Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới khách quan

  • Thread starter Thread starter Butchi
  • Ngày gửi Ngày gửi

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
92
Để tồn tại, loài người phải thích nghi với môi trường sống của mình, nhưng con người không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách thụ động, mà luôn luôn tìm cách biến đổi thế giới đó theo những yêu cẩu cuộc sống của mình. Muốn vậy, con người phải hiểu thế giới xung quanh cũng như về chính bản thân con người. Thế giới quanh ta là gì? Nó bắt đầu từ đâu và có kết thúc hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và biến đổi của nó? Con người là gì, nó được sinh ra như thế nào, quan hệ của nó với bên ngoài ra sao? Nó có thể biết gì và làm gì với thế giới đó? Vì sao có người tốt kẻ xấu? Cuộc sống của con người có ý nghĩa gì, chết là còn hay hết, nếu hết thì sao và nếu còn thì ở đâu?... Những câu hỏi như vậy luôn được đặt ra ở mức độ khác nhau đối với con người từ thời nguyên thủy cho đến ngày nay và cả mai sau. Như vậy, sự khách quan cũng mang trong nó sự tồn tại thích nghi giữa tự nhiên, xã hội, không gian và thời gian.

Đặc tính của tư duy con người là muốn biết tận cùng, hoàn toàn đầy đủ, nhưng tri thức mà con người và cả loài người có được luôn luôn có hạn, trong khi thế giới thì vô hạn. Phải chăng đó là mấu chất của sự tranh luận mãi mà không đi đến nhất quán, buộc con người phải tin vào một cái gì đó, vật chất hay tinh thần?

Quá trình tìm tòi giải đáp những câu hỏi như trên đã hình thành ở con người -những quan niệm nhất định, trong đó những yếu tố về đức tin, niềm vui, cảm xúc, trí tuệ, tri thức... hòa quyện với nhau trong một khối thống nhất. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song, tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi đã trở thành niềm tin của con người qua sự thể nghiệm lâu dài trong cuộc sống của nó. Sự hình thành đức tin là do mơ ước về một cội nguồn, còn sự hình thành lý tưởng là trình độ phát triển cao của trí tuệ nhìn nhận về thế giới quan.​
Toàn bộ những quan niệm về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân.'và cuộc sống (sống và chết) của con người và loài người hợp thành thế giới quan của một con người, một cộng đồng người trong mỗi thời đại nhất định. Như vậy, thế giới quan bao hàm nguồn gốc con người, mối quan hệ của con người, tức là nhân sinh quan và toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con người, loài người sinh ra con người.

Tin vào nguồn gốc phát sinh ra con người từ đức tin là phương pháp cảm nhận thế giới rất đặc trưng của logic hệ thống đơn giản, có từ "tư duy nguyên thủy", đó là hình thái biểu hiện một cách tập trung và khái quát thế giới quan của hệ thống logic tình cảm, có từ khi con người xuất hiện. Trong những câu chuyện xưa kia viết lại về nguồn gốc loài người chứa đựng những yếu tố tri thức và xúc cảm, logic và lý trí sơ khai, hiện thực và mơ ước, cái có thật và văn chương... hòa quyện vào nhau, diễn tả thế giới quan bằng hệ thống ngôn ngữ dân gian cho cả một cộng đồng người, một dân tộc:

Trí tuệ của con người ngày càng tiến bộ cùng với sự phát triển ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp của hoạt động thực tiễn, tính tích cực của tư duy con người đạt bước chuyển biến mang tính cách mạng khoa học nhờ xuất hiện các công cụ thực nghiệm nối dài tầm với của giác quan vào nhận thức thế giới. Con người bước đầu có ý thức về mình như một thực thể tách khỏi tự nhiên, tư duy con người hướng sự "phản tư" (tiếng Hy Lạp: reflxio nghĩa là suy ngẫm, đánh giá) vào chính hoạt động của bản thân mình, từ đó một phương thức mới của tư duy để nhận thức thế giới được hình thành - tư duy triết học. Khác với thần học, huyền thoại, văn chương, triết học diễn tả thế giới quan của con người dưới dạng xây dựng khái niệm, hệ thống các phạm trù, tiên đề. Các quy luật, hệ thống mô hình vận động của triết học đóng vai trò như những bậc thang giá trị trong quá trình nhận thức thế giới. Trong thần học, yếu tố đức tin là biểu tượng đóng vai trò chủ đạo; còn trong triết học thì tư duy, lý luận là yếu tố chủ đạo. Với ý nghĩa như vậy, triết học được xem như là nhà phẫu thuật trong quá trình khám phá thế giới, là học thuyết về sự khám phá đó, là thế giới quan. Đương nhiên, thế giới quan được hình thành từ toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của con người và xã hội loài người, song, bản thân nó phải chấp nhận một tiên đề là sự "khoanh vùng" của tư duy là một giới hạn khoa học để xác định con người và vũ trụ. Tri thức do các khoa học cụ thể đưa lại là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành những quan niệm nhất định về từng mặt, từng bộ phận của thế giới theo tri thức triết học. Với những phương thức tư duy đặc thù của mình, triết học tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những quan điểm chung nhất về thế giới theo một tiên đề hay như một chỉnh thể, trong đó có con người và mối quan hệ của nó với thế giới chung quanh cũng như thế giới chung quanh với con người và con người với con người.

Như vậy, triết học là nhận thức có tính hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Có nghĩa là, triết họe là thế giới quan và nhân sinh quan của con người khi xem xét thế giới và loài người trong mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, giữa con người với con người trong tự nhiên và xã hội.

Vũ Gia Hiền
Triết học từ góc độ biện chứng duy vật, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top