Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
NGÔI NHÀ CHUNG
CAFE VnKienThuc
CHUYÊN NGÀNH khác
Luận văn, Tiểu luận
Triết học Nho giáo và ảnh hưởng của triết học Nho giáo đến nền văn hóa truyền thống của Việt Nam
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 18588" data-attributes="member: 699"><p><strong>2. NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO :</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>2.1 Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo :</strong></p><p><strong></strong></p><p>Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.</p><p></p><p><em><strong>a- Tư Thư </strong></em>: là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy thời nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng giáo. Chúng bao gồm : Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.</p><p></p><p><strong><em>Đại học</em></strong> : Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước.</p><p></p><p>Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói của Khổng Tử.</p><p></p><p>Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ chí thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều) : cánh vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”).</p><p></p><p> <em><strong>Trung Dung :</strong></em> Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.</p><p></p><p>Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo “trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.</p><p></p><p>Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.</p><p></p><p><strong><em> Luận Ngữ </em></strong>: là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách.</p><p></p><p>Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.</p><p></p><p><em><strong> Mạnh Tử </strong></em>: Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của ông như : Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như : học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần : Tâm học và Chính trị học.</p><p></p><p> <em><strong>- Tâm học </strong></em>: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có sẳn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời.</p><p></p><p><em><strong>- Chính trị học :</strong></em> Mạnh Tử chủ trương : Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạotrong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử vô cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.</p><p></p><p><strong>b- Ngũ Kinh :</strong></p><p></p><p><em><strong> Kinh Thi</strong></em> : sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận Ngữ).</p><p></p><p><em><strong> Kinh Thư</strong></em> : ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.</p><p></p><p><strong><em> Kinh Lễ</em></strong> : ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).</p><p></p><p><em><strong> Kinh Dịch </strong></em>: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.</p><p></p><p> <em><strong>Kinh Xuân Thu :</strong></em> ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.)</p><p></p><p><strong><em>Kinh Nhạc:</em></strong> do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại ngũ kinh.</p><p></p><p><strong>2.2- Nội dung cơ bản của Nho giáo :</strong></p><p></p><p>Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo".</p><p></p><p><strong>a- Tu thân</strong></p><p></p><p>Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.</p><p></p><p> <strong>Tam Cương: T</strong>am là ba; Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).</p><p></p><p>- Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành một dạ.</p><p></p><p>- Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.</p><p></p><p>- Phu thê: Trong quan hệ chống vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.</p><p></p><p> <strong>Ngũ Thường</strong>: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.</p><p></p><p>- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.</p><p></p><p>- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.</p><p></p><p>- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.</p><p></p><p>- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.</p><p></p><p>- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.</p><p></p><p><strong> Tam Tòng:</strong> Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"</p><p></p><p>- Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.</p><p></p><p>- Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,</p><p></p><p>- Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"</p><p></p><p><strong> Tứ Đức</strong>: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.</p><p></p><p>- Công: khéo léo trong việc làm.</p><p></p><p>- Dung: hòa nhã trong sắc diện.</p><p></p><p>- Ngôn: mềm mại trong lời nói.</p><p></p><p>- Hạnh: nhu mì trong tính nết.</p><p></p><p><strong>Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân :</strong></p><p></p><p><em><strong>• Đạt Đạo.</strong></em> Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.</p><p></p><p><strong><em>• Đạt Đức.</em></strong> Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán Nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường.</p><p></p><p>•<em><strong> Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc</strong></em>. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.</p><p></p><p><strong>b- Hành đạo:</strong></p><p></p><p>Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:</p><p></p><p><em><strong>Nhân trị</strong></em>. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).</p><p></p><p><em><strong>Chính danh.</strong></em> Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).</p><p></p><p>Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.</p><p></p><p>Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).</p><p></p><p><strong>2.3- Các giai đoạn phát triển của Nho giáo Trung Hoa, các học giả tiêu biểu :</strong></p><p></p><p>Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 tr.CN) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.</p><p></p><p>Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni, Giê-xu,... người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần, hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời đã làm cho việc tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông.</p><p></p><p><strong>a- Nho giáo nguyên thủy</strong> : Thời Xuân Thu , Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ Kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận Ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử . Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.</p><p></p><p><strong>b- Hán Nho : </strong>Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".</p><p></p><p><strong>c- Tống Nho :</strong> Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.</p><p></p><p><strong>3. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRUNG HOA ĐẾN NỀN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA VIỆT NAM :</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>3.1- Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam :</strong></p><p></p><p>Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị trí chi phối cao nhất là từ thế kỷ 15 về sau. Trước đó, vào thời Trần, ảnh hưởng của Nho giáo chưa sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp còn áp dụng ít nhiều lễ giáo, còn trong dân gian và kể cả quan chức cấp thấp thì ảnh hưởng của Nho giáo chưa đáng kể.</p><p></p><p>Sự hình thành và phát triển Nho giáo ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng thịnh của các triều đại, là hệ tư tưởng gắn liên với giai cấp thống trị, nhưng xét về khía cạnh văn hóa, Nho giáo góp phần làm phong phú nền văn hóa Trung Hoa. Do vậy, sự phát triển và mở rộng của Nho giáo cũng tuân thủ những quy luật của sự mở rộng và phát triển của văn hóa. Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc. Quá trình đó diễn ra nhanh hơn, đồng bộ hơn việc thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam thời bấy giờ. Nếu không có sự xâm lược của các thế lực phong kiến đối với Việt Nam thì Nho giáo vẫn du nhập vào xã hội Việt Nam, nhưng quá trình đó sẽ diễn ra chậm hơn và không đồng bộ. Sự du nhập Nho giáo Việt Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực phương Bắc được thực hiện bởi các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa, được chính quyền đô hộ nâng đỡ, cho nên Nho giáo không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp hơn so với Phật giáo. Cho nên, trãi qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho giáo vẫn chưa xác lập được vị trí độc tôn trong đời sống. Trong suốt hơn một ngàn năm đó nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh giành độc lập dân tộc đã nỗ ra, nhưng hầu như không có sự tham gia của các nhà nho.</p><p></p><p>Chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã chấm dứt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Vào thời điểm này, Phật giáo có vị trí đặc biệt quan trọng. Các triều đại đầu tiên của nền độc lập như Ngô, Đinh, Lê không theo đạo Nho mà theo đạo Phật. Các nhà sư có vai trò to lớn và quyết định trong việc gây dựng triều Lý – nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở nước ta và cũng từ khi nhà Lý ra đời, do nhu cầu quản lý nhà nước mà nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho giáo. Vào thời điểm này sự đóng góp của các nhà sư vào sự ổn định đất nước là chủ yếu, nhưng xu hướng Nho giáo dần dần thay thế Phật giáo càng thấy rõ. Việc Lý Thánh Tông vào năm 1070 cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước.</p><p></p><p>Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng từ đó về sau, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục, pháp luật, chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến đầu thập kỷ 40. Như vậy, trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học - Nho giáo không thể không thắm vào các tầng lớp xã hội. Nó được thường xuyên tái lập và trở thành một trong những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam khá sâu đậm.</p><p></p><p><strong>3.2 Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền thống của Việt Nam :</strong></p><p></p><p>Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam.</p><p></p><p><strong>a- Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của xã hội cổ đại Việt Nam :</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>a1- Tích cực :</strong></p><p></p><p>- Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia.</p><p></p><p>- Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt Nam.</p><p></p><p>- Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển văn minh hơn.</p><p></p><p>- Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”.</p><p></p><p>- Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân.</p><p></p><p>- Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo.</p><p></p><p><strong>a2- Tiêu cực :</strong></p><p></p><p>- Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển.</p><p></p><p>- Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt.</p><p></p><p>- Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau.</p><p></p><p><strong>b-Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam :</strong></p><p></p><p>Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm lược.</p><p></p><p>Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức quân đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư tưởng và hành động.</p><p></p><p>Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.</p><p></p><p>- Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua.</p><p></p><p>- Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng tổ quốc.</p><p></p><p>- Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình. Cách mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất đai.</p><p></p><p>- Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niền tin vào thanh niên và tiền đồ dân tộc.</p><p></p><p>- Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới. Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo.</p><p></p><p><strong>C. KẾT LUẬN</strong></p><p></p><p>Nho giáo từ khi ra đời đến nay đã trên 2500 năm và đã từng ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc đến xã hội Việt Nam đã góp phần xây dựng một xã hội thịnh vượng, ổn định, có trật tự, có pháp luật, một quốc gia thống nhất.</p><p></p><p>Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới : dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta lại thường xuyên đụng đến những vấn đề Nho giáo. Nho giáo tuy không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống như trước nhưng nó vẫn còn hiện diện bám sát chúng ta và tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều bài học cả chính diện và phản diện. Chúng ta cần phải biết chắc lọc, tiếp thu và phát triển những tư tưởng của Nho giáo để giải quyết những vấn đề về gia đình, về mối quan hệ cá nhân và xã hội, về quản lý đất nước, về phát triển kinh tế, giáo dục… trong thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.</p><p>---------------------------------- </p><p>TÀI LIỆU THAM KHẢO</p><p></p><p>1. Đại cương triết học Việt Nam - PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu - Nhà xuất bản Thuận Hóa</p><p>2. Nho giáo Trung Quốc - Nguyễn Tôn Nhan - Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.</p><p>3. Giáo trình</p><p>4. Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại - Trần Đình Hượu - Nhà xuất bản giáo dục.</p><p>4. Tạp chí Văn hoá - Nghệ thuật, Hà Nội, số tháng 2/2003, bài “Nho giáo trong tương lai văn hoá Việt Nam”</p><p>5. Tạp chí Triết học, số 8, tháng 11-2001 bài “Chúng ta kế thừa tư tưởng gì ở Nho giáo” - Minh Anh.</p><p>6. Tạp chí Triết học, số 8, tháng 11-2001 bài “Nhân, nhân nghĩa, nhân chính trong “Luận Ngữ” và “Mạnh Tử”” - Hoàng Thị Bình</p><p></p><p><strong><em>(Sưu tầm)</em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 18588, member: 699"] [B]2. NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO : 2.1 Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo : [/B] Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. [I][B]a- Tư Thư [/B][/I]: là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy thời nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng giáo. Chúng bao gồm : Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử. [B][I]Đại học[/I][/B] : Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước. Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói của Khổng Tử. Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ chí thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều) : cánh vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”). [I][B]Trung Dung :[/B][/I] Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo “trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân. Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư. [B][I] Luận Ngữ [/I][/B]: là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách. Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo. [I][B] Mạnh Tử [/B][/I]: Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của ông như : Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như : học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần : Tâm học và Chính trị học. [I][B]- Tâm học [/B][/I]: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có sẳn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời. [I][B]- Chính trị học :[/B][/I] Mạnh Tử chủ trương : Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạotrong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử vô cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này. [B]b- Ngũ Kinh :[/B] [I][B] Kinh Thi[/B][/I] : sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận Ngữ). [I][B] Kinh Thư[/B][/I] : ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ. [B][I] Kinh Lễ[/I][/B] : ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ). [I][B] Kinh Dịch [/B][/I]: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện. [I][B]Kinh Xuân Thu :[/B][/I] ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.) [B][I]Kinh Nhạc:[/I][/B] do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại ngũ kinh. [B]2.2- Nội dung cơ bản của Nho giáo :[/B] Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo". [B]a- Tu thân[/B] Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình. [B]Tam Cương: T[/B]am là ba; Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ). - Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành một dạ. - Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng. - Phu thê: Trong quan hệ chống vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng. [B]Ngũ Thường[/B]: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. - Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật. - Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải. - Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người. - Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai. - Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy. [B] Tam Tòng:[/B] Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" - Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha. - Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng, - Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con" [B] Tứ Đức[/B]: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh. - Công: khéo léo trong việc làm. - Dung: hòa nhã trong sắc diện. - Ngôn: mềm mại trong lời nói. - Hạnh: nhu mì trong tính nết. [B]Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân :[/B] [I][B]• Đạt Đạo.[/B][/I] Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng. [B][I]• Đạt Đức.[/I][/B] Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán Nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường. •[I][B] Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc[/B][/I]. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện. [B]b- Hành đạo:[/B] Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm: [I][B]Nhân trị[/B][/I]. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ). [I][B]Chính danh.[/B][/I] Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ). Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi. Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường). [B]2.3- Các giai đoạn phát triển của Nho giáo Trung Hoa, các học giả tiêu biểu :[/B] Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 tr.CN) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo. Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni, Giê-xu,... người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần, hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời đã làm cho việc tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông. [B]a- Nho giáo nguyên thủy[/B] : Thời Xuân Thu , Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ Kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận Ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử . Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành. [B]b- Hán Nho : [/B]Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị". [B]c- Tống Nho :[/B] Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị. [B]3. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRUNG HOA ĐẾN NỀN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA VIỆT NAM : 3.1- Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam :[/B] Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị trí chi phối cao nhất là từ thế kỷ 15 về sau. Trước đó, vào thời Trần, ảnh hưởng của Nho giáo chưa sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp còn áp dụng ít nhiều lễ giáo, còn trong dân gian và kể cả quan chức cấp thấp thì ảnh hưởng của Nho giáo chưa đáng kể. Sự hình thành và phát triển Nho giáo ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng thịnh của các triều đại, là hệ tư tưởng gắn liên với giai cấp thống trị, nhưng xét về khía cạnh văn hóa, Nho giáo góp phần làm phong phú nền văn hóa Trung Hoa. Do vậy, sự phát triển và mở rộng của Nho giáo cũng tuân thủ những quy luật của sự mở rộng và phát triển của văn hóa. Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc. Quá trình đó diễn ra nhanh hơn, đồng bộ hơn việc thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam thời bấy giờ. Nếu không có sự xâm lược của các thế lực phong kiến đối với Việt Nam thì Nho giáo vẫn du nhập vào xã hội Việt Nam, nhưng quá trình đó sẽ diễn ra chậm hơn và không đồng bộ. Sự du nhập Nho giáo Việt Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực phương Bắc được thực hiện bởi các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa, được chính quyền đô hộ nâng đỡ, cho nên Nho giáo không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp hơn so với Phật giáo. Cho nên, trãi qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho giáo vẫn chưa xác lập được vị trí độc tôn trong đời sống. Trong suốt hơn một ngàn năm đó nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh giành độc lập dân tộc đã nỗ ra, nhưng hầu như không có sự tham gia của các nhà nho. Chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã chấm dứt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Vào thời điểm này, Phật giáo có vị trí đặc biệt quan trọng. Các triều đại đầu tiên của nền độc lập như Ngô, Đinh, Lê không theo đạo Nho mà theo đạo Phật. Các nhà sư có vai trò to lớn và quyết định trong việc gây dựng triều Lý – nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở nước ta và cũng từ khi nhà Lý ra đời, do nhu cầu quản lý nhà nước mà nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho giáo. Vào thời điểm này sự đóng góp của các nhà sư vào sự ổn định đất nước là chủ yếu, nhưng xu hướng Nho giáo dần dần thay thế Phật giáo càng thấy rõ. Việc Lý Thánh Tông vào năm 1070 cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước. Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng từ đó về sau, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục, pháp luật, chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến đầu thập kỷ 40. Như vậy, trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học - Nho giáo không thể không thắm vào các tầng lớp xã hội. Nó được thường xuyên tái lập và trở thành một trong những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam khá sâu đậm. [B]3.2 Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền thống của Việt Nam :[/B] Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam. [B]a- Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của xã hội cổ đại Việt Nam : a1- Tích cực :[/B] - Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia. - Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt Nam. - Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển văn minh hơn. - Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”. - Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân. - Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo. [B]a2- Tiêu cực :[/B] - Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển. - Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt. - Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau. [B]b-Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam :[/B] Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm lược. Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức quân đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư tưởng và hành động. Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. - Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua. - Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng tổ quốc. - Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình. Cách mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất đai. - Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niền tin vào thanh niên và tiền đồ dân tộc. - Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới. Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo. [B]C. KẾT LUẬN[/B] Nho giáo từ khi ra đời đến nay đã trên 2500 năm và đã từng ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc đến xã hội Việt Nam đã góp phần xây dựng một xã hội thịnh vượng, ổn định, có trật tự, có pháp luật, một quốc gia thống nhất. Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới : dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta lại thường xuyên đụng đến những vấn đề Nho giáo. Nho giáo tuy không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống như trước nhưng nó vẫn còn hiện diện bám sát chúng ta và tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều bài học cả chính diện và phản diện. Chúng ta cần phải biết chắc lọc, tiếp thu và phát triển những tư tưởng của Nho giáo để giải quyết những vấn đề về gia đình, về mối quan hệ cá nhân và xã hội, về quản lý đất nước, về phát triển kinh tế, giáo dục… trong thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. ---------------------------------- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đại cương triết học Việt Nam - PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu - Nhà xuất bản Thuận Hóa 2. Nho giáo Trung Quốc - Nguyễn Tôn Nhan - Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. 3. Giáo trình 4. Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại - Trần Đình Hượu - Nhà xuất bản giáo dục. 4. Tạp chí Văn hoá - Nghệ thuật, Hà Nội, số tháng 2/2003, bài “Nho giáo trong tương lai văn hoá Việt Nam” 5. Tạp chí Triết học, số 8, tháng 11-2001 bài “Chúng ta kế thừa tư tưởng gì ở Nho giáo” - Minh Anh. 6. Tạp chí Triết học, số 8, tháng 11-2001 bài “Nhân, nhân nghĩa, nhân chính trong “Luận Ngữ” và “Mạnh Tử”” - Hoàng Thị Bình [B][I](Sưu tầm)[/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
NGÔI NHÀ CHUNG
CAFE VnKienThuc
CHUYÊN NGÀNH khác
Luận văn, Tiểu luận
Triết học Nho giáo và ảnh hưởng của triết học Nho giáo đến nền văn hóa truyền thống của Việt Nam
Top