Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trận chiến Điện Biên Phủ - Jules Roy
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 88791" data-attributes="member: 17223"><p>Ngày 20 tháng mười một 1953</p><p></p><p></p><p>Lúc 4 giờ 30 sáng, theo sau một máy bay bốn động cơ Privateer của không quân trên biển, thường được dùng để thám hiểm vùng biển xa và là máy bay sẽ thăm dò khí tượng, chiếc máy bay Dakota số 356 được trang bị những máy thông tin đảm bảo mọi đường liên lạc của công việc chỉ huy, cất cánh từ một sân bay tại Hà Nội. Phi hành đoàn chở theo một đoàn gồm các sĩ quan cấp tướng có trách nhiệm mờ màn hoặc huỷ bỏ cuộc hành binh ghê gớm nhất trong cuộc chiến tranh Đông Dương. </p><p></p><p>Sau một đường lượn tròn bên trên những ánh đèn của thành phố, bởi lẽ lúc này trời còn tối, viên phi công hướng mũi máy bay sang hai mươi độ so với hướng chính tây, tắt các đèn đỗ tại chỗ và giữ tốc độ chậm. Vào khoảng 5 giờ 45, khi mà ngày bắt đầu rạng, những khuôn mặt áp chặt vào cửa kính máy bay nhìn thấy, giữa trung tâm của một giải lô nhô những đỉnh núi đang bám vào vầng sáng của buổi bình minh, một khu lòng chảo kéo dài đang tích tụ một khối lớn lớp tuyết bốc thành hơi. Tướng Bodet, phó tướng của Navarre và tướng Dechaux bước lại bên Gilles, lúc này đang đưa con mắt độc nhất, sục sạo rặng núi lờ mờ mà một thảm thực vật nhiệt đới che phủ là những cánh rừng và những rặng tre rậm rạp. Dechaux cúi khom thân hình cao lớn của mình để đứng ngang tầm với mẩu thuốc lá nhô ra dưới chòm râu của Bodet. </p><p></p><p>- Sắp sáng rồi sao? Gilles hỏi. </p><p></p><p>Xám nhạt và bồng bềnh, như sủi bọt khi gặp những dốc núi đầu tiên và trườn mình chui xuống các vực sâu, đó là màn sương mù lộ dần dưới những tia sáng mặt trời đầu tiên. Các viên tướng nhìn nhau lắc đầu. </p><p></p><p>Chiếc Dakota tiếp tục bay thẳng, tiến về đường biên giới của Trung Quốc, vài phút sau đó bẻ hướng sáu mươi nhăm độ sang trái, theo hướng tây nam để tới được giải thung lũng dốc xuống thành từng đoạn uốn lượn rộng về phía sông Mékong. Lúc 6 giờ 30, văn bản đã giải mã của bức điện do máy vô tuyến đánh về cho khu thành cổ ở Hà Nội được chuyển tới trụ sở của Cogny, bên bờ hồ Hoàn Kiếm: "Ở Điện Biên Phủ, sương mù đang tan dần". </p><p></p><p>Gilles tỳ cằm lên lòng bàn tay và ngả người vào lưng ghế ngồi, nét mặt cau có. Một năm trước đây, ông ta giam mình trong cứ điểm Nà Sản và trải qua các đêm dài chờ đợi những cuộc tấn công của quân Việt. Vào thời kỳ đó, tôi đã trông thấy khuôn mặt lạnh như đá, với ánh mắt loé sáng và tấm thân nặng nề của ông ấy di chuyển trong hang rồi buông mình xuống một cái giường dã chiến, trong một vài thời điểm yên tĩnh, bị cắt đứt bởi tiếng chuông của những chiếc máy bộ đàm bọc da. Các sĩ quan và các thư ký nâng những tấm chăn được dùng để che cửa ra vào, đặt các giấy tờ lên bàn làm việc của ông, trên đó một chiếc đồng hồ sáng loáng nằm bên những bản kế hoạch chỉ huy; lúc đó tiếng rì rầm trò chuyện và tiếng lách cách của máy chữ vọng vào; những bức tường phủ kín bằng những chiếc chiếu cùng những mảnh trần ghép bằng những thân cây rừng hạn chế tới một nửa cường độ của những tiếng động ấy; trên trần có mắc những chiếc bóng đèn điện cháy sáng suốt ngày đêm. Chốc chốc những lớp vụn đất đỏ đổ ào xuống. </p><p></p><p>Ông đã yên lành ra khỏi nơi đó, cái chàng trai Gilles, và đã giành được ngôi sao cấp hàm thiếu tướng bên bờ chiếc bẫy khổng lồ đó, chiếc bẫy có thể đổ sập lên người ông và giết chết ông bất cứ lúc nào. Đối phương đã bị chùn bước trước hệ thống phòng ngự của ông, nhưng nguy cơ một cuộc tấn công tổng lực luôn luôn lơ lửng trên đầu cứ điểm bị bao vây. Gilles biết rõ rằng, nếu như họ muốn và nếu như họ chịu đặt giá thì quân Việt sẽ đánh bại ông. Và rồi, ông không ưa gì cái thị trấn của lũ chuột chũi, ở đó mỗi khi người ta bước ra khỏi hầm hào là chạm phải hoả lực của đối phương. Niềm thích thú của ông, đó là được tung các tiểu đoàn qua khung cửa mở rộng của những chiếc Dakota, nhảy chụp xuống một đối phương bị bất ngờ, nghiền nát tất cả thành từng mảnh và quay trở về hết sức khẩn trương trên đường ray của một cuộc hành binh được tổ chức tốt, giữa ban ngày. Cho nên khi quân Việt rút đi, ông đã yêu cầu được dời khỏi nơi đó. </p><p></p><p>Người ta đã quay lại tìm ông để chỉ huy cuộc hành binh Castor. Làm lại một Nà Sản, ở đó các đơn vị ưu tú đã rơi vào tình thế bất động, ở đó mọi đồ tiếp tế đều phải rơi như mưa từ trên rơi xuống và lần này, ở một khoảng cách xa gấp đôi đến các hậu cứ. Ở vị trí của Gilles, người ta chỉ biết phục vụ các ý đồ của bộ tổng chỉ huy và chấp hành. Ông sẽ ném binh đoàn của mình xuống, cột chặt nó vào mặt đất rồi nhường lại chỗ cho một ai đó, bởi lẽ sức khoẻ của ông đã có những dấu hiệu đáng lo ngại. Mong muốn này người ta đảm bảo sẽ tôn trọng. </p><p></p><p>Khi chiếc Dakota, từ phía nam bay ngược lên, màn sương mù gần như đã tan, trải mình thành những giải dài trên đỉnh rặng núi. Người ta đã phân biệt được đôi chỗ mảng ô vuông những ruộng lúa màu vàng và màu xám nhạt của Điện Biên Phủ. Một vải giải khói bốc lên từ các thôn bản, dưới ánh mặt trời lúc này đã lên cao. Một đợt gió mạnh từ Trung Quốc thổi tới đã quét sạch những khối mây lớn mầu xám, từ hai ngày nay tích tụ lại trên bầu trời vùng thượng du. Viên phi công rẽ ngang và giảm bớt hoạt động của động cơ. </p><p></p><p>Lúc 7 giờ 20, ở Paris là 24 giờ 20, bức điện ngắn mà tướng Cogny nhận được và truyền đạt lại, gây ra sự xáo động mạnh. Các viên chỉ huy đơn vị chỉ từ ngày hôm qua mới được biết địa chỉ và mục tiêu mà mình phải tới. Chỉ mãi tới khi đứng dưới cánh máy bay, những người chấp hành được tập trung sẵn sàng hành động từ lúc trời còn tối đen mới được biết mình sẽ đi đâu, trận đánh diễn ra như thế nào. Và họ được lệnh lên máy bay. </p><p></p><p>Lúc 8 giờ 15, việc cất cánh của đoàn quân lớn bắt đầu. Trời lạnh. Khoảng sáu chục chiếc Dakota được tập trung từ ba ngày nay lần lượt cất cánh và tập hợp lại thành từng nhóm ba chiếc một, mũi máy bay sơn mầu xanh, vàng hay đỏ, hình thành một hàng dọc kéo dài hơn mười kilômét, hai bên sườn là những chiếc máy bay ném bom B.26 "Invaders". Trong mỗi chiếc máy bay vận tải, hai mươi bốn quân dù, thu mình trong khối trang thiết bị, đầu đội mũ dã chiến, hút thuốc, ca hát hay nhai kẹo cao su cho đỡ sốt ruột. Ý nghĩ rời khỏi chiếc máy bay ở đầu một sợi dây bao giờ cũng chỉ có thể khiến những người nào không nhảy cảm thấy dửng dưng.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 88791, member: 17223"] Ngày 20 tháng mười một 1953 Lúc 4 giờ 30 sáng, theo sau một máy bay bốn động cơ Privateer của không quân trên biển, thường được dùng để thám hiểm vùng biển xa và là máy bay sẽ thăm dò khí tượng, chiếc máy bay Dakota số 356 được trang bị những máy thông tin đảm bảo mọi đường liên lạc của công việc chỉ huy, cất cánh từ một sân bay tại Hà Nội. Phi hành đoàn chở theo một đoàn gồm các sĩ quan cấp tướng có trách nhiệm mờ màn hoặc huỷ bỏ cuộc hành binh ghê gớm nhất trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Sau một đường lượn tròn bên trên những ánh đèn của thành phố, bởi lẽ lúc này trời còn tối, viên phi công hướng mũi máy bay sang hai mươi độ so với hướng chính tây, tắt các đèn đỗ tại chỗ và giữ tốc độ chậm. Vào khoảng 5 giờ 45, khi mà ngày bắt đầu rạng, những khuôn mặt áp chặt vào cửa kính máy bay nhìn thấy, giữa trung tâm của một giải lô nhô những đỉnh núi đang bám vào vầng sáng của buổi bình minh, một khu lòng chảo kéo dài đang tích tụ một khối lớn lớp tuyết bốc thành hơi. Tướng Bodet, phó tướng của Navarre và tướng Dechaux bước lại bên Gilles, lúc này đang đưa con mắt độc nhất, sục sạo rặng núi lờ mờ mà một thảm thực vật nhiệt đới che phủ là những cánh rừng và những rặng tre rậm rạp. Dechaux cúi khom thân hình cao lớn của mình để đứng ngang tầm với mẩu thuốc lá nhô ra dưới chòm râu của Bodet. - Sắp sáng rồi sao? Gilles hỏi. Xám nhạt và bồng bềnh, như sủi bọt khi gặp những dốc núi đầu tiên và trườn mình chui xuống các vực sâu, đó là màn sương mù lộ dần dưới những tia sáng mặt trời đầu tiên. Các viên tướng nhìn nhau lắc đầu. Chiếc Dakota tiếp tục bay thẳng, tiến về đường biên giới của Trung Quốc, vài phút sau đó bẻ hướng sáu mươi nhăm độ sang trái, theo hướng tây nam để tới được giải thung lũng dốc xuống thành từng đoạn uốn lượn rộng về phía sông Mékong. Lúc 6 giờ 30, văn bản đã giải mã của bức điện do máy vô tuyến đánh về cho khu thành cổ ở Hà Nội được chuyển tới trụ sở của Cogny, bên bờ hồ Hoàn Kiếm: "Ở Điện Biên Phủ, sương mù đang tan dần". Gilles tỳ cằm lên lòng bàn tay và ngả người vào lưng ghế ngồi, nét mặt cau có. Một năm trước đây, ông ta giam mình trong cứ điểm Nà Sản và trải qua các đêm dài chờ đợi những cuộc tấn công của quân Việt. Vào thời kỳ đó, tôi đã trông thấy khuôn mặt lạnh như đá, với ánh mắt loé sáng và tấm thân nặng nề của ông ấy di chuyển trong hang rồi buông mình xuống một cái giường dã chiến, trong một vài thời điểm yên tĩnh, bị cắt đứt bởi tiếng chuông của những chiếc máy bộ đàm bọc da. Các sĩ quan và các thư ký nâng những tấm chăn được dùng để che cửa ra vào, đặt các giấy tờ lên bàn làm việc của ông, trên đó một chiếc đồng hồ sáng loáng nằm bên những bản kế hoạch chỉ huy; lúc đó tiếng rì rầm trò chuyện và tiếng lách cách của máy chữ vọng vào; những bức tường phủ kín bằng những chiếc chiếu cùng những mảnh trần ghép bằng những thân cây rừng hạn chế tới một nửa cường độ của những tiếng động ấy; trên trần có mắc những chiếc bóng đèn điện cháy sáng suốt ngày đêm. Chốc chốc những lớp vụn đất đỏ đổ ào xuống. Ông đã yên lành ra khỏi nơi đó, cái chàng trai Gilles, và đã giành được ngôi sao cấp hàm thiếu tướng bên bờ chiếc bẫy khổng lồ đó, chiếc bẫy có thể đổ sập lên người ông và giết chết ông bất cứ lúc nào. Đối phương đã bị chùn bước trước hệ thống phòng ngự của ông, nhưng nguy cơ một cuộc tấn công tổng lực luôn luôn lơ lửng trên đầu cứ điểm bị bao vây. Gilles biết rõ rằng, nếu như họ muốn và nếu như họ chịu đặt giá thì quân Việt sẽ đánh bại ông. Và rồi, ông không ưa gì cái thị trấn của lũ chuột chũi, ở đó mỗi khi người ta bước ra khỏi hầm hào là chạm phải hoả lực của đối phương. Niềm thích thú của ông, đó là được tung các tiểu đoàn qua khung cửa mở rộng của những chiếc Dakota, nhảy chụp xuống một đối phương bị bất ngờ, nghiền nát tất cả thành từng mảnh và quay trở về hết sức khẩn trương trên đường ray của một cuộc hành binh được tổ chức tốt, giữa ban ngày. Cho nên khi quân Việt rút đi, ông đã yêu cầu được dời khỏi nơi đó. Người ta đã quay lại tìm ông để chỉ huy cuộc hành binh Castor. Làm lại một Nà Sản, ở đó các đơn vị ưu tú đã rơi vào tình thế bất động, ở đó mọi đồ tiếp tế đều phải rơi như mưa từ trên rơi xuống và lần này, ở một khoảng cách xa gấp đôi đến các hậu cứ. Ở vị trí của Gilles, người ta chỉ biết phục vụ các ý đồ của bộ tổng chỉ huy và chấp hành. Ông sẽ ném binh đoàn của mình xuống, cột chặt nó vào mặt đất rồi nhường lại chỗ cho một ai đó, bởi lẽ sức khoẻ của ông đã có những dấu hiệu đáng lo ngại. Mong muốn này người ta đảm bảo sẽ tôn trọng. Khi chiếc Dakota, từ phía nam bay ngược lên, màn sương mù gần như đã tan, trải mình thành những giải dài trên đỉnh rặng núi. Người ta đã phân biệt được đôi chỗ mảng ô vuông những ruộng lúa màu vàng và màu xám nhạt của Điện Biên Phủ. Một vải giải khói bốc lên từ các thôn bản, dưới ánh mặt trời lúc này đã lên cao. Một đợt gió mạnh từ Trung Quốc thổi tới đã quét sạch những khối mây lớn mầu xám, từ hai ngày nay tích tụ lại trên bầu trời vùng thượng du. Viên phi công rẽ ngang và giảm bớt hoạt động của động cơ. Lúc 7 giờ 20, ở Paris là 24 giờ 20, bức điện ngắn mà tướng Cogny nhận được và truyền đạt lại, gây ra sự xáo động mạnh. Các viên chỉ huy đơn vị chỉ từ ngày hôm qua mới được biết địa chỉ và mục tiêu mà mình phải tới. Chỉ mãi tới khi đứng dưới cánh máy bay, những người chấp hành được tập trung sẵn sàng hành động từ lúc trời còn tối đen mới được biết mình sẽ đi đâu, trận đánh diễn ra như thế nào. Và họ được lệnh lên máy bay. Lúc 8 giờ 15, việc cất cánh của đoàn quân lớn bắt đầu. Trời lạnh. Khoảng sáu chục chiếc Dakota được tập trung từ ba ngày nay lần lượt cất cánh và tập hợp lại thành từng nhóm ba chiếc một, mũi máy bay sơn mầu xanh, vàng hay đỏ, hình thành một hàng dọc kéo dài hơn mười kilômét, hai bên sườn là những chiếc máy bay ném bom B.26 "Invaders". Trong mỗi chiếc máy bay vận tải, hai mươi bốn quân dù, thu mình trong khối trang thiết bị, đầu đội mũ dã chiến, hút thuốc, ca hát hay nhai kẹo cao su cho đỡ sốt ruột. Ý nghĩ rời khỏi chiếc máy bay ở đầu một sợi dây bao giờ cũng chỉ có thể khiến những người nào không nhảy cảm thấy dửng dưng. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trận chiến Điện Biên Phủ - Jules Roy
Top