Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Đông và phương Tây
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 111491" data-attributes="member: 7"><p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><strong>Triết học phương Đông và phương Tây: Kỳ 2</strong></span></p> <p style="text-align: center"></p><p></p><p> Graham Priest, giáo sư Triết học tại Đại học Melbourne, tiếp tục trình bày về ba dòng triết học phương Tây, triết học Trung Quốc và Ấn Độ.</p><p></p><p> <p style="text-align: center"><img src="https://www.bayvut.com.au/sites/default/files/imagecache/story_460/story-images/r287402_1226081.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></p> <p style="text-align: center"></p><p></p><p>Quan điểm cho rằng một số sự vật trống rỗng được biết đến trong triết học phương Tây nhưng quan điểm cho rằng mọi vật đều trống rỗng như trong Phật giáo thì chưa được người phương Tây biết đến. (ABC)</p><p> </p><p> “Vào khoảng cùng một thời điểm, những triết lý quan trọng trong cả ba nền văn hóa đều thăng hoa. Giai đoạn quyết định này là vào khoảng thế kỷ V. Ở phương Tây có bộ ba của Hy Lạp: Socrates, Plato và Aristotle. Ở Ấn Độ có Phật tổ và Mahvira, người sáng lập đạo Gai-na. Ở Trung Quốc có Lão Tử, người được cho là sáng lập ra Đạo Lão và Khổng Tử, tổ sư của Đạo Khổng. Đây là thời kỳ triết học phát triển nhanh chóng trên khắp thế giới. Tại sao vậy? Đây là câu hỏi hay nhưng chưa có lời giải đáp.</p><p></p><p> Tiếp theo đó là quá trình phát triển của những quan điểm này. Chúng ta không điểm lại tất cả những tên tuổi vì sẽ mất rất nhiều thời gian. Tuy nhiên, tôi sẽ nêu một số chi tiết chính trong triết học phương Tây. Trong khoảng thời gian từ năm 800 tới năm 1600, tôn giáo thống trị tại đây là Thiên Chúa giáo. Do vậy, các triết gia vĩ đại là các giáo sĩ và dù họ nói về nhiều nội dung khác ngoài triết học của tôn giáo nhưng tôn giáo luôn ăn sâu trong suy nghĩ của họ.</p><p></p><p> Trong truyền thống của Ấn Độ, người ta thấy nền móng của các trường phái đạo Hindu chính thống xuất hiện vào khoảng thế kỷ đầu sau Công Nguyên và Đạo Phật nguyên thủy là một trong những môn phái không chính thống được truyền bá trong vòng 500 năm, sau đó phát triển thành Phật giáo Đại thừa. Nagarjuna và Vasubandhu là những nhân vật quan trọng trong Phật giáo Đại thừa.</p><p></p><p> Đạo Phật bị đẩy khỏi Ấn Độ do sự lấn át của Đạo Moghul và do xung đột giữa những người theo đạo Hindu và Đạo Hồi. Tuy nhiên, Đạo Phật tiếp tục được du nhập sang Trung Quốc. Chính vì vậy, triết học cổ điển của Trung Quốc là Đạo Lão và Đạo Khổng nhưng chúng ta thấy có sự ảnh hưởng của Đạo Phật tại đây trong giai đoạn chuyển giao của thời kỳ sau công nguyên. Sau đó, các trường phái Phật giáo đặc trưng của Trung Quốc được phát triển trong vòng 600 năm sau. Mọi người có lẽ đã nghe nói đến trường phái Thiền Tông (Chan), hay Zen trong tiếng Nhật. </p><p></p><p> Những thông tin trên có thể giúp khán giả hiểu về bối cảnh lịch sử, mặc dù tôi nêu rất tóm tắt về triết học phương Đông. Nếu có sự khác biệt giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây thì đó chính là cuộc cách mạng khoa học ởphương Tây. Cuộc cách mạng này có ảnh hưởng lớn tới triết học. Cuộc cách mạng đã đẩy tôn giáo và đưa khoa học vào trung tâm của triết học. Ấn Độ và Trung Quốc chưa trải qua một cuộc cách mạng tương tự. Do vậy, triết học phương Đông không có những điểm tương đồng với sự phát triển của triết học phương Tây sau cuộc cách mạng khoa học. Đây là điểm khác biệt quan trọng nhưng nó không có nghĩa là triết học của phía bên kia (phương Đông) tệ hơn.</p><p> <strong></strong></p><p><strong>Thuyết siêu hình</strong></p><p></p><p> Giờ đây, tôi muốn tiếp tục minh họa ý tưởng cho rằng triết học của nửa bên kia vừa tương đồng vừa khác biệt. Tôi chỉ nêu vài vấn đề triết học và phác họa ngắn gọn để minh họa cho ý tưởng này. Tôi sẽ dẫn chứng một số quan điểm từ triết lý Phật giáo, một trong những triết lý tôi hiểu sâu sắc nhất. Bắt đầu là siêu hình học.</p><p></p><p> Thuyết siêu hình, ở một mặt nào đó, là khoa học nghiên cứu bản chất của thực tế cuộc sống. Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại Thừa, có vai trò đặc biệt trong đó. Phật giáo Đại Thừa cho rằng mọi vật đều rỗng không, nghe có vẻ thú vị nhưng điều đó có nghĩa là gì? Đó là một vấn đề khó. Điều đó có nghĩa phủ nhận mọi tình trạng tự tồn tại. Vấn đề này nghĩa là gì? Tôi sẽ tiếp tục giải thích bằng một ví dụ trong triết học phương Tây.</p><p></p><p> Vào thế kỷ thứ 17 đã xảy ra cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Newton và Leibniz về bản chất của không gian và thời gian. Câu hỏi tập trung là: Có thể nhấc cả vũ trụ và di chuyển 5 dặm về phía đông và thả xuống không? Liệu mọi thứ có xảy ra giống như hiện nay không, không kể là thời gian đã là nửa giờ sau? Newton trả lời ‘có’ với cả hai câu hỏi trong khi Leibniz trả lời ‘không’. Newton lý giải rằng không gian và thời gian giống như những chiếc thùng và có thể cho rằng mỗi chiếc thùng chứa những thực thể của thực tại và những thứ chứa bên trong luôn tồn tại trong đó. Không gian là một cái gì đó vẫn cứ tồn tại nếu không có sự việc nào xảy ra trong không gian và thời gian. Thời gian cũng giống như vậy. Như vậy không gian và thời gian tự tồn tại và không phụ thuộc vào những thứ khác.</p><p></p><p> Leibniz trả lời ‘không’ và lý giải rằng không thể nâng mọi thứ lên, chuyển sang phía đông 5 dặm hay mọi thứ có thể bắt đầu y như cũ 5 phút sau. Bởi vì mọi vật không thực sự thay đổi. Thời gian và không gian không phải là những chiếc thùng lớn để bạn cho mọi thứ vào. Thời gian và không gian chỉ là mối quan hệ bên trong giữa các sự kiện xảy ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, nếu các mối quan hệ, giữa cái trước và cái sau, giữa cái phải và trái và mọi thứ đều giống nhau thì sẽ không thứ gì thay đổi. Như vậy, nếu có thể dịch chuyển mọi vật 5 dặm về phía đông, tất cả những mối quan hệ trong không gian sẽ duy trì ở trạng thái cũ, không thay đổi. Nếu bạn có quan điểm như trên về không gian và thời gian thì như vậy không gian và thời gian không có trạng thái tự tồn tại giống nhau, trạng thái tồn tại bản thể học như Newton đã đưa ra.</p><p></p><p> Theo cách nói của triết học Phật giáo, Newton cho rằng không gian và thời gian tự tồn tại và không phụ thuộc vào các sự vật khác. Tuy nhiên, theo Leibniz, không gian và thời gian không tự tồn tại, nó chỉ nằm trong hệ thống mối quan hệ tương hỗvới nhau. Nói cách khác, theo cách nói của Phật giáo, không gian và thời gian không tự tồn tại mà tồn tại trong mối quan hệ với các sự vật khác. </p><p></p><p> Triết lý Phật giáo - Phật giáo Đại thừa, cho rằng không chỉ không gian và thời gian trống rỗng mà mọi thứ đều trống rỗng. Nghĩa là mọi thứ đều tồn tại nhưng tồn tại trong mối quan hệ với các sự vật khác. Lấy ví dụ là tôi và các bạn, chúng ta tồn tại trong mối quan hệ với các vật chất khác, những vật chất này lại tồn tại trong mối quan hệ với những sự vật khác nữa…v.v. Như vậy, không có gì có thể tự tồn tại.</p><p></p><p> Triết lý phương Tây bị chiếm lĩnh bởi tư tưởng cho rằng có những chất, những sự vật có thể tồn tại thậm chí khi mọi vật đã biến mất. Triết lý Phật giáo cho rằng không có sự vật nào như vậy, không có những sự vật tự tồn tại, mọi thứ đều không thể tự tồn tại. Và như tôi đã trình bày, quan điểm cho rằng một số sự vật trống rỗng được biết đến trong triết học phương Tây. Tuy nhiên, quan điểm cho rằng mọi vật đều trống rỗng chưa được người phương Tây biết đến.</p><p></p><p> Điều này có hệ quả của nó. Một điều những tín đồ đạo Phật luôn bị đặt nghi vấn là: nếu mọi thứ liên quan đến những thứ khác và tồn tại trong mối quan hệ với sự vật khác sẽ không có gì thực sự tồn tại. Phải có nền tảng nào đó, nếu không sẽ không có gì có thể tạo nên mối quan hệ đó.</p><p></p><p> Có một câu chuyện kể về Bertrand Russell, người đã thuyết trình tại London vào năm 1910. Bertrand Russell giảng dạy môn vũ trụ học phương Tây. Russell cho biết: “Người Hy Lạp cổ cho rằng Trái Đất phẳng: điều gì làm cho Trái Đất không rơi? Trái Đất phải dựa vào một sự vật nào đó. Trái Đất có thể dựa vào cái gì? Một con rùa.” Suy nghĩ về vấn đề này một thời gian và họ nhận ra rằng họ không thể tiến xa hơn. Và Russell tiếp tục bài giảng. Đột nhiên, ông chuyển sang các học thuyết khác về vũ trụ. Vào cuối buổi học, một bà cụ nhỏ bé trong đám khán giả chạy vội về phía Russell và nói: “Ngài Russell, tôi có câu trả lời. Chính là là những chú rùa chống đỡ cả Trái Đất.”</p><p></p><p> Trích dẫn này khá kỳ lạ bởi vì nếu một con rùa không thể chống đỡ được Trái Đất, vô cực những chú rùa cũng không thể đỡ được. Đây là trực giác mà những người phê phán đạo Phật vin vào. Tuy nhiên, nếu bạn theo Đạo Phật, đúng là những con rùa đỡ bên dưới Trái Đất. Điều này phụ thuộc vào điều kia, lần lượt như vậy và sẽ không có vấn đề gì với điều này cả nếu bạn cho rằng mọi thứ tồn tại trong trạng thái rơi tự do - chính là quan điểm mà những người theo đạo Phật nhìn nhận thực tiễn.</p><p> <strong></strong></p><p><strong>Đạo đức</strong></p><p></p><p> Đó là tất cả những gì tôi muốn trình bày về thuyết siêu hình. Sau đây tôi muốn nói đôi chút về đạo đức. Đạo Phật cũng có quan điểm về đạo đức khá đặc biệt. Quan điểm này xoay quanh ý tưởng cho rằng cuộc đời là bể khổ (all life is suffering - đó là cách nó vẫn thường được dịch). Trong học thuyết chính của đạo Phật - Tứ Diệu Đế do Phật đề ra - lời răn thứ nhất là ‘Đời là bể khổ’. Điều này không có nghĩa là con người không được hưởng lạc thú. Từ ‘khổ’ được dịch từ 'dukkha' trong tiếng Phạn và nên được dịch là ‘sự không thỏa mãn’. Điều này nghĩa là không có gì trong cuộc đời có thể hoàn hảo. Có những điều khiến ta không thể thỏa mãn với mọi thứ và cuối cùng con người sẽ chết đi nếu bạn may mắn. Bởi vì một lựa chọn khác là sống lâu với bệnh Alzheimer hay bệnh ung thư giai đoạn cuối. Điều này có thể xảy ra với tất cả mọi người và đức Phật hiểu được điều đó.</p><p></p><p> Như vậy quan điểm đạo đức của nhà Phật là từ bỏ sự không thỏa mãn. Đức Phật cho rằng có cách để làm điều này. Đó là một tin tức tốt lành. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không đề cập tiếp tới vấn đề này…</p><p></p><p> Đạo đức nhà Phật dựa trên ý tưởng cho rằng con người muốn chấm dứt sự khổ đau, trước tiên là nỗi khổ của chính mình. Trong Phật giáo, con người mong muốn chấm dứt nỗi thống khổ của chúng sinh. Về lý thuyết, đạo đức trung tâm của Phật giáo Đại thừa là lòng trắc ẩn. Nếu đọc tài liệu của Kant hay Aristotle về đức hạnh, họ sẽ lý giải tại sao một số điều được coi là đức hạnh. Phật giáo có quan niệm khác như sau:</p><p></p><p> Bạn không cần có sức mạnh cao siêu để hiểu mong muốn từ bỏ nỗi thống khổ của bản thân có gì sai trái. Câu hỏi này đã tự trả lời cho chính nó. Không ai thích sự đau khổ. Tuy nhiên tại sao cần phải quan tâm tới nỗi đau khổ của người khác? Tại sao cần có lòng trắc ẩn đối với mọi người? Câu trả lời là: hãy quay trở lại một phép ẩn dụ khác về sự trống rỗng. </p><p></p><p> Đây là phép ẩn dụ hay nhất trong các triết lý tôi từng biết, được gọi là ‘Lưới của Indra’ (The Net of Indra). Phép ẩn dụ này không có nguồn gốc từ Ấn Độ mặc dù Indra là vị thần Ấn Độ trong truyền thuyết. Phép ẩn dụ này bắt nguồn trong Phật giáo Trung Hoa. Truyền thuyết kể rằng Vị thần Ấn Độ Indra có một chiếc lưới vô tận ở mọi hướng và ở mỗi mắt lưới có một viên ngọc được mài sáng, vì vậy, mỗi viên ngọc phản chiếu những viên ngọc khác. Khi những viên ngọc phản chiếu lẫn nhau, giống như khi có vô số chiếc gương đặt đối diện nhau, khi nhìn vào một trong những chiếc gương, bạn có thể cảm nhận hình ảnh phản chiếu dường như vô tận. Đó chính là hình ảnh phản chiếu trong chiếc lưới ngọc của thần Indra. Đó cũng chính là phép ẩn dụ về sự trống rỗng bởi mỗi yếu tố trong cuộc sống giống như một viên ngọc trên chiếc lưới. Nó phản chiếu tất cả những viên ngọc khác và được phản chiếu trong tất cả các viên ngọc. Như vậy, mỗi sự vật, mỗi con người hòa nhập vào nhau như những viên ngọc không có đặc điểm riêng và chỉ đơn thuần là hình ảnh phản chiếu của tất cả những viên ngọc khác.</p><p></p><p> Nếu bạn hiểu được hình ảnh siêu hình này, bạn sẽ hiểu tại sao lòng trắc ẩn được coi là đức hạnh, bởi vì ai cũng muốn chấm dứt nỗi đau khổ của bản thân, đúng vậy không? Bạn không cần phải là Einstein để có thể đưa ra kết luận. Tuy nhiên, tôi không từ bỏ hết nỗi đau khổ của mình khi nỗi thống khổ vẫn tồn tại trên những viên ngọc khác trong chiếc lưới. Bởi tất cả những viên ngọc đó, xét về mặt nào đó, là một phần trong tôi. Lời nguyện của Quan Thế Âm Bồ Tát, vị cứu tinh của Phật giáo Đại thừa, là mọi chúng sinh phải sát cánh bên nhau. Bởi vì trên thực tế, con người không thể hành động khác được.</p><p></p><p> Tôi sẽ dừng ở đây. Tôi hi vọng tôi đã chuyển tải được thông điệp rằng việc tìm hiểu trường phái triết học khác là điều đáng làm, nó sẽ giúp bạn bởi bạn có thể đánh giá sự vật liên quan tới những vấn đề các triết gia Phương Tây quan tâm trên những quan điểm triết học khác nhau và bạn có thể có những quan điểm thú vị hoàn toàn mới và khác biệt.”</p><p></p><p><em>Sưu tầm</em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 111491, member: 7"] [CENTER][SIZE=4][B]Triết học phương Đông và phương Tây: Kỳ 2[/B][/SIZE] [/CENTER] Graham Priest, giáo sư Triết học tại Đại học Melbourne, tiếp tục trình bày về ba dòng triết học phương Tây, triết học Trung Quốc và Ấn Độ. [CENTER][IMG]https://www.bayvut.com.au/sites/default/files/imagecache/story_460/story-images/r287402_1226081.jpg[/IMG] [/CENTER] Quan điểm cho rằng một số sự vật trống rỗng được biết đến trong triết học phương Tây nhưng quan điểm cho rằng mọi vật đều trống rỗng như trong Phật giáo thì chưa được người phương Tây biết đến. (ABC) “Vào khoảng cùng một thời điểm, những triết lý quan trọng trong cả ba nền văn hóa đều thăng hoa. Giai đoạn quyết định này là vào khoảng thế kỷ V. Ở phương Tây có bộ ba của Hy Lạp: Socrates, Plato và Aristotle. Ở Ấn Độ có Phật tổ và Mahvira, người sáng lập đạo Gai-na. Ở Trung Quốc có Lão Tử, người được cho là sáng lập ra Đạo Lão và Khổng Tử, tổ sư của Đạo Khổng. Đây là thời kỳ triết học phát triển nhanh chóng trên khắp thế giới. Tại sao vậy? Đây là câu hỏi hay nhưng chưa có lời giải đáp. Tiếp theo đó là quá trình phát triển của những quan điểm này. Chúng ta không điểm lại tất cả những tên tuổi vì sẽ mất rất nhiều thời gian. Tuy nhiên, tôi sẽ nêu một số chi tiết chính trong triết học phương Tây. Trong khoảng thời gian từ năm 800 tới năm 1600, tôn giáo thống trị tại đây là Thiên Chúa giáo. Do vậy, các triết gia vĩ đại là các giáo sĩ và dù họ nói về nhiều nội dung khác ngoài triết học của tôn giáo nhưng tôn giáo luôn ăn sâu trong suy nghĩ của họ. Trong truyền thống của Ấn Độ, người ta thấy nền móng của các trường phái đạo Hindu chính thống xuất hiện vào khoảng thế kỷ đầu sau Công Nguyên và Đạo Phật nguyên thủy là một trong những môn phái không chính thống được truyền bá trong vòng 500 năm, sau đó phát triển thành Phật giáo Đại thừa. Nagarjuna và Vasubandhu là những nhân vật quan trọng trong Phật giáo Đại thừa. Đạo Phật bị đẩy khỏi Ấn Độ do sự lấn át của Đạo Moghul và do xung đột giữa những người theo đạo Hindu và Đạo Hồi. Tuy nhiên, Đạo Phật tiếp tục được du nhập sang Trung Quốc. Chính vì vậy, triết học cổ điển của Trung Quốc là Đạo Lão và Đạo Khổng nhưng chúng ta thấy có sự ảnh hưởng của Đạo Phật tại đây trong giai đoạn chuyển giao của thời kỳ sau công nguyên. Sau đó, các trường phái Phật giáo đặc trưng của Trung Quốc được phát triển trong vòng 600 năm sau. Mọi người có lẽ đã nghe nói đến trường phái Thiền Tông (Chan), hay Zen trong tiếng Nhật. Những thông tin trên có thể giúp khán giả hiểu về bối cảnh lịch sử, mặc dù tôi nêu rất tóm tắt về triết học phương Đông. Nếu có sự khác biệt giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây thì đó chính là cuộc cách mạng khoa học ởphương Tây. Cuộc cách mạng này có ảnh hưởng lớn tới triết học. Cuộc cách mạng đã đẩy tôn giáo và đưa khoa học vào trung tâm của triết học. Ấn Độ và Trung Quốc chưa trải qua một cuộc cách mạng tương tự. Do vậy, triết học phương Đông không có những điểm tương đồng với sự phát triển của triết học phương Tây sau cuộc cách mạng khoa học. Đây là điểm khác biệt quan trọng nhưng nó không có nghĩa là triết học của phía bên kia (phương Đông) tệ hơn. [B] Thuyết siêu hình[/B] Giờ đây, tôi muốn tiếp tục minh họa ý tưởng cho rằng triết học của nửa bên kia vừa tương đồng vừa khác biệt. Tôi chỉ nêu vài vấn đề triết học và phác họa ngắn gọn để minh họa cho ý tưởng này. Tôi sẽ dẫn chứng một số quan điểm từ triết lý Phật giáo, một trong những triết lý tôi hiểu sâu sắc nhất. Bắt đầu là siêu hình học. Thuyết siêu hình, ở một mặt nào đó, là khoa học nghiên cứu bản chất của thực tế cuộc sống. Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại Thừa, có vai trò đặc biệt trong đó. Phật giáo Đại Thừa cho rằng mọi vật đều rỗng không, nghe có vẻ thú vị nhưng điều đó có nghĩa là gì? Đó là một vấn đề khó. Điều đó có nghĩa phủ nhận mọi tình trạng tự tồn tại. Vấn đề này nghĩa là gì? Tôi sẽ tiếp tục giải thích bằng một ví dụ trong triết học phương Tây. Vào thế kỷ thứ 17 đã xảy ra cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Newton và Leibniz về bản chất của không gian và thời gian. Câu hỏi tập trung là: Có thể nhấc cả vũ trụ và di chuyển 5 dặm về phía đông và thả xuống không? Liệu mọi thứ có xảy ra giống như hiện nay không, không kể là thời gian đã là nửa giờ sau? Newton trả lời ‘có’ với cả hai câu hỏi trong khi Leibniz trả lời ‘không’. Newton lý giải rằng không gian và thời gian giống như những chiếc thùng và có thể cho rằng mỗi chiếc thùng chứa những thực thể của thực tại và những thứ chứa bên trong luôn tồn tại trong đó. Không gian là một cái gì đó vẫn cứ tồn tại nếu không có sự việc nào xảy ra trong không gian và thời gian. Thời gian cũng giống như vậy. Như vậy không gian và thời gian tự tồn tại và không phụ thuộc vào những thứ khác. Leibniz trả lời ‘không’ và lý giải rằng không thể nâng mọi thứ lên, chuyển sang phía đông 5 dặm hay mọi thứ có thể bắt đầu y như cũ 5 phút sau. Bởi vì mọi vật không thực sự thay đổi. Thời gian và không gian không phải là những chiếc thùng lớn để bạn cho mọi thứ vào. Thời gian và không gian chỉ là mối quan hệ bên trong giữa các sự kiện xảy ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, nếu các mối quan hệ, giữa cái trước và cái sau, giữa cái phải và trái và mọi thứ đều giống nhau thì sẽ không thứ gì thay đổi. Như vậy, nếu có thể dịch chuyển mọi vật 5 dặm về phía đông, tất cả những mối quan hệ trong không gian sẽ duy trì ở trạng thái cũ, không thay đổi. Nếu bạn có quan điểm như trên về không gian và thời gian thì như vậy không gian và thời gian không có trạng thái tự tồn tại giống nhau, trạng thái tồn tại bản thể học như Newton đã đưa ra. Theo cách nói của triết học Phật giáo, Newton cho rằng không gian và thời gian tự tồn tại và không phụ thuộc vào các sự vật khác. Tuy nhiên, theo Leibniz, không gian và thời gian không tự tồn tại, nó chỉ nằm trong hệ thống mối quan hệ tương hỗvới nhau. Nói cách khác, theo cách nói của Phật giáo, không gian và thời gian không tự tồn tại mà tồn tại trong mối quan hệ với các sự vật khác. Triết lý Phật giáo - Phật giáo Đại thừa, cho rằng không chỉ không gian và thời gian trống rỗng mà mọi thứ đều trống rỗng. Nghĩa là mọi thứ đều tồn tại nhưng tồn tại trong mối quan hệ với các sự vật khác. Lấy ví dụ là tôi và các bạn, chúng ta tồn tại trong mối quan hệ với các vật chất khác, những vật chất này lại tồn tại trong mối quan hệ với những sự vật khác nữa…v.v. Như vậy, không có gì có thể tự tồn tại. Triết lý phương Tây bị chiếm lĩnh bởi tư tưởng cho rằng có những chất, những sự vật có thể tồn tại thậm chí khi mọi vật đã biến mất. Triết lý Phật giáo cho rằng không có sự vật nào như vậy, không có những sự vật tự tồn tại, mọi thứ đều không thể tự tồn tại. Và như tôi đã trình bày, quan điểm cho rằng một số sự vật trống rỗng được biết đến trong triết học phương Tây. Tuy nhiên, quan điểm cho rằng mọi vật đều trống rỗng chưa được người phương Tây biết đến. Điều này có hệ quả của nó. Một điều những tín đồ đạo Phật luôn bị đặt nghi vấn là: nếu mọi thứ liên quan đến những thứ khác và tồn tại trong mối quan hệ với sự vật khác sẽ không có gì thực sự tồn tại. Phải có nền tảng nào đó, nếu không sẽ không có gì có thể tạo nên mối quan hệ đó. Có một câu chuyện kể về Bertrand Russell, người đã thuyết trình tại London vào năm 1910. Bertrand Russell giảng dạy môn vũ trụ học phương Tây. Russell cho biết: “Người Hy Lạp cổ cho rằng Trái Đất phẳng: điều gì làm cho Trái Đất không rơi? Trái Đất phải dựa vào một sự vật nào đó. Trái Đất có thể dựa vào cái gì? Một con rùa.” Suy nghĩ về vấn đề này một thời gian và họ nhận ra rằng họ không thể tiến xa hơn. Và Russell tiếp tục bài giảng. Đột nhiên, ông chuyển sang các học thuyết khác về vũ trụ. Vào cuối buổi học, một bà cụ nhỏ bé trong đám khán giả chạy vội về phía Russell và nói: “Ngài Russell, tôi có câu trả lời. Chính là là những chú rùa chống đỡ cả Trái Đất.” Trích dẫn này khá kỳ lạ bởi vì nếu một con rùa không thể chống đỡ được Trái Đất, vô cực những chú rùa cũng không thể đỡ được. Đây là trực giác mà những người phê phán đạo Phật vin vào. Tuy nhiên, nếu bạn theo Đạo Phật, đúng là những con rùa đỡ bên dưới Trái Đất. Điều này phụ thuộc vào điều kia, lần lượt như vậy và sẽ không có vấn đề gì với điều này cả nếu bạn cho rằng mọi thứ tồn tại trong trạng thái rơi tự do - chính là quan điểm mà những người theo đạo Phật nhìn nhận thực tiễn. [B] Đạo đức[/B] Đó là tất cả những gì tôi muốn trình bày về thuyết siêu hình. Sau đây tôi muốn nói đôi chút về đạo đức. Đạo Phật cũng có quan điểm về đạo đức khá đặc biệt. Quan điểm này xoay quanh ý tưởng cho rằng cuộc đời là bể khổ (all life is suffering - đó là cách nó vẫn thường được dịch). Trong học thuyết chính của đạo Phật - Tứ Diệu Đế do Phật đề ra - lời răn thứ nhất là ‘Đời là bể khổ’. Điều này không có nghĩa là con người không được hưởng lạc thú. Từ ‘khổ’ được dịch từ 'dukkha' trong tiếng Phạn và nên được dịch là ‘sự không thỏa mãn’. Điều này nghĩa là không có gì trong cuộc đời có thể hoàn hảo. Có những điều khiến ta không thể thỏa mãn với mọi thứ và cuối cùng con người sẽ chết đi nếu bạn may mắn. Bởi vì một lựa chọn khác là sống lâu với bệnh Alzheimer hay bệnh ung thư giai đoạn cuối. Điều này có thể xảy ra với tất cả mọi người và đức Phật hiểu được điều đó. Như vậy quan điểm đạo đức của nhà Phật là từ bỏ sự không thỏa mãn. Đức Phật cho rằng có cách để làm điều này. Đó là một tin tức tốt lành. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không đề cập tiếp tới vấn đề này… Đạo đức nhà Phật dựa trên ý tưởng cho rằng con người muốn chấm dứt sự khổ đau, trước tiên là nỗi khổ của chính mình. Trong Phật giáo, con người mong muốn chấm dứt nỗi thống khổ của chúng sinh. Về lý thuyết, đạo đức trung tâm của Phật giáo Đại thừa là lòng trắc ẩn. Nếu đọc tài liệu của Kant hay Aristotle về đức hạnh, họ sẽ lý giải tại sao một số điều được coi là đức hạnh. Phật giáo có quan niệm khác như sau: Bạn không cần có sức mạnh cao siêu để hiểu mong muốn từ bỏ nỗi thống khổ của bản thân có gì sai trái. Câu hỏi này đã tự trả lời cho chính nó. Không ai thích sự đau khổ. Tuy nhiên tại sao cần phải quan tâm tới nỗi đau khổ của người khác? Tại sao cần có lòng trắc ẩn đối với mọi người? Câu trả lời là: hãy quay trở lại một phép ẩn dụ khác về sự trống rỗng. Đây là phép ẩn dụ hay nhất trong các triết lý tôi từng biết, được gọi là ‘Lưới của Indra’ (The Net of Indra). Phép ẩn dụ này không có nguồn gốc từ Ấn Độ mặc dù Indra là vị thần Ấn Độ trong truyền thuyết. Phép ẩn dụ này bắt nguồn trong Phật giáo Trung Hoa. Truyền thuyết kể rằng Vị thần Ấn Độ Indra có một chiếc lưới vô tận ở mọi hướng và ở mỗi mắt lưới có một viên ngọc được mài sáng, vì vậy, mỗi viên ngọc phản chiếu những viên ngọc khác. Khi những viên ngọc phản chiếu lẫn nhau, giống như khi có vô số chiếc gương đặt đối diện nhau, khi nhìn vào một trong những chiếc gương, bạn có thể cảm nhận hình ảnh phản chiếu dường như vô tận. Đó chính là hình ảnh phản chiếu trong chiếc lưới ngọc của thần Indra. Đó cũng chính là phép ẩn dụ về sự trống rỗng bởi mỗi yếu tố trong cuộc sống giống như một viên ngọc trên chiếc lưới. Nó phản chiếu tất cả những viên ngọc khác và được phản chiếu trong tất cả các viên ngọc. Như vậy, mỗi sự vật, mỗi con người hòa nhập vào nhau như những viên ngọc không có đặc điểm riêng và chỉ đơn thuần là hình ảnh phản chiếu của tất cả những viên ngọc khác. Nếu bạn hiểu được hình ảnh siêu hình này, bạn sẽ hiểu tại sao lòng trắc ẩn được coi là đức hạnh, bởi vì ai cũng muốn chấm dứt nỗi đau khổ của bản thân, đúng vậy không? Bạn không cần phải là Einstein để có thể đưa ra kết luận. Tuy nhiên, tôi không từ bỏ hết nỗi đau khổ của mình khi nỗi thống khổ vẫn tồn tại trên những viên ngọc khác trong chiếc lưới. Bởi tất cả những viên ngọc đó, xét về mặt nào đó, là một phần trong tôi. Lời nguyện của Quan Thế Âm Bồ Tát, vị cứu tinh của Phật giáo Đại thừa, là mọi chúng sinh phải sát cánh bên nhau. Bởi vì trên thực tế, con người không thể hành động khác được. Tôi sẽ dừng ở đây. Tôi hi vọng tôi đã chuyển tải được thông điệp rằng việc tìm hiểu trường phái triết học khác là điều đáng làm, nó sẽ giúp bạn bởi bạn có thể đánh giá sự vật liên quan tới những vấn đề các triết gia Phương Tây quan tâm trên những quan điểm triết học khác nhau và bạn có thể có những quan điểm thú vị hoàn toàn mới và khác biệt.” [I]Sưu tầm[/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Đông và phương Tây
Top