Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cận Đại (1858-1945)
Triều đại nhà Nguyễn vương triều cuối cùng trong lịch sử quân chủ chuyên chế Việt Nam
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 183103" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 22px"><strong><span style="color: rgb(226, 80, 65)">Nhà Nguyễn sụp đổ chấm dứt 143 năm tồn tại</span></strong></span></p><p></p><p>Tháng Tám năm 1945, nhân sự kiện Nhật Bản đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, thời cơ đã chín muồi, Đảng Cộng sản Việt Nam phất cờ khởi nghĩa. Cách mạng tháng Tám diễn ra trong 15 ngày, và không hề đổ máu, nhưng đã giành được độc lập chủ quyền sau gần thế kỉ bị xiềng xích. Đó cũng là tiếng chuông cáo chung cho lịch sử phong kiến Việt Nam. Ngày 25/8/1945, tại Ngọ Môn, Bảo Đại – vị vua thứ 13 và cũng là cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn đã đọc Chiếu thoái vị. Chiều 30/8/1945, Bảo Đại trao lại ấn kiếm cho chính quyền cách mạng. Đến ngày 2/9/1945, Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước <a href="https://vnkienthuc.com/forums/viet-nam-co-dai-nguyen-thuy-dau-the-ky-x.102/" target="_blank">Việt Nam </a>Dân chủ Cộng hòa.</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Di sản để lại</strong></span></p><p></p><p>Nhà Nguyễn đã để lại những di sản vật thể lẫn phi vật thể vô cùng phong phú, được thế giới công nhận, dù một thời đã bị xem nhẹ, thậm chí bị coi là tàn dư của sự thối nát.</p><p></p><p><strong>Nhã nhạc cung đình Huế</strong></p><p></p><p>Được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại trong năm 2003, nhã nhạc chẳng những là một “thú vui thanh tao ” thời phong kiến, mà còn thể hiện sự tinh tế trong nghệ thuật âm nhạc.</p><p></p><p><strong>Cố đô Huế và các</strong><a href="https://vnkienthuc.com/threads/nha-tran-khang-chien-chong-xam-luoc-mong-co-lan-i-1258.51042/" target="_blank"><strong> lăng tẩm</strong></a></p><p></p><p>Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là <em>Di sản Văn hóa Thế giới</em> vào ngày 11 tháng 12 năm 1993. Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình xây dựng Kinh thành Huế có lẽ là công trình đồ sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, với một khối lượng công việc khổng lồ như đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đắp thành… kéo dài từ thời điểm tiến hành khảo sát dưới triều vua Gia Long năm 1803 đến khi hoàn chỉnh triều vua Minh Mạng vào năm 1832. Phong cách kiến trúc và cách bố phòng khiến Kinh thành Huế thực sự là một pháo đài vĩ đại và kiên cố nhất từ trước đến nay ở Việt Nam mà một thuyền trưởng người Pháp là Le Rey khi tới Huếnăm 1819 phải thốt lên: “Kinh Thành Huế thực sự là pháo đài đẹp nhất, đăng đối nhất ở Đông Dương, thậm chí so với cả pháo đài Williamở Calcutta và Saint Georges ở Madras do người Anh xây dựng”.</p><p></p><p>Lăng tẩm của các đời vua được coi là “ngôi nhà vĩnh cửu” để các vua gửi gắm linh hồn. Nổi bật lên trong đó là lăng Khải Định (Ứng Lăng), với quy mô hoành tráng, họa tiết và phong cách kiến trúc có sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại, <a href="https://vnkienthuc.com/threads/doi-song-van-hoa-cua-cu-dan-van-lang-au-lac.72605/" target="_blank">phương Đông</a> với phương Tây.</p><p></p><p><strong>Mộc bản</strong></p><p></p><p>Mộc bản được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới đầu tiên tại Việt Nam ngày 31/7/2009. Bộ Mộc bản này gồm 34.618 tấm, là những văn bản chữ Hán-Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra các sách tại Việt Nam vào cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.</p><p></p><p><strong>“Quốc bảo”</strong></p><p></p><p>Đóng góp nhiều nhất cho kho tàng này là bộ sưu tập kim ấn, ngọc tỷ truyền quốc, bửu tỷ, bảo kiếm, hàng thủ công nghệ và mỹ thuật. Cuối năm 2010, lần đầu tiên sau 50 năm được bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, những báu vật này đã được trưng bày trước công chúng. Tuy nhiên có những báu vật bị mất dấu như quốc ấn (nặng khoảng 10 kg vàng) và quốc kiếm của vua Bảo Đại, trao lại cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945, hay ấn tín của Nam Phương hoàng hậu đã bị mất trộm.</p><p></p><p><strong>Lệ Tứ bất</strong></p><p></p><p>Có nhiều quan điểm cho rằng, để thâu tóm quyền lực vào tay Hoàng đế, nhà Nguyễn đã đề ra Tứ bất – tức 4 điều cấm kị. Đó là không đặt chức tể tướng, không lấy đỗ trạng nguyên, không lập hoàng hậu và không phong Đông cung Thái tử. Thế nhưng, căn cứ vào chính sử nhà Nguyễn, cùng những tài liệu có liên quan đến triều đại này thì không hề nhắc đến lệ Tứ bất. Trên thực tế, vẫn có những trường hợp được phong hậu (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, Nam Phương Hoàng hậu), các Đông cung như Nguyễn Phúc Cảnh. Về vấn đề triều Nguyễn không có Tể tướng thì bắt đầu từ thời Lê trung hưng đã không còn. Hiện tượng không có Trạng nguyên là do điểm thi không cao, không đạt chuẩn mực triều đình đề ra chứ không có nghĩa nhà Nguyễn phế bỏ danh Trạng nguyên trong Khoa bảng. Có thể, Lệ tứ bất là sản phẩm từ sự suy luận chứ chưa có văn bản nào công nhận điều này.</p><p></p><p><span style="font-size: 22px"><strong><span style="color: rgb(226, 80, 65)">Nhận xét về vai trò của nhà Nguyễn</span></strong></span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Nhà Nguyễn có thể canh tân đất nước để giữ chủ quyền không?</strong></span></p><p></p><p>Trước những đề xướng cải cách, nhà Nguyễn không hề quay lưng hoàn toàn theo cách bảo thủ. Những người từng đi du học nước ngoài như Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ đã dâng điều trần xin nhà vua cải cách toàn diện. Vua Tự Đức và triều thần dường như đã đọc không bỏ sót một bản điều trần nào của các nhà cải cách gửi về Huế. Tháng 11 năm 1878, vua đã cử sứ bộ và một số thanh niên sang học tiếng Xiêm. Tuy nhiên, nhà Nguyễn vẫn không thể bứt phá. Vậy nguyên nhân là do đâu?</p><p></p><p>Thứ nhất, nhà Nguyễn đã không xây dựng được cơ sở xã hội vững chắc. “Dễ trăm lần không dân cũng chiu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, vậy mà triều Nguyễn ngay từ khi mới ra đời đã liên tục vấp phải sự phản kháng của nhân dân, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục nổ ra. Cơ sở xã hội đã lung lay thì sao có thể cải cách xã hội?</p><p></p><p>Thứ hai, một triều đình trọng văn, không chú trọng đến phát triển khoa học, kĩ thuật thì tầm nhìn không thể tiến xa, và có tâm lí “sợ” cái mới, dè chừng cải cách. Năm 1878, xem báo “Hương cảng tân văn”, có bàn đến việc chấn hưng đất nước phải thông thương, và chống lại bảo thủ, tăng cường học hỏi nước ngoài, Tự Đức muốn cho thi hành nhưng Viên cơ mật lại cho rằng những việc đó dễ người khó ta. Các quan trong viện còn nói thêm, muốn thay đổi tập quán phải từ từ, rồi còn phải chờ kỳ tiến công nhà Thanh năm sau để liệu.</p><p></p><p>Thứ ba là yếu tố khách quan: nhiều chương trình học nước ngoài bị bỏ dở nửa chừng vì triều đình không đủ lực tài trợ. Ngoài ra còn có tác động từ phía Pháp: không ít lần người Pháp đã ngăn không cho du học sinh Việt Nam ra nước ngoài học; hoặc việc mua tàu máy, vũ khí của nước ngoài cũng bị Pháp phá hỏng…</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><span style="color: rgb(226, 80, 65)">Trách nhiệm của nhà Nguyễn trong vấn đề để mất nước</span></strong></span></p><p></p><p>Đến tận bây giờ, đây vẫn là một câu hỏi lớn và gây nhiều tranh cãi, chia ra làm hai luồng ý kiến.</p><p></p><p>Một là quy chụp hoàn toàn mọi trách nhiệm cho nhà Nguyễn, đặc biệt là trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1975. Các sử gia miền Bắc đã có những đánh giá vô cùng gay gắt, quy trách nhiệm hoàn toàn cho các vua Nguyễn đối với việc mất nước rằng Nguyễn Ánh đã “cõng rắn cắn gà nhà” (cầu viện Pháp) và Tự Đức “bán rẻ đất nước” cho thực dân. Ngay cả sử gia Pháp Gosselin cũng cho rằng các vua Nguyễn phải chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ và xuống dốc của đất nước An Nam, đánh giá triều Nguyễn là một chính quyền mù quáng.</p><p></p><p>Tuy nhiên, cũng có những nhận định mang tính công tâm hơn, và cũng là xu thế đánh giá chủ đạo hiện nay. Trong “Việt Sử tân biên”, Phạm Văn Sơn cho rằng Việt Nam mất vào tay thực dân Pháp là một tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với người Pháp. Bản thân người viết cũng đồng tình với quan điểm này. Khi các cuộc phát kiến địa lí diễn ra đã tạo nên sự giao lưu mạnh mẽ giữa phương Đông và phương Tây. Đến khi chủ nghĩa tư bản đi theo con đường đế quốc – thực dân, xâm chiếm thuộc địa, thì hầu hết các quốc gia nhỏ yếu, lạc hậu hơn, đều rơi vào vòng xoáy “cá lớn nuốt cá bé”, bị thôn tính, đô hộ. Tại châu Á, có Nhật Bản và Xiêm nhờ những cải cách kịp thời mà vẫn giữ được độc lập. Văn minh súng ống đã chiếm ưu thế tuyệt đối trước quân đội thô sơ, lạc hậu của nhà Nguyễn. Nói như vậy không đồng nghĩa người viết đang cố tình giảm nhẹ trách nhiệm của nhà Nguyễn khi để thực dân Pháp đô hộ.</p><p></p><p>Trước hết, nhà Nguyễn đã đi những nước thụt lùi trong lịch sử, không thực hiện những cuộc canh tân đất nước theo xu hướng tiến bộ. Nhà nước này đã có những chính sách sai lầm, đặc biệt là vấn đề cấm đạo và tàn sát người Công giáo. Chính sách này chẳng những tạo cái cớ hợp lí để Pháp nổ súng xâm lược, mà còn phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Trong những trường hợp hoàn toàn có thể thừa thắng xông lên đánh Pháp thì triều Nguyễn lại lún sâu vào con đường thỏa hiệp, tạo khoảng trống cho quân Pháp hồi sức. Không những thế, chính nội tại nhà Nguyễn đã không thể thống nhất phương hướng, chia thành hai phe chủ chiến và chủ hòa. Kết hợp cả nguyên nhân khách quan và chủ quan thì việc để mất nước là điều không thể tránh khỏi.</p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><span style="color: rgb(235, 107, 86)">Vai trò của nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc </span></strong></span></p><p></p><p>Tương tự như vấn đề trên, cách nhìn nhận về nhà Nguyễn cũng bị chia thành 2 phe.</p><p></p><p>Phe thứ nhất phủ định sạch trơn mọi đóng góp của triều đại này, và dùng những cụm từ “xấu xí” để miêu tả:“Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát”, “Chế độ áp bức bóc lột nặng nề”, “Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động”, “Chính sách đối ngoại mù quáng”, v.v… , thậm chí là những từ ngữ tiêu cực hơn như “triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt”, “Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn”, “cực kỳ ngu xuẩn”, “tên chúa phong kiến bán nước số 1 là Nguyễn Ánh… ( trích bộ “Lịch sử Việt Nam “thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội). Hệ lụy là trong một thời gian dài, các di tích có liên quan đến triều Nguyễn bị phá hủy, xoá bỏ từ tên đường phố, trường học, hay các công trình công cộng, ngay cả với những vị Hoàng đế yêu nước, có tinh thần kháng Pháp (Duy Tân) cũng không ngoại lệ. Thậm chí quần thể di tích cố đô Huế bị bỏ mặc trở thành phế tích do chịu tác động của chiến tranh và phong hóa của thời gian.</p><p></p><p>Bản thân người viết xin đưa ra kiến giải của mình về việc Nguyễn Ánh cầu viện nước ngoài. Bản thân Nguyễn Ánh chỉ có mục đích muốn xin viện trợ, chứ không hề có ý định rước giặc vào giày xéo đất mẹ. Bản thân ông trót mang nợ với Bá Đa Lộc, nhưng cũng có sự cảnh giác với ý đồ của Tây phương. Sau đây xin được đưa ra một số ý kiến đánh giá khách quan nhất về triều đại phong kiến này:“Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát”, “Chế độ áp bức bóc lột nặng nề”, “Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động”, “Chính sách đối ngoại mù quáng”, v.v… , thậm chí là những từ ngữ tiêu cực hơn như “triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt”, “Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn”, “cực kỳ ngu xuẩn”, “tên chúa phong kiến bán nước số 1 là Nguyễn Ánh… ( trích bộ “Lịch sử Việt Nam “thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội). Hệ lụy là trong một thời gian dài, các di tích có liên quan đến triều Nguyễn bị phá hủy, xoá bỏ từ tên đường phố, trường học, hay các công trình công cộng, ngay cả với những vị Hoàng đế yêu nước, có tinh thần kháng Pháp (Duy Tân) cũng không ngoại lệ. Thậm chí quần thể di tích cố đô Huế bị bỏ mặc trở thành phế tích do chịu tác động của chiến tranh và phong hóa của thời gian.</p><p></p><p>Giáo sư Phan Huy Lê nhận định, triều Nguyễn được đặt trong “khung” lý thuyết hình thái kinh tế xã hội là triều đại suy vong, lâm vào khủng hoảng nặng nề, và chịu nhiều phán xét không công bằng. Trong hội thảo quốc gia mang tên “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX” năm 2008, giáo sư chỉ ra “sự phê phán, lên án đến mức độ gần như phủ định mọi thành tựu của thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn trước đây là quá bất công, thiếu khách quan, nhất là khi đưa vào nội dung sách giáo khoa phổ thông để phổ cập trong lớp trẻ và xã hội… các nhà sử học dĩ nhiên có trách nhiệm của mình trong vận dụng phương pháp luận sử học chưa được khách quan, trung thực”. Ông Phan Huy Lê cũng khẳng định vai trò mở mang bờ cõi, thống nhất đất nước, phát triển giáo dục, văn hóa của vua chúa Nguyễn.</p><p></p><p>Theo ông Nguyễn Đắc Xuân (Hội sử học Thừa Thiên – Huế), có 4 “nguồn” nhận định sai về nhà Nguyễn, bao gồm: hậu duệ vua Lê – chúa Trịnh, thực dân Pháp, Công giáo và những người nghiên cứu nhà Tây Sơn, thích Tây Sơn.</p><p></p><p>Nguy hiểm hơn nữa, những đánh giá sai lệch lại nằm trong tư tưởng giáo điều của một số sử gia mác xít. Khuynh hướng này đã ảnh hưởng lớn đến việc biên soạn sách giáo khoa, đem đến cái nhìn không được thiện cảm về nhà Nguyễn.</p><p></p><p>Trước thực trạng ý thức hệ chi phối khoa học, trên tờ “Sông Hương” (Huế) vào năm 1987, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã bày tỏ chính kiến “Tôi không thích nhà làm sử cứ theo ý chủ quan của mình, và từ chỗ đứng của thời đại mình mà chửi tràn chửi lấp toàn bộ nhà Nguyễn cho sướng miệng và ra vẻ có lập trường. Có thời nhà Nguyễn chúng ta mới có một Việt Nam hoàn chỉnh như ngày nay”.</p><p></p><p>Nhà thơ Nguyễn Duy đã bày tỏ bức xúc về những thành phần “hùa theo đám đông” để tạo nên xu thế xem thường Nguyễn triều “nhiều người biết rằng nhà Nguyễn có công lớn đối với nước nhà, nhưng không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị biến dạng, bị hạ thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch sử và văn hóa”.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 183103, member: 288054"] [SIZE=6][B][COLOR=rgb(226, 80, 65)]Nhà Nguyễn sụp đổ chấm dứt 143 năm tồn tại[/COLOR][/B][/SIZE] Tháng Tám năm 1945, nhân sự kiện Nhật Bản đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, thời cơ đã chín muồi, Đảng Cộng sản Việt Nam phất cờ khởi nghĩa. Cách mạng tháng Tám diễn ra trong 15 ngày, và không hề đổ máu, nhưng đã giành được độc lập chủ quyền sau gần thế kỉ bị xiềng xích. Đó cũng là tiếng chuông cáo chung cho lịch sử phong kiến Việt Nam. Ngày 25/8/1945, tại Ngọ Môn, Bảo Đại – vị vua thứ 13 và cũng là cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn đã đọc Chiếu thoái vị. Chiều 30/8/1945, Bảo Đại trao lại ấn kiếm cho chính quyền cách mạng. Đến ngày 2/9/1945, Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước [URL='https://vnkienthuc.com/forums/viet-nam-co-dai-nguyen-thuy-dau-the-ky-x.102/']Việt Nam [/URL]Dân chủ Cộng hòa. [SIZE=5][B]Di sản để lại[/B][/SIZE] Nhà Nguyễn đã để lại những di sản vật thể lẫn phi vật thể vô cùng phong phú, được thế giới công nhận, dù một thời đã bị xem nhẹ, thậm chí bị coi là tàn dư của sự thối nát. [B]Nhã nhạc cung đình Huế[/B] Được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại trong năm 2003, nhã nhạc chẳng những là một “thú vui thanh tao ” thời phong kiến, mà còn thể hiện sự tinh tế trong nghệ thuật âm nhạc. [B]Cố đô Huế và các[/B][URL='https://vnkienthuc.com/threads/nha-tran-khang-chien-chong-xam-luoc-mong-co-lan-i-1258.51042/'][B] lăng tẩm[/B][/URL] Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là [I]Di sản Văn hóa Thế giới[/I] vào ngày 11 tháng 12 năm 1993. Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình xây dựng Kinh thành Huế có lẽ là công trình đồ sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, với một khối lượng công việc khổng lồ như đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đắp thành… kéo dài từ thời điểm tiến hành khảo sát dưới triều vua Gia Long năm 1803 đến khi hoàn chỉnh triều vua Minh Mạng vào năm 1832. Phong cách kiến trúc và cách bố phòng khiến Kinh thành Huế thực sự là một pháo đài vĩ đại và kiên cố nhất từ trước đến nay ở Việt Nam mà một thuyền trưởng người Pháp là Le Rey khi tới Huếnăm 1819 phải thốt lên: “Kinh Thành Huế thực sự là pháo đài đẹp nhất, đăng đối nhất ở Đông Dương, thậm chí so với cả pháo đài Williamở Calcutta và Saint Georges ở Madras do người Anh xây dựng”. Lăng tẩm của các đời vua được coi là “ngôi nhà vĩnh cửu” để các vua gửi gắm linh hồn. Nổi bật lên trong đó là lăng Khải Định (Ứng Lăng), với quy mô hoành tráng, họa tiết và phong cách kiến trúc có sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại, [URL='https://vnkienthuc.com/threads/doi-song-van-hoa-cua-cu-dan-van-lang-au-lac.72605/']phương Đông[/URL] với phương Tây. [B]Mộc bản[/B] Mộc bản được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới đầu tiên tại Việt Nam ngày 31/7/2009. Bộ Mộc bản này gồm 34.618 tấm, là những văn bản chữ Hán-Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra các sách tại Việt Nam vào cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. [B]“Quốc bảo”[/B] Đóng góp nhiều nhất cho kho tàng này là bộ sưu tập kim ấn, ngọc tỷ truyền quốc, bửu tỷ, bảo kiếm, hàng thủ công nghệ và mỹ thuật. Cuối năm 2010, lần đầu tiên sau 50 năm được bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, những báu vật này đã được trưng bày trước công chúng. Tuy nhiên có những báu vật bị mất dấu như quốc ấn (nặng khoảng 10 kg vàng) và quốc kiếm của vua Bảo Đại, trao lại cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945, hay ấn tín của Nam Phương hoàng hậu đã bị mất trộm. [B]Lệ Tứ bất[/B] Có nhiều quan điểm cho rằng, để thâu tóm quyền lực vào tay Hoàng đế, nhà Nguyễn đã đề ra Tứ bất – tức 4 điều cấm kị. Đó là không đặt chức tể tướng, không lấy đỗ trạng nguyên, không lập hoàng hậu và không phong Đông cung Thái tử. Thế nhưng, căn cứ vào chính sử nhà Nguyễn, cùng những tài liệu có liên quan đến triều đại này thì không hề nhắc đến lệ Tứ bất. Trên thực tế, vẫn có những trường hợp được phong hậu (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, Nam Phương Hoàng hậu), các Đông cung như Nguyễn Phúc Cảnh. Về vấn đề triều Nguyễn không có Tể tướng thì bắt đầu từ thời Lê trung hưng đã không còn. Hiện tượng không có Trạng nguyên là do điểm thi không cao, không đạt chuẩn mực triều đình đề ra chứ không có nghĩa nhà Nguyễn phế bỏ danh Trạng nguyên trong Khoa bảng. Có thể, Lệ tứ bất là sản phẩm từ sự suy luận chứ chưa có văn bản nào công nhận điều này. [SIZE=6][B][COLOR=rgb(226, 80, 65)]Nhận xét về vai trò của nhà Nguyễn[/COLOR][/B][/SIZE] [SIZE=5][B]Nhà Nguyễn có thể canh tân đất nước để giữ chủ quyền không?[/B][/SIZE] Trước những đề xướng cải cách, nhà Nguyễn không hề quay lưng hoàn toàn theo cách bảo thủ. Những người từng đi du học nước ngoài như Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ đã dâng điều trần xin nhà vua cải cách toàn diện. Vua Tự Đức và triều thần dường như đã đọc không bỏ sót một bản điều trần nào của các nhà cải cách gửi về Huế. Tháng 11 năm 1878, vua đã cử sứ bộ và một số thanh niên sang học tiếng Xiêm. Tuy nhiên, nhà Nguyễn vẫn không thể bứt phá. Vậy nguyên nhân là do đâu? Thứ nhất, nhà Nguyễn đã không xây dựng được cơ sở xã hội vững chắc. “Dễ trăm lần không dân cũng chiu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, vậy mà triều Nguyễn ngay từ khi mới ra đời đã liên tục vấp phải sự phản kháng của nhân dân, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục nổ ra. Cơ sở xã hội đã lung lay thì sao có thể cải cách xã hội? Thứ hai, một triều đình trọng văn, không chú trọng đến phát triển khoa học, kĩ thuật thì tầm nhìn không thể tiến xa, và có tâm lí “sợ” cái mới, dè chừng cải cách. Năm 1878, xem báo “Hương cảng tân văn”, có bàn đến việc chấn hưng đất nước phải thông thương, và chống lại bảo thủ, tăng cường học hỏi nước ngoài, Tự Đức muốn cho thi hành nhưng Viên cơ mật lại cho rằng những việc đó dễ người khó ta. Các quan trong viện còn nói thêm, muốn thay đổi tập quán phải từ từ, rồi còn phải chờ kỳ tiến công nhà Thanh năm sau để liệu. Thứ ba là yếu tố khách quan: nhiều chương trình học nước ngoài bị bỏ dở nửa chừng vì triều đình không đủ lực tài trợ. Ngoài ra còn có tác động từ phía Pháp: không ít lần người Pháp đã ngăn không cho du học sinh Việt Nam ra nước ngoài học; hoặc việc mua tàu máy, vũ khí của nước ngoài cũng bị Pháp phá hỏng… [SIZE=5][B][COLOR=rgb(226, 80, 65)]Trách nhiệm của nhà Nguyễn trong vấn đề để mất nước[/COLOR][/B][/SIZE] Đến tận bây giờ, đây vẫn là một câu hỏi lớn và gây nhiều tranh cãi, chia ra làm hai luồng ý kiến. Một là quy chụp hoàn toàn mọi trách nhiệm cho nhà Nguyễn, đặc biệt là trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1975. Các sử gia miền Bắc đã có những đánh giá vô cùng gay gắt, quy trách nhiệm hoàn toàn cho các vua Nguyễn đối với việc mất nước rằng Nguyễn Ánh đã “cõng rắn cắn gà nhà” (cầu viện Pháp) và Tự Đức “bán rẻ đất nước” cho thực dân. Ngay cả sử gia Pháp Gosselin cũng cho rằng các vua Nguyễn phải chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ và xuống dốc của đất nước An Nam, đánh giá triều Nguyễn là một chính quyền mù quáng. Tuy nhiên, cũng có những nhận định mang tính công tâm hơn, và cũng là xu thế đánh giá chủ đạo hiện nay. Trong “Việt Sử tân biên”, Phạm Văn Sơn cho rằng Việt Nam mất vào tay thực dân Pháp là một tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với người Pháp. Bản thân người viết cũng đồng tình với quan điểm này. Khi các cuộc phát kiến địa lí diễn ra đã tạo nên sự giao lưu mạnh mẽ giữa phương Đông và phương Tây. Đến khi chủ nghĩa tư bản đi theo con đường đế quốc – thực dân, xâm chiếm thuộc địa, thì hầu hết các quốc gia nhỏ yếu, lạc hậu hơn, đều rơi vào vòng xoáy “cá lớn nuốt cá bé”, bị thôn tính, đô hộ. Tại châu Á, có Nhật Bản và Xiêm nhờ những cải cách kịp thời mà vẫn giữ được độc lập. Văn minh súng ống đã chiếm ưu thế tuyệt đối trước quân đội thô sơ, lạc hậu của nhà Nguyễn. Nói như vậy không đồng nghĩa người viết đang cố tình giảm nhẹ trách nhiệm của nhà Nguyễn khi để thực dân Pháp đô hộ. Trước hết, nhà Nguyễn đã đi những nước thụt lùi trong lịch sử, không thực hiện những cuộc canh tân đất nước theo xu hướng tiến bộ. Nhà nước này đã có những chính sách sai lầm, đặc biệt là vấn đề cấm đạo và tàn sát người Công giáo. Chính sách này chẳng những tạo cái cớ hợp lí để Pháp nổ súng xâm lược, mà còn phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Trong những trường hợp hoàn toàn có thể thừa thắng xông lên đánh Pháp thì triều Nguyễn lại lún sâu vào con đường thỏa hiệp, tạo khoảng trống cho quân Pháp hồi sức. Không những thế, chính nội tại nhà Nguyễn đã không thể thống nhất phương hướng, chia thành hai phe chủ chiến và chủ hòa. Kết hợp cả nguyên nhân khách quan và chủ quan thì việc để mất nước là điều không thể tránh khỏi. [SIZE=5][B][COLOR=rgb(235, 107, 86)]Vai trò của nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc [/COLOR][/B][/SIZE] Tương tự như vấn đề trên, cách nhìn nhận về nhà Nguyễn cũng bị chia thành 2 phe. Phe thứ nhất phủ định sạch trơn mọi đóng góp của triều đại này, và dùng những cụm từ “xấu xí” để miêu tả:“Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát”, “Chế độ áp bức bóc lột nặng nề”, “Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động”, “Chính sách đối ngoại mù quáng”, v.v… , thậm chí là những từ ngữ tiêu cực hơn như “triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt”, “Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn”, “cực kỳ ngu xuẩn”, “tên chúa phong kiến bán nước số 1 là Nguyễn Ánh… ( trích bộ “Lịch sử Việt Nam “thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội). Hệ lụy là trong một thời gian dài, các di tích có liên quan đến triều Nguyễn bị phá hủy, xoá bỏ từ tên đường phố, trường học, hay các công trình công cộng, ngay cả với những vị Hoàng đế yêu nước, có tinh thần kháng Pháp (Duy Tân) cũng không ngoại lệ. Thậm chí quần thể di tích cố đô Huế bị bỏ mặc trở thành phế tích do chịu tác động của chiến tranh và phong hóa của thời gian. Bản thân người viết xin đưa ra kiến giải của mình về việc Nguyễn Ánh cầu viện nước ngoài. Bản thân Nguyễn Ánh chỉ có mục đích muốn xin viện trợ, chứ không hề có ý định rước giặc vào giày xéo đất mẹ. Bản thân ông trót mang nợ với Bá Đa Lộc, nhưng cũng có sự cảnh giác với ý đồ của Tây phương. Sau đây xin được đưa ra một số ý kiến đánh giá khách quan nhất về triều đại phong kiến này:“Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát”, “Chế độ áp bức bóc lột nặng nề”, “Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động”, “Chính sách đối ngoại mù quáng”, v.v… , thậm chí là những từ ngữ tiêu cực hơn như “triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt”, “Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn”, “cực kỳ ngu xuẩn”, “tên chúa phong kiến bán nước số 1 là Nguyễn Ánh… ( trích bộ “Lịch sử Việt Nam “thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội). Hệ lụy là trong một thời gian dài, các di tích có liên quan đến triều Nguyễn bị phá hủy, xoá bỏ từ tên đường phố, trường học, hay các công trình công cộng, ngay cả với những vị Hoàng đế yêu nước, có tinh thần kháng Pháp (Duy Tân) cũng không ngoại lệ. Thậm chí quần thể di tích cố đô Huế bị bỏ mặc trở thành phế tích do chịu tác động của chiến tranh và phong hóa của thời gian. Giáo sư Phan Huy Lê nhận định, triều Nguyễn được đặt trong “khung” lý thuyết hình thái kinh tế xã hội là triều đại suy vong, lâm vào khủng hoảng nặng nề, và chịu nhiều phán xét không công bằng. Trong hội thảo quốc gia mang tên “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX” năm 2008, giáo sư chỉ ra “sự phê phán, lên án đến mức độ gần như phủ định mọi thành tựu của thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn trước đây là quá bất công, thiếu khách quan, nhất là khi đưa vào nội dung sách giáo khoa phổ thông để phổ cập trong lớp trẻ và xã hội… các nhà sử học dĩ nhiên có trách nhiệm của mình trong vận dụng phương pháp luận sử học chưa được khách quan, trung thực”. Ông Phan Huy Lê cũng khẳng định vai trò mở mang bờ cõi, thống nhất đất nước, phát triển giáo dục, văn hóa của vua chúa Nguyễn. Theo ông Nguyễn Đắc Xuân (Hội sử học Thừa Thiên – Huế), có 4 “nguồn” nhận định sai về nhà Nguyễn, bao gồm: hậu duệ vua Lê – chúa Trịnh, thực dân Pháp, Công giáo và những người nghiên cứu nhà Tây Sơn, thích Tây Sơn. Nguy hiểm hơn nữa, những đánh giá sai lệch lại nằm trong tư tưởng giáo điều của một số sử gia mác xít. Khuynh hướng này đã ảnh hưởng lớn đến việc biên soạn sách giáo khoa, đem đến cái nhìn không được thiện cảm về nhà Nguyễn. Trước thực trạng ý thức hệ chi phối khoa học, trên tờ “Sông Hương” (Huế) vào năm 1987, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã bày tỏ chính kiến “Tôi không thích nhà làm sử cứ theo ý chủ quan của mình, và từ chỗ đứng của thời đại mình mà chửi tràn chửi lấp toàn bộ nhà Nguyễn cho sướng miệng và ra vẻ có lập trường. Có thời nhà Nguyễn chúng ta mới có một Việt Nam hoàn chỉnh như ngày nay”. Nhà thơ Nguyễn Duy đã bày tỏ bức xúc về những thành phần “hùa theo đám đông” để tạo nên xu thế xem thường Nguyễn triều “nhiều người biết rằng nhà Nguyễn có công lớn đối với nước nhà, nhưng không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị biến dạng, bị hạ thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch sử và văn hóa”. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cận Đại (1858-1945)
Triều đại nhà Nguyễn vương triều cuối cùng trong lịch sử quân chủ chuyên chế Việt Nam
Top