Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
NGÔI NHÀ CHUNG
CAFE VnKienThuc
CHUYÊN NGÀNH khác
Luận văn, Tiểu luận
Triết học Phật giáo
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 29063" data-attributes="member: 699"><p><strong><span style="color: Blue">III. Nhân sinh quan Phật giáo.</span></strong></p><p></p><p>Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô thường, vô ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn đề nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:</p><p></p><p>–<em> Con người là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ?</em></p><p><em></em></p><p><em> Vị trí của con người trong Đạo Phật.</em></p><p><em></em></p><p><em>– Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ....</em></p><p><em></em></p><p><em>– Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo Phật là gì ?</em></p><p></p><p>Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.</p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Tứ diệu đế: </span></strong></p><p></p><p>Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ khưu trước kia đi theo Phật.</p><p></p><p>Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý Phật.</p><p><strong></strong></p><p><strong>Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.</strong></p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">a. Khổ đế:</span></strong></p><p></p><p> Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao mà khổ , phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.</p><p></p><p>Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát.</p><p></p><p>Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.</p><p></p><p>Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ. Như vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra khổ thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho người ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những cảm giác vui (lạc thú ) của cuộc đời mà còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả.</p><p></p><p>Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thoát khỏi tam giới vô thường, hư giả.</p><p></p><p>Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường lầm.</p><p></p><p>Theo cách phân tích khác <strong>Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:</strong></p><p></p><p><em>1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường chi phối nên khổ.</em></p><p><em></em></p><p><em>2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da, xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.</em></p><p><em></em></p><p><em>3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.</em></p><p><em></em></p><p><em>4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi chết thì phiền não vô cùng.</em></p><p><em></em></p><p><em>5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích, mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.</em></p><p><em></em></p><p><em>6, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.</em></p><p><em></em></p><p><em>7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.</em></p><p><em></em></p><p><em>8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng kiếp.</em></p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">b. Tập đế:</span></strong></p><p></p><p> Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:</p><p></p><p><em>1. Tham lam.</em></p><p><em>2. Giận dữ.</em></p><p><em>3. Si mê.</em></p><p><em>4. Kiêu mạn.</em></p><p><em>5. Nghi ngờ.</em></p><p><em>6. Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn).</em></p><p><em>7. Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ).</em></p><p><em>8. Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ).</em></p><p><em>9. Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng).</em></p><p><em>10. Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).</em></p><p></p><p></p><p><strong>Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc</strong>, là nguồn gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể hiện trong công thức sau:</p><p></p><p> <p style="text-align: center"><strong>Nghiệp</strong></p> <p style="text-align: center"><strong> Ái dục + Vô minh ––––> Sự khổ.</strong></p><p></p><p><strong><em>Ái dục:</em></strong> là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên rong ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.</p><p></p><p><em><strong>Vô minh:</strong></em> là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn. Vô minh che lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm, làm ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta, không quan tâm đến người sống quanh ta.</p><p></p><p><em><strong>Nghiệp</strong></em> là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.</p><p></p><p>Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi,... thì không gây nghiệp báo.</p><p></p><p><strong>Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.</strong></p><p></p><p><strong><em>Nghiệp thiện :</em></strong> là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho mình.</p><p></p><p><strong><em>Nghiệp ác:</em></strong> là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho mình.</p><p></p><p>Như vậy, Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra l<strong>ý thuyết thập nhị nhân duyên </strong>để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là:</p><p></p><p><em>1. Vô minh </em></p><p><em>2. Hành </em></p><p><em>3. Thức </em></p><p><em>4. Danh sắc. </em></p><p><em>5. Lục nhập</em></p><p><em>6. Xác</em></p><p><em>7.Thụ</em></p><p><em>8.Ái</em></p><p><em>9. Thù</em></p><p><em>10. Hữu</em></p><p><em>11.Sinh</em></p><p><em>12. Lão tử.</em></p><p></p><p></p><p>Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức luận Phật giáo.</p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">c. Diệt đế:</span></strong></p><p></p><p>Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.</p><p>Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết không còn luân hồi sinh tử nữa.</p><p></p><p>Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn khởi lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới <strong>Niết Bàn</strong>.</p><p></p><p><strong>Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.</strong></p><p></p><p><em>Thường là thường còn, không biến đổi.</em></p><p><em></em></p><p><em>Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.</em></p><p><em></em></p><p><em>Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.</em></p><p><em></em></p><p><em>Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.</em></p><p></p><p>Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt.</p><p></p><p>Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận và si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó, con người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để chứng được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.</p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">d. Đạo đế:</span></strong></p><p></p><p>Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.</p><p></p><p>Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường được đề cao là phương pháp 37 đạo phẩm.</p><p></p><p>Phương pháp này gồm có:</p><p></p><p><em>1. Tứ niệm xứ: 4.</em></p><p><em>2. Tứ chính cần: 4.</em></p><p><em>3. Tứ như ý túc: 4.</em></p><p><em>4. Ngũ cân: 5.</em></p><p><em>5. Ngũ lực: 5.</em></p><p><em>6. Bát chính đạo: 8.</em></p><p><em>7. Thất giác : 7.</em></p><p></p><p>Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát chính đạo gồm có:</p><p></p><p><em>1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.</em></p><p><em>2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.</em></p><p><em>3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.</em></p><p><em>4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.</em></p><p><em>5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.</em></p><p><em>6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.</em></p><p><em>7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu biểu là các vị Phật.</em></p><p><em>8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách chân chính, làm chủ được dòng tư duy.</em></p><p></p><p></p><p>Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ xung cho nhau.</p><p></p><p></p><p><strong>1. Giới học: </strong>là cả một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích để kiềm chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng ngày của con người, hướng con người sống theo đạo, thích hợp với đạo, tức là luôn hướng về thiện .</p><p></p><p>Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho người tu hành tại gia, tu xuất gia, cho nam giới, nữ giới, cho người mới vào đạo và người tu lâu ngày. Người tu hành phải giữ giới nghiêm túc thì mới định được. Nếu không giữ được tất con người luôn bị vọng dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định được.</p><p></p><p><strong>2. Định học</strong> là đình chỉ mọi tư tưởng xấu ý nghĩa xấu nguyên nhân phát sinh những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn là tập trung tư tưởng, suy nghĩ làm những việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc, tạo điều kiện cho tuệ phát ra.</p><p></p><p><strong>3. Tuệ học : </strong>là trí tuệ sáng suốt của người tu hành đã diệt được dục vọng, đã diệt được tam độc là tham, sân, si, đã thấu được lý vô thường, vô ngã do đó chỉ nghĩ đến làm điều thiện, mưu lợi cho chúng sinh.</p><p></p><p>Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác nhau là Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường mê lầm tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng ta có thể trả lời được các câu hỏi đã đặt ra ở trên.</p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2. Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo.</span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">a. Con người:</span></strong></p><p></p><p>Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai yếu tố chính: yếu tố sinh lý( sắc) và yếu tố tinh thần ( thụ, tưởng, hành, thức).</p><p></p><p>Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể. Sắc thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.</p><p></p><p>Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục, dị, diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng siêu nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã thì con người chết. Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng con người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không khác với con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường tồn mà chỉ là một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo ở kiếp sau.</p><p></p><p>Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một ý nghĩ, lời nói việc làm.</p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">b. Nhân vị trong đạo Phật.</span></strong></p><p></p><p>Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái. Ở một thời đại cổ xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan niệm hết sức tiến bộ đối với vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói:</p><p></p><p>“ Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt cũng mặn như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây chuyền ở cổ hay dấu tica trên trán ( dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ ) ”.</p><p></p><p>Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình. Phật thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Những người ở tầng lớp dưới sau khi tu đắc đạo đã được các đệ tử khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng phải tỏ lòng kính mến.</p><p></p><p>Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật còn đi xa hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như nhau và đang cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải thoát.</p><p>Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thoát, không có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị ràng buộc bởi ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những day dứt gây ra bởi dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao, cường quyền, tham nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ. </p><p></p><p>Từ đó, Phật chú trọng đến giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng bằng phương pháp tu hành diệt dục. Để sống tự do phật tử phải đấu tranh với bản thân mình để diệt trừ dục vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất công.</p><p></p><p>Người ta gọi đạo phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi.</p><p></p><p>Từ là hiền hoà, cho vui.</p><p></p><p>Bi là thương xót, cứu khổ.</p><p></p><p>Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhưng từ bi không phải là thủ tiêu mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trước mọi sự bất công, áp bức, tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh của từ bi để chống lại. Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo lực, bạo lực từ bi.</p><p></p><p>Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con người thực tâm tu luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu lợi ích cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì mục đích cuối cùng của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống đau khổ trong vô minh.</p><p></p><p>Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.</p><p></p><p>Như vậy, Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.</p><p></p><p>Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 29063, member: 699"] [B][COLOR="Blue"]III. Nhân sinh quan Phật giáo.[/COLOR][/B] Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô thường, vô ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn đề nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi: –[I] Con người là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ? Vị trí của con người trong Đạo Phật. – Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ.... – Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo Phật là gì ?[/I] Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên. [B][COLOR="Blue"]1. Tứ diệu đế: [/COLOR][/B] Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ khưu trước kia đi theo Phật. Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý Phật. [B] Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.[/B] [B][COLOR="Blue"]a. Khổ đế:[/COLOR][/B] Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao mà khổ , phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát. Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên. Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ. Như vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra khổ thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho người ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những cảm giác vui (lạc thú ) của cuộc đời mà còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả. Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thoát khỏi tam giới vô thường, hư giả. Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường lầm. Theo cách phân tích khác [B]Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:[/B] [I]1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường chi phối nên khổ. 2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da, xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm cho người ta phiền não. 3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ. 4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi chết thì phiền não vô cùng. 5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích, mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc. 6, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly. 7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình. 8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng kiếp.[/I] [B][COLOR="Blue"]b. Tập đế:[/COLOR][/B] Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau: [I]1. Tham lam. 2. Giận dữ. 3. Si mê. 4. Kiêu mạn. 5. Nghi ngờ. 6. Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn). 7. Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ). 8. Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ). 9. Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng). 10. Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).[/I] [B]Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc[/B], là nguồn gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể hiện trong công thức sau: [CENTER][B]Nghiệp Ái dục + Vô minh ––––> Sự khổ.[/B][/CENTER] [B][I]Ái dục:[/I][/B] là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên rong ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn. [I][B]Vô minh:[/B][/I] là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn. Vô minh che lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm, làm ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta, không quan tâm đến người sống quanh ta. [I][B]Nghiệp[/B][/I] là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi,... thì không gây nghiệp báo. [B]Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.[/B] [B][I]Nghiệp thiện :[/I][/B] là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho mình. [B][I]Nghiệp ác:[/I][/B] là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho mình. Như vậy, Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra l[B]ý thuyết thập nhị nhân duyên [/B]để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là: [I]1. Vô minh 2. Hành 3. Thức 4. Danh sắc. 5. Lục nhập 6. Xác 7.Thụ 8.Ái 9. Thù 10. Hữu 11.Sinh 12. Lão tử.[/I] Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức luận Phật giáo. [B][COLOR="Blue"]c. Diệt đế:[/COLOR][/B] Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại. Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết không còn luân hồi sinh tử nữa. Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn khởi lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới [B]Niết Bàn[/B]. [B]Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.[/B] [I]Thường là thường còn, không biến đổi. Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại. Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn. Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.[/I] Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt. Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận và si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó, con người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để chứng được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại. [B][COLOR="Blue"]d. Đạo đế:[/COLOR][/B] Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử. Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường được đề cao là phương pháp 37 đạo phẩm. Phương pháp này gồm có: [I]1. Tứ niệm xứ: 4. 2. Tứ chính cần: 4. 3. Tứ như ý túc: 4. 4. Ngũ cân: 5. 5. Ngũ lực: 5. 6. Bát chính đạo: 8. 7. Thất giác : 7.[/I] Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát chính đạo gồm có: [I]1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái. 2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người. 3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính. 4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà. 5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính. 6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn. 7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu biểu là các vị Phật. 8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách chân chính, làm chủ được dòng tư duy.[/I] Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ xung cho nhau. [B]1. Giới học: [/B]là cả một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích để kiềm chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng ngày của con người, hướng con người sống theo đạo, thích hợp với đạo, tức là luôn hướng về thiện . Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho người tu hành tại gia, tu xuất gia, cho nam giới, nữ giới, cho người mới vào đạo và người tu lâu ngày. Người tu hành phải giữ giới nghiêm túc thì mới định được. Nếu không giữ được tất con người luôn bị vọng dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định được. [B]2. Định học[/B] là đình chỉ mọi tư tưởng xấu ý nghĩa xấu nguyên nhân phát sinh những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn là tập trung tư tưởng, suy nghĩ làm những việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc, tạo điều kiện cho tuệ phát ra. [B]3. Tuệ học : [/B]là trí tuệ sáng suốt của người tu hành đã diệt được dục vọng, đã diệt được tam độc là tham, sân, si, đã thấu được lý vô thường, vô ngã do đó chỉ nghĩ đến làm điều thiện, mưu lợi cho chúng sinh. Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác nhau là Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường mê lầm tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng ta có thể trả lời được các câu hỏi đã đặt ra ở trên. [B][COLOR="Blue"]2. Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo. a. Con người:[/COLOR][/B] Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai yếu tố chính: yếu tố sinh lý( sắc) và yếu tố tinh thần ( thụ, tưởng, hành, thức). Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể. Sắc thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt. Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục, dị, diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng siêu nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã thì con người chết. Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng con người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không khác với con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường tồn mà chỉ là một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo ở kiếp sau. Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một ý nghĩ, lời nói việc làm. [B][COLOR="Blue"]b. Nhân vị trong đạo Phật.[/COLOR][/B] Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái. Ở một thời đại cổ xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan niệm hết sức tiến bộ đối với vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói: “ Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt cũng mặn như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây chuyền ở cổ hay dấu tica trên trán ( dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ ) ”. Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình. Phật thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Những người ở tầng lớp dưới sau khi tu đắc đạo đã được các đệ tử khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng phải tỏ lòng kính mến. Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật còn đi xa hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như nhau và đang cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải thoát. Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thoát, không có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị ràng buộc bởi ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những day dứt gây ra bởi dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao, cường quyền, tham nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ. Từ đó, Phật chú trọng đến giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng bằng phương pháp tu hành diệt dục. Để sống tự do phật tử phải đấu tranh với bản thân mình để diệt trừ dục vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất công. Người ta gọi đạo phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi. Từ là hiền hoà, cho vui. Bi là thương xót, cứu khổ. Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhưng từ bi không phải là thủ tiêu mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trước mọi sự bất công, áp bức, tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh của từ bi để chống lại. Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo lực, bạo lực từ bi. Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con người thực tâm tu luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu lợi ích cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì mục đích cuối cùng của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống đau khổ trong vô minh. Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời. Như vậy, Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể. Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
NGÔI NHÀ CHUNG
CAFE VnKienThuc
CHUYÊN NGÀNH khác
Luận văn, Tiểu luận
Triết học Phật giáo
Top