VỊNH QUẢ CHUÔNG
Năm ba thằng ngọng đứng xem chuông
Nó bảo nhau rằng ấy ái uông.
14.CHƠI HOA
Đã chót chơi hoa phải cố trèo
Trèo lên trèo xuống mỏi xương kheo
Cành la cành bổng vin co vít
Bông chín bông xanh để lộn phèo.
15.VÔ ÂM NỮ (1)
(Gái không âm hộ)
Mười hai bà mụ ghét chi nhau
Đem cái xuân tình cắm ở đâu
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Nào ai biết được vông hay chóc
Nọ kẻ chia ra cuống mấy đầu
Thôi thế thời thôi thôi cũng rảnh
Trăm năm càng khỏi tiếng làm dâu.
------------------------------------
(1):Các bản khác ghi là "Quan thị"
16. NGÃ TỐC VÁY LÀM THƠ TỰ VỊNH
Vén đám mây lên tỏ mặt trời
Lác coi từng đám rõ từng nơi
Giang sơn đâu đó nhô đầu dậy
Hoa cỏ quen hơi mỉm miệng cười.
17.BÙN BẮN LÊN ĐỒ
Xuân Hương đi đường lội,bùn bắn lên đến "đồ",tức cảnh vịnh:
Nê ninh thượng thức cao thâm xứ
Mạc quải anh hùng lưỡng thủ mô
(Bùn kia còn biết nơi cao thẳm
Chẳng trách anh hùng thích mó tay).
18. ĐI ĐÁI BÙN NẨY
Quân tử anh hùng đâu vắng tá
Để cho nê thổ nảy chơi xuân.
19.XƯỚNG HỌA VỚI QUAN TẾ TỬU HỌ PHẠM
(Bài 2)
---------------
Xuân Hương xướng:
Kìa ai tỉnh,kìa ai say
Kìa ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Khoan khoan xin hãy dừng tay lại
Chớ mó hang hùm nữa mất tay.
Họ Phạm (Chiêu Hổ) họa lại :
Nào ai tỉnh nào ai say
Nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Ví dầu hang chẳng cho ai mó
Sao có hùm con bỗng trốc tay.
20.Câu đối CHƠI ĐÈO NGANG
- Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hòn ngược để đơm người đế bá;
- Trách con tạo lừa cơ tem hẻm,chuốt núi xuôi cho lọt khách cổ kim.
Thật vui,"cái gì của Xuân Hương trả lại cho Xuân Hương" - Giáo sư Tiến sỹ Kiều Thu Hoạch đã dành trên 40 năm trời để Làm ĐƯỢC cái công việc có giá trị đích thực này - thật là đáng kính trọng.
Sau hơn 40 năm âm thầm.ấp ủ,nghiền ngẫm...Giáo sư Tiến sĩ Kiều Thu Hoạch (Người cùng quê xứ Đoài với Phó bảng Kiều Oánh Mậu - người có công lớn trong việc hiệu đính truyện Kiều) - một chuyên gia hàng đầu về chữ Nôm, qua nhà xuất bản văn học, ông đã công bố cuốn"Thơ Nôm Hồ Xuân Hương" với 84 bài thơ,câu đối.Có thể nói: cuốn sách là một công trình khoa học hoàn chỉnh, đầy đủ,đúng chuẩn nhất về văn bản,dịch nghĩa,dịch thơ,khảo cứu,chú giải,chú thích,chữ Nôm,đáp ứng lòng ái mộ của tất cả bạn đọc yêu quý những bài thơ bất hủ của Bà chúa thơ Nôm Việt Nam.
Tiếp cận thơ Nôm từ góc nhìn văn bản học,cuốn sách của Kiều Thu Hoạch,chí ít cũng cho chúng ta 3 thông tin rất có giá trị:
- Một là: thời điểm xuất hiện"Xuân Hương thi tập" là thời Vua Minh Mạng (1820-1840)
-Hai là,lúc bấy giờ Hồ Xuân Hương đã nổi tiếng hay thơ Nôm.
-Ba là, lúc bấy giờ Xuân Hương vẫn còn trẻ,còn được người đời (qua văn bản) gọi bằng "cô".
Qua các văn bản chữ Nôm xưa,Kiều Thu Hoạch đã loại trừ được một số bài thơ bị gán cho Nữ Sỹ như các bài:"Đánh cờ người","tát nước","cái nợ chồng con","đánh đu","bà đanh","đồng tiền hoẻn","ông cử võ"...
Xin giới thiệu một số bài thơ Nôm Hồ Xuân Hương (bản gốc) để bạn đọc cùng thưởng thức:
1.VỊNH THĂNG LONG HOÀI CỔ
Ngân ngất tầng mây một dải cờ
Kinh thành ngày trước,tỉnh bây giờ
Tượng đồng Trấn Vũ hương còn ngát
Bia đá Khuê Văn chữ chửa mờ
Bảo Tháp lơ thơ chòm cỏ mới
Hồ sông lai láng bóng trăng xưa
Nào ai Cố lão ra đây hỏi
Chốn cũ phồn hoa đã phải chưa?
2. CHƠI KHÁN ĐÀI
Êm ái chiều xuân tới khán đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Bốn mùa triêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào là cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây chín rõ mười.
3. CANH KHUYA
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan mấy nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy chòm
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình son trẻ tí con con.
4. LẤY CHỒNG CHUNG
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong.
5. KHÔNG CHỒNG MÀ CHỬA
Cả nể cho nên hóa dở dang
Sự này có thấu hỡi chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao mà nảy nét ngang
Cái tội trăm năm chàng chịu cả
Chữ tình một khối thiếp xin mang
Quản chi miệng thế lời chênh lệch
Chẳng thế nhưng mà thế mấy ngoan.
6.THƠ THỊ ĐỂU
Kén chọn làm chi thế ối anh
Lấy ai khuynh quốc lại khuynh thành
Vô duyên nên nỗi người chê "đểu" (1)
Có đẹp chăng thời gái ở tranh
Ghét mặt cục vàng ra cục đất
Tắt đèn nhà ngói bẵng nhà gianh
Thay lời mượn bút đem thư gửi
Nghĩ lại sao cho để được đành
------------------------------
(1) nguyên văn chữ Nôm là "điểu" là chim,có dấu cá nháy - theo tự điển Việt Pháp và Việt Nam tự điển (1931) thì "đểu" có nghĩa là hạng người hèn mạt / mạt hạng.
7. CHI CHI CHUYỆN ẤY
Chi chi chuyện ấy đã đành lòng
Vó ký phen này quyết thẳng rong
Non nước chơi hoài non nước đó
Gió giăng nào phải gió giăng không
Mặt càng đối mặt tình ngao ngán
Tay chửa rời tay bước ngại ngùng
Lão Nguyệt lẽ nào trêu quải mãi
Chén đồng xin hẹn khắc đêm đông.
8. NÚI BA ĐÈO
Một đèo một đèo lại một đèo
Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo
Cửa son tía ngắt lơ thơ móc
Đường đá xanh rì lún phún rêu
Phưởng phất chồi thông cơn gió tốc
Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương reo
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo.
9.MIẾU SẦM THÁI THÚ
Ghé mắt trông lên thấy bảng treo
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
10.KHÓC TỔNG CÓC
Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
11.KHÓC QUAN VĨNH TƯỜNG
Trăm năm Quan Phủ Vĩnh Tường ôi
Cái nợ phù sinh có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Nắm xương dưới đất chau mày khóc
Hòn máu trên tay mỉm miệng cười
Đã thế thời thôi cho mát mẻ
Trăm năm Quan Phủ Vĩnh Tường ôi.
12.TIỄN NGƯỜI LÀM THƠ
Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền
Cũng đòi học nói nói không nên
Ai về nhắn nhủ phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
13.VỊNH QUẢ CHUÔNG
Năm ba thằng ngọng đứng xem chuông
Nó bảo nhau rằng ấy ái uông.
14.CHƠI HOA
Đã chót chơi hoa phải cố trèo
Trèo lên trèo xuống mỏi xương kheo
Cành la cành bổng vin co vít
Bông chín bông xanh để lộn phèo.
15.VÔ ÂM NỮ (1)
(Gái không âm hộ)
Mười hai bà mụ ghét chi nhau
Đem cái xuân tình cắm ở đâu
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Nào ai biết được vông hay chóc
Nọ kẻ chia ra cuống mấy đầu
Thôi thế thời thôi thôi cũng rảnh
Trăm năm càng khỏi tiếng làm dâu.
------------------------------------
(1):Các bản khác ghi là "Quan thị"
16. NGÃ TỐC VÁY LÀM THƠ TỰ VỊNH
Vén đám mây lên tỏ mặt trời
Lác coi từng đám rõ từng nơi
Giang sơn đâu đó nhô đầu dậy
Hoa cỏ quen hơi mỉm miệng cười.
17.BÙN BẮN LÊN ĐỒ
Xuân Hương đi đường lội,bùn bắn lên đến "đồ",tức cảnh vịnh:
Nê ninh thượng thức cao thâm xứ
Mạc quải anh hùng lưỡng thủ mô
(Bùn kia còn biết nơi cao thẳm
Chẳng trách anh hùng thích mó tay).
18. ĐI ĐÁI BÙN NẨY
Quân tử anh hùng đâu vắng tá
Để cho nê thổ nảy chơi xuân.
19.XƯỚNG HỌA VỚI QUAN TẾ TỬU HỌ PHẠM
(Bài 2)
---------------
Xuân Hương xướng:
Kìa ai tỉnh,kìa ai say
Kìa ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Khoan khoan xin hãy dừng tay lại
Chớ mó hang hùm nữa mất tay.
Họ Phạm (Chiêu Hổ) họa lại :
Nào ai tỉnh nào ai say
Nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Ví dầu hang chẳng cho ai mó
Sao có hùm con bỗng trốc tay.
20.Câu đối CHƠI ĐÈO NGANG
- Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hòn ngược để đơm người đế bá;
- Trách con tạo lừa cơ tem hẻm,chuốt núi xuôi cho lọt khách cổ kim.
Thật vui,"cái gì của Xuân Hương trả lại cho Xuân Hương" - Giáo sư Tiến sỹ Kiều Thu Hoạch đã dành trên 40 năm trời để Làm ĐƯỢC cái công việc có giá trị đích thực này - thật là đáng kính trọng.
Sưu tầm